TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÂY DỰNG LẮP
ĐẶT
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp
đặt .
1.1.1. Đặc điểm của ngành xây dựng – lắp đặt và vai trò của ngành xây dựng
trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.1.1. Đặc điểm của ngành xây dựng – lắp đặt.
Ngày nay nhờ sự tiến bộ của ngành khoa học khảo cổ người ta có
thể tìm thấy phế tích của những ngôi nhà, những tác phẩm nghệ thuật
hoặc dấu tích của nền văn minh xưa kia, điều đó chứng tỏ ngành xây
dựng đã có từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người. Người xưa đã để
lại cho chúng ta những kim tự tháp Maya, kim tự tháp Ai Cập rồi Vạn lý
trường thành hùng vĩ. Những kiến trúc hiện đại của con người ngày nay
là sự kế thừa, phát huy dựa trên nền tảng khoa học cũng như kỹ thuật
của những công trình xa xưa đó.
Công nghiệp xây dựng đang ngày càng thâm nhập sâu, rộng vào
đời sống của con người, từ những ngôi nhà ở thông thường phục vụ
cho nhu cầu thiết yếu của con người cho tới những công trình lớn như
đường hầm, nhà máy điện nguyên tử, nhà máy lọc dầu… hay những
khu vui chơi giải trí đều cần đến sự góp mặt của công nghiệp xây
dựng.Vì thế ngành công nghiệp xây dựng đã và đang trở thành một
phần không thể thiếu cho quá trình phát triển của xã hội loài người.
Ngày nay, ngành công nghiệp xây dựng đạt được những thành tựu
ngày càng to lớn, mức độ phức về kỹ thuật của nó ngày càng tinh vi
hơn, cơ sở hạ tầng mà nó tạo ra là một chuẩn mực đánh giá sự tiến bộ
của một quốc gia.
Tuy nhiên, một khó khăn đặt ra mà các dự án xây dựng đang phải
đương đầu đó là: sự hạn chế về nguồn vốn đầu tư, sự thiếu hụt ngày
càng gia tăng về nguyên vật liệu và các nguồn tài nguyên khác…cho
các công trình xây dựng. Song chính khó khăn đó đã trở thành động lực
để ngành công nghiệp xây dựng phát triển hơn trong điều kiện “tài
nguyên” có hạn. Vì vậy nó đã và đang ngày càng mở rộng và đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư.
Do những tính chất và đặc thù như vậy nên ngành xây dựng - lắp
đặt có những đặc điểm sau:
- Ngành xây dựng mang những đặc tính chung của cả ngành sản
xuất và ngành công nghiệp dịch vụ: Nó cũng có các sản phẩm vật chất
và thường gây ấn tượng về kích thước, giá thành và sự phức tạp về kỹ
thuật. Nhưng mặt khác ngành xây dựng lại mang dáng vẻ của một
ngành công nghiệp dịch vụ bởi lẽ nó không tích lũy vốn đáng kể so với
các ngành công nghiệp khác như thép, giao thông vận tải, dầu khí và
khai thác mỏ.
- Xây dựng là ngành bị cắt rời cao độ và đôi khi bị chia rẽ giữa các
thành phần của nó. Các bộ phận của ngành xây dựng là thiết kế, xây
dựng, tiêu thụ, … đều có thể đạt tới trình độ cao của nó và có rất ít triển
vọng để cho các bộ phận đó phù hợp với nhau.
- Công nghiệp xây dựng được đính hướng rất rõ rệt phục vụ cho
khách theo kiểu đặt hàng, và khách hàng thường hướng đến những tiêu
chí độc đáo mới lạ vì vậy yêu cầu đối với kỹ sư làm xây dựng ngày càng
cao hơn.
- Về nghiên cứu khoa học, tuy chưa đủ số liệu thống kê chính xác,
nhưng nói chung người ta thừa nhận rằng chỉ có một phần rất nhỏ
khoảng 1 % tổng thu nhập của ngành được đầu tư cho khoa học ứng
dụng và người ta bỏ qua nghiên cứu khoa học cơ bản – đây là một điều
tương phản mạnh mẽ so với các ngành khác.
- Ngành xây dựng trong quá trình thực hiện chịu tác động mạnh mẽ
của yếu tố ngoài trời. Vì vậy nó chịu rủi ro rất cao và ảnh hưởng đến
chất lượng công trình cũng như tiến độ thi công.
1.1.1.2. Vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành xây dựng có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Ở Việt Nam hiện nay cũng như trên thế giới nó quyết định
quá trình công nghiệp hoá đất nước, nó có ảnh hưởng và chi phối sự
phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế. Vai trò của nó được
thực hiện qua các mặt sau:
- Xây dựng là ngành sản xuất vật chất lớn nhất trong nền kinh tế
quốc dân, chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng GDP của nước ta. Hàng
năm nó chiếm một tỷ lệ lớn trong đầu tư của ngân sách nhà nước nhất
là một số nước có cơ sở hạ tầng chưa phát triển như Việt Nam.
- Ngành công nghiệp xây dựng liên quan hầu hết tới tất cả các
ngành khác trong nền kinh tế.
- Xây dựng cơ bản tạo điều kiện không ngừng nâng cao chất lượng
đời sống vật chất và tinh thần nhân dân. Nâng cao hiệu quả của các
hoạt động trong xã hội. Giúp cải thiện và nâng cao vần đề an ninh quốc
gia.
- Hàng năm ngành đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP. Giúp giải quyết
công ăn việc làm cho hàng triệu người
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ xây dựng lắp đặt
1.1.2.1. Trên thế giới.
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng như hoạt động sản xuất
kinh doanh dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con
người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Có rất
nhiều nguyên nhân, nhưng bất kể lý do gì khi xảy ra rủi ro thường đem
lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm
thu nhập, ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều tổ chức
và cá nhân. Làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Để
đối phó với các rủi ro, con người đã có rất nhiều biện pháp khác nhau
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả. Nhưng bảo hiểm vẫn là
biện pháp được ưu tiên sử dụng nhiều nhất.
Cùng với sự ra đời của ngành bảo hiểm nói chung thì bảo hiểm xây
dựng lắp đặt cũng xuất hiện. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là bộ phận
của bảo hiểm kỹ thuật. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm kỹ thuật
luôn gắn liền với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.
So với các loại hình bảo hiểm khác thì bảo hiểm kỹ thuật ra đời muộn
hơn rất nhiều. Đơn bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên trên thế giới được cấp
năm 1859, trong khi đó bảo hiểm hàng hải xuất hiện năm 1547, bảo
hiểm hoả hoạn năm 1667. Bảo hiểm kỹ thuật có mặt hầu hết trong các
lĩnh vực của hoạt động kinh tế và xã hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo
hiểm cho các máy móc sản xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong phòng
thí nghiệm cho tới bảo hiểm các công trình xây dựng lớn như các toà
nhà chọc trời, sân bay bến cảng, tàu vũ trụ, nhà máy điện nguyên tử…
Nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ - kỹ thuật làm cho bảo
hiểm kỹ thuật phát triển hơn bao giờ hết và trở thành một trong những
loại hình bảo hiểm quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm kỹ
thuật đã phát triển rất nhanh chóng và tương đối hoàn chỉnh, cho đến
nay đã có rất nhiều loại hình bảo hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật, các loại
hình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi loại đảm bảo cho một khâu
trong quá trình sản xuất.
Cho đến nay BHXDLĐ cũng như bảo hiểm kỹ thuật có sự phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Về mặt kỹ thuật NVBHXDLĐ
tương đối phức tạp với các loại hình bảo hiểm khác. Với xu thế phát
triển như hiện nay, nghiệp vụ còn phát triển xa hơn nữa trong tương lai.
1.1.2.2. Ở Việt Nam.
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975 và có sự xuất hiện của
Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Vịêt). Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
mới bắt đầu có sự phát triển nhất định. Ban đầu khi triển khai nghiệp vụ
BTC cho phép sử dụng đơn bảo hiểm, quy tắc và biểu phí của Công ty
Munich Re.
Sau khi đất nước mở cửa (1986) và hội nhập với nển kinh tế khu
vực và thế giới. Bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở nước ta có những bước
phát triển rất đáng mừng từ hành lang pháp lý cho đến sự hoạt động
của cung cầu bảo hiểm trên thị trường. Ngày 20/10/1994 Chính phủ ban
hành Nghị định 177-CP quy định về quản lý đầu tư. Điều 52 quy định rõ
các chủ đầu tư phải mua bảo hiểm công trình xây dựng, lắp đặt, các tổ
chức tư vấn xây lắp, nhà thầu xây lắp phải mua bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho các phẩm tư vấn, thiết bị vật tư nhà xưởng phục vụ thi
công, tai nạn lao động đối với người lao động, trách nhiệm dân sự đối
với người thứ ba trong quá trình thực hiện dự án. Nghị định 42/CP thay
thế NĐ 77/CP, thông tư số 663/TC/ĐT- TCNH ngày 24/06/1996 về việc
ban hành quy tắc và biểu phí, phụ phí và khấu trừ bảo hiểm mọi rủi ro
xây dựng và lắp đặt. Đơn BHXD và LĐ đầu tiên ở Việt Nam được cấp là
đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt cho trạm thu phát vệ tinh mặt đất Láng
Trung. Đây là công trình liên doanh giữa tổng công ty Bưu chính viễn
thông Việt Nam và hãng Teltra của Úc. Và gần đây nhất ngày
12/04/2004 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số
33/2004/QĐ-BTC về việc ban hành quy tắc, biểu phí bảo hiểm xây
dựng, lắp đặt.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đang ngày càng cạnh tranh
khốc liệt, bên cạnh các “đại gia” của bảo hiểm Việt Nam như Bảo Việt,
Bảo Minh, PJICO, PVI… thì ngày càng xuất hiện nhiều công ty mới gia
nhập thị trường như: BIC (trước đây là liên doanh bảo hiểm Việt- Úc),
AAA, Liberty...Hiện nay nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt đóng góp
một tỷ lệ đáng kể trong tổng doanh thu phí của các công ty bảo hiểm và
lợi ích của toàn xã hội.
1.1.3. Sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
1.1.3.1. Đối với xã hội.
Bảo hiểm là ngành dịch vụ, có vị trí ngày càng quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho
nền kinh tế mà điều quan trọng là góp phần đảm bảo ổn định tài chính
cho các cá nhân tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày nay
bảo hiểm không còn xa lạ mà đã len lỏi đến mọi làng quê, mọi cơ quan,
doanh nghiệp, và đã thâm nhập vào mọi hoạt động đời sống kinh tế xã
hội. Kinh tế càng phát triển, đời sống càng nâng cao thì nhu cầu bảo
hiểm càng lớn, càng xuất hiện nhiều nghiệp vụ mới. Sự ra đời và phát
triển của bảo hiểm là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu
của con người và vì con người. Tác dụng của bảo hiểm nói chung cũng
như NVBHXDLĐ đối với xã hội được thể hiện qua các điểm sau:
- Nó là nguồn thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế. Người tham gia
bảo hiểm đóng phí bảo hiểm tạo thành một nguồn quỹ lớn. Quỹ này
ngoài chi trả, trong trường hợp cần thiết còn đem đầu tư.
- Bảo hiểm thu hút một lượng lớn lao động góp phần giải quyết
công ăn việc làm tạo thu nhập cho người dân và đóng góp đáng kể vào
tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tích luỹ cho ngân sách nhà nước.
- Bảo hiểm góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa các nước, nhất
là thông qua hoạt động tái bảo hiểm. Hiện nay nước ta có rất nhiều công
ty và tập đoàn Bảo hiểm nước ngoài đầu tư và hoạt động như AIA,
Prudential,…
- Bảo hiểm trở thành chỗ dựa tinh thần cho mọi người, cho các tổ
chức giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt sản xuất kinh doanh,
bảo hiểm thể hiện rất rõ tính công đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc.
1.1.3.2. Đối với người được bảo hiểm.
Trong cuộc sống, không ai có thể lường trước được mọi rủi ro của
mình. Ngày hôm nay đang làm ăn phát đạt nhưng có thể ngày mai sụp
đổ mà nguyên nhân thì có vô vàn. Mỗi người đều thấy những hậu quả
nặng nề khi Tháp đôi Trung tâm thương mại thế giới NewYork sụp đổ
ngày 11/09/2002. Vụ nổ nhà máy hạt nhân Ucraina thế kỉ trước đó
( năm1986). Nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến những người ở đó
mà nó còn ảnh hưởng đến rất nhiều người, đôi khi là nền kinh tế của
một quốc gia. Vì vậy vấn đề ổn định sản xuất kinh doanh cũng như đời
sống cá nhân là điều rất quan trọng. Khi tiến hành xây dựng các công
trình lớn, nhà cao tầng hay tiến hành máy móc thiết bị chủ đầu tư hay
các chủ thầu nên tham gia bảo hiểm để không những đảm bảo về vốn
mà còn yên tâm về mặt tinh thần.
1.2. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ.
1.2.1. Nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng.
1.2.1.1. Đối tượng được bảo hiểm.
Là tất cả các công trình xây dựng công nghiệp, dân dụng mà kết
cấu có sử dụng đến ximăng, sắt thép.
Cụ thể đối tượng được bảo hiểm bao gồm:
- Nhà máy, xí nghiệp, kho tàng…
- Nhà ở, trường học, bệnh viện, trụ sở văn phòng, nhà hát…
- Đường sá: đường sắt, đường bộ, sân bay, nhà ga, bến cảng…
- Cầu cống, đê đập, hệ thống cấp thoát nước…
Đối tượng bảo hiểm của BHXD thường được chia thành hai phần
chính:
Phần I: Phần tổn thất vật chất: bao gồm các hạng mục chủ yếu sau:
- Cấu trúc chủ yếu của các công trình xây dựng (giá trị công trình)
- Các trang thiết bị xây dựng, các loại máy móc thiết bị được sử
dụng trong quá trình xây dựng.
- Chi phí dọn dẹp (các chi phí phát sinh do di chuyển, dọn dẹp các
chất phế thải xây dựng do sự cố được bảo hiểm gây ra trên khu vực
công trường).
- Ngoài ra đơn bảo hiểm này có mở rộng cho các điều khoản bổ
sung để bảo hiểm cho các chi phí làm ngoài giờ, làm đêm, làm vào ngày
lễ, chi phí vận chuyển tốc hành, bảo hành, chi phí chuyên gia…
- Tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường thuộc quyền sở
hữu, quản lý trông coi của người được bảo hiểm.
Phần II: Trách nhiệm đối với bên thứ ba nhằm bảo vệ cho các
quyền lợi của các bên không được bảo hiểm/không liên quan đến công
trình trên, trong hoặc gần khu vực công trường khi bị thiệt hại vật chất,
hoặc bị thương tật, ốm đau bất ngờ là hậu quả trực tiếp của việc thi
công công trình và NĐBH phải chịu trách nhiệm pháp lý cho các tổn thất
và/hoặc thiệt hại đó.
Khi hướng dẫn NĐBH khai báo về đối tượng cần bảo hiểm khai
thác viên cần chú ý yêu cầu NĐBH khai báo đầy đủ các thông tin sau:
- Mô tả chi tiết các yếu tố liên quan đến đối tượng được bảo hiểm
như chiều cao, chiều rộng, chiều dài, vật liệu xây dựng, chất liệu của
móng, tầng hầm, tầng trên mặt đất, tường chắn, tường chống sụt lở…
- Địa điểm, thời gian thi công công trình và cần ghi rõ các công trình
đã và đang xây dựng liền kề 4 phía.
- Các yếu tố thiên nhiên, yếu tố địa chất, khí tượng thuỷ văn có thể
ảnh hưởng đến công trình như lũ lụt, mưa bão, động đất…ảnh hưởng
của các công trình đã và đang xây dựng xung quanh đối với công trình
(nổ, lún…)
1.2.1.2. Phạm vi bảo hiểm.
* Các rủi ro chính thuộc phạm vi bảo hiểm:
Ngoài một số rủi ro đặc biệt bị loại trừ thì các rủi ro là nguyên nhân
gây nên thiệt hại, tổn thất bất ngờ và không lường trước được diễn ra
trong thời gian bảo hiểm tại khu vực bảo hiểm đều được bảo hiểm:
Một số rủi ro chính được bảo hiểm là:
- Cháy, nổ và tổn thất do tiến hành các biện pháp chữa cháy.
- Sét đánh.
- Bị các phương tiện giao thông hay máy bay đâm vào.
- Lũ, lụt, mưa gió, tuyết lở.
- Động đất, núi lửa phun, sóng thần.
- Đất đá sụt lở
- Trộm cắp
- Thiếu kinh nghiệm, sơ suất, hành động ác ý hay cố tình nhầm lẫn
của con người ( nhưng không phải là NĐBH hay đại diện của họ)…
Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm xây dựng còn bao gồm cả những
tổn thất của nguyên vật liệu xây dựng, các trang thiết bị lắp đặt, trong
khi vận chuyển trên khu vực công trường hay khi lắp đặt, tháo gỡ.
* Các điểm loại trừ: là những rủi ro không được chấp nhận bảo
hiểm,được quy định cụ thể trong đơn bảo hiểm xây dựng.
1.2.1.3. Thời hạn bảo hiểm.
Thời hạn bảo hiểm bắt đầu từ lúc khởi công công trình hoặc sau khi
dỡ xong các hạng mục được bảo hiểm xuống công trình nhưng không
được sớm hơn ngày bắt đầu ghi trong Phụ lục bảo hiểm và kết thúc khi
toàn bộ công trình hoặc từng hạng mục công trình xây dựng xong trước
thời hạn được bàn giao hoặc đưa vào sử dụng và muộn nhất là ngày kết
thúc ghi trong Phụ lục bảo hiểm.
Nếu công trình bị kéo dài thời hạn thi công, NĐBH phải có trách
nhiệm thông báo bằng văn bản cho BIC và nếu nguyên nhân kéo dài là
hợp lý, BIC sẽ chấp nhận kéo dài thời hạn bảo hiểm bằng một sửa đổi
bổ sung. Thông thường thời gian kéo dài phải chịu thêm phụ phí.
1.2.1.4. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
* Giá trị bảo hiểm.
Trong BHXD, giá trị bảo hiểm là vấn đề hết sức quan trọng và phức
tạp. Xác định được chính xác giá trị các tranh chấp không cần thiết khi
có tổn thất xảy ra. Các giá trị hạng mục phải xác định trong BHXD:
→ Giá trị bảo hiểm của phần công tác thi công xây dựng.
Người được bảo hiểm có thể dùng một trong các giá trị sau đây làm
giá trị bảo hiểm cho phần này:
- Tổng giá trị khôi phục của công trình, nghĩa là giá trị khôi phục lại
công trình trong trường hợp có tổn thất xảy ra.
- Giá trị dự toán của công trình theo hợp đồng xây dựng.
- Giá trị bằng hoặc nhỏ hơn tổn thất lớn nhất có thể xảy ra.
→ Giá trị bảo hiểm của máy móc xây dựng.
Số tiền bảo hiểm của loại hình này được tính trên cơ sở giá trị thay
thế mới. Giá trị thay thế mới là giá trị thay thế của một máy móc thiết bị
bằng một máy móc thiết bị mới tương tự cùng loại và cùng công suất,
bao gồm:
- Giá trị máy móc thiết bị.
- Chi phí vận chuyển vận chuyển, bảo hiểm, lắp đặt, chi phí khác…
Trong trường hợp số tiền bảo hiểm không được tính trên cơ sở giá
trị thay thế mới thì cán bộ khai thác trách nhiệm hướng dẫn khách hàng
kê khai giá trị tại thời điểm tham gia bảo hiểm, công thức tính như sau:
Giá trị thực tế = Giá gốc – khấu hao sử dụng + chi phí sửa chữa lớn, đại tu
Trường hợp mua theo Giá trị còn lại theo sổ sách kế toán của
Người mua bảo hiểm thì cán bộ khai thác nên tìm hiểu giá trị thực tế của
thiết bị biết được rằng khách hàng có bảo hiểm dưới giá trị hay không
và giá trị là bao nhiêu để có thể áp dụng điều khoản cho phù hợp, mặt
khác đây cũng là cơ sở để thuận lợi cho việc giải quyết khiếu nại, nếu
phát sinh.
→ Giá trị bảo hiểm đối với trang thiết bị xây dựng.
Tương đối khó xác định vì trang thiết bị xây dựng nhiều hạng mục
với nhiều giá trị khác nhau. Có những hạng mục chỉ sử dụng trong
khoảng thời gian nhất định tại công trường, sau đấy lại di chuyển tới
công trường khác. Chỉ một phần giá trị của trang thiết bị này được đưa
vào giá thành của công trình. Có 2 cách xác định giá trị bảo hiểm của
trang thiết bị xây dựng:
+ Cách 1: dự kiến giá trị của trang thiết bị thời điểm tập trung cao
nhất trong quá trình xây dựng.
+ Cách 2:Xác định trang thiết bị theo giai đoạn của công việc hay
bảo hiểm toàn bộ giá trị của trang thiết bị xây dựng cho cả công trình.
→ Giá trị bảo hiểm đối với chi phí dọn dẹp hiện trường.
Khi tiến hành bảo hiểm bên bảo hiểm cần phải tính toán số chi phí
cần thiết để di chuyển chất phế thải xây dựng, đất đá, sau khi xảy ra tổn
thất, ví dụ: chi phí bơm nước, vét bùn, vận chuyển đi khỏi khu vực thi
công…cần phải tính tới khả năng phải di chuyển nhiều nhất đề phòng
trường hợp xảy ra tổn thất lớn nhất.
* Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị bảo hiểm. Giá trị bảo
hiểm được xác định bao gồm các hạng mục sau:
- Giá trị dự toán của công trình được chủ đầu tư và các bên có
thẩm quyền phê duyệt
- Giá trị máy móc trang thiết bị thi công được sử dụng trong công
trình được tính theo giá trị thay thế
- Giá trị tài sản sẵn có trên hoặc xung quanh công trường là giá trị
thực tế của tài sản vào thời điểm yêu cầu bảo hiểm
- Giá trị bảo hiểm cho chi phí dọn dẹp, căn cứ vào tổn thất dự kiến
để xác định.
1.2.1.5. Phí bảo hiểm.
Công ty sẽ có biểu phí riêng cho mỗi nghiệp vụ, tuy nhiên khai thác
viên cũng cần có biểu phí tham khảo mà thị trường đang áp dụng để có
thể tham chiếu, so sánh và đánh giá rủi ro.
Cơ sở định phí bảo hiểm phải căn cứ vào một số nhân tố nhất định
như:
- Loại công trình xây dựng.
- Địa điểm đặt công trình.
- Địa hình, khí hậu, điều kiện sinh thái của khu vực xây dựng.
- Loại rủi ro, nhóm rủi ro (bao gồm các rủi ro cơ bản, các rủi ro cơ
bất ngờ, các rủi ro phụ)
- Số tiền bảo hiểm.
- Giá trị bảo hiểm.
- Tiền thực tế của nhà đầu tư, nhà thầu.
- Mức độ đảm bảo của bảo hiểm (mức miễn thường và điều kiện
bồi thường được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm).
Ngoài ra còn có một số nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng, giảm phí
như: trình độ và kinh nghiệm của nhà thầu, số lần tham gia bảo hiểm
của nhà đầu tư, khách hàng truyền thống, tiểu sử các vụ khiếu nại tài
chính khi tham gia bảo hiểm của người được bảo hiểm, tay nghề của
người lao động.
Khi cấp đơn bảo hiểm khai thác viên cần xem xét, đánh giá tình
hình thực tế của từng loại rủi ro nhận bảo hiểm, các điều kiện, điều
khoản, các hạn mức bồi thường… để đưa ra mức phí phù hợp nhất.Tuy
nhiên, mức phí mà nhà bảo hiểm được phép áp dụng không được thấp
hơn 80% mức phí tham khảo của thị trường để đảm bảo sự cạnh tranh
lành mạnh trên thị trường và khả năng thanh toán của doanh nghiệp
bảo hiểm.
Phí bảo hiểm được xác định dựa trên những cơ sở sau:
- Phí tiêu chuẩn: Là mức phí bảo hiểm cho các rủi ro tiêu chuẩn
(các rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng/lắp đặt tiêu
chuẩn của Munich Re đang được áp dụng ở nước ta hiện nay)
Phí bảo hiểm được tính đối với các rủi ro tiêu chuẩn trong đơn bảo
hiểm xây dựng bao gồm:
+ Các rủi ro thiên tai như: động đất, núi lửa, sóng thần, lũ, lụt, mưa,
tuyết, đất đá, sụt, lở…
+ Các rủi ro khác như: cháy, nổ, ô-tô hay các phương tiện khác
đâm vào, trộm cắp, tay nghề kém, thiếu kinh nghiệm nhầm lẫn…
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn bao gồm: phí bảo hiểm cơ bản và phụ phí
bảo hiểm tiêu chuẩn.
+ Phí bảo hiểm cơ bản: là mức phí tối thiểu tính cho từng loại công
trình theo thời gian xây dựng lắp đặt tiêu chuẩn (thông thường là 12
tháng), được tính bằng tỷ lệ phần nghìn trên giá trị bảo hiểm của công
trình.
+ Phụ phí tiêu chuẩn gồm có: phụ phí cho rủi ro động đất và phụ
phí cho rủi ro bão và lũ lụt
Phụ phí cho rủi ro động đất: được tính căn cứ vào độ nhạy cảm của
công trình và khu vực xây dựng công trình. Tương ứng với độ nhạy cảm
của công trình và khu vực là tỷ lệ phí (% giá trị công trình theo năm).
Nếu thời hạn thi công công trình dưới 1 năm thì tính theo tháng.
Phụ phí cho rủi ro bão và lũ lụt được tính căn cứ vào tính chất của
công trình (% giá trị công trình theo năm). Trong trường hợp cụ thể mức
phí còn được điều chỉnh theo thời gian thi công (mùa mưa hay mùa khô)
và mực nước biển, sông, hồ kề cận.
Phụ phí mở rộng tiêu chuẩn gồm có:
+ Phụ phí bảo hiểm cho chi phí dọn dẹp sau tổn thất: tính bằng tỷ lệ
phí tiêu chuẩn nhân với giá trị dọn dẹp được yêu cầu bảo hiểm.
+ Phụ phí cho tài sản sẵn có trên và xung quanh công trường được
tính bằng tỷ lệ phí tiêu chuẩn nhân với giá trị bảo hiểm cho tài sản.
+ Phụ phí cho máy móc, thiết bị xây dựng công trình được tính
bằng tỷ lệ phí tiêu chuẩn nhân với giá trị bảo hiểm của máy móc trang
thiết bị đó.
Phụ phí mở rộng ngoài tiêu chuẩn
Người được bảo hiểm có thể yêu cầu bảo hiểm thêm một số rủi ro
đã bị loại trừ trong đơn bảo hiểm tiêu chuẩn theo các điều khoản bổ
sung và tuỳ từng trường hợp có thể phải nộp thêm phí bảo hiểm.
Ngoài các yếu tố nêu trên, phí bảo hiểm còn được xác định dựa
trên cơ sở áp dụng mức khấu trừ. Mức khấu trừ trong bảo hiểm xây
dựng lắp đặt có phân biệt đối với các loại công trình và phân thành 02
nhóm rủi ro: Rủi ro chính (các rủi ro thiên tai) và các rủi ro khác.
1.2.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm lắp đặt.
1.2.2.1. Đối tượng bảo hiểm của đơn bảo hiểm lắp đặt.
Cũng như đối tượng bảo hiểm của đơn bảo hiểm xây dựng nêu
trên, đối tượng của đơn bảo hiểm lắp đặt chia thành 02 phần là phần tổn
thất vật chất và phần trách nhiệm đối với bên thứ ba. Đối tượng bảo
hiểm cho phần tổn thất vật chất của đơn lắp đặt bao gồm chủ yếu các
hạng mục sau:
- Máy móc dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong khi
tiến hành lắp ráp các máy móc thiết bị đó.
- Máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho công việc lắp ráp.
- Tài sản trên và xung quanh công trường thuộc quyền quản lý của
người được bảo hiểm.
- Chi phí dọn dẹp vệ sinh.
1.2.2.2. Phạm vi bảo hiểm.
* Phạm vi bảo hiểm phần tổn thất vật chất.
Về cơ bản cả hai đơn đều giống nhau về quy định phạm vi bảo
hiểm của phần tổn thất vật chất. Tuy nhiên hai đơn có những điểm khác
nhau cơ bản:
- Trong đơn BHXD: Loại trừ cho tổn thất do thiết kế và loại trừ chi
phí khắc phục, sửa chữa lỗi, khuyết tật của nguyên vật liệu, sai sót, tay
nghề kém. Đơn BHXD chỉ chịu trách nhiệm về những tổn thất gián tiếp
là hậu quả của các sai sót, khuyết tật của nguyên vật liệu, tay nghề kém
còn tổn thất trực tiếp bị loại trừ. Còn về tổn thất do thiết kế chỉ được bảo
đảm nếu có điều kiện bổ sung là: “Bảo hiểm cho rủi ro của người thiết
kế”, tuy nhiên cũng chỉ chịu trách nhiệm về những tổn thất là hậu quả.
- Đơn BHLĐ cũng quy định gần như trên, tức là loại trừ tổn thất do
thiết kế; khuyết tật của nguyên vật liệu, tay nghề kém...nhưng không
phải là lỗi trong khi lắp đặt (trách nhiệm này thuộc người chế tạo ra máy
móc, thiết bị được lắp đặt). Các sai sót khi lắp đặt thuộc trách nhiệm
bảo hiểm.
Để dễ hình dung ta theo dõi qua bảng sau:
Bảng 1.1: So sánh phạm vi bảo hiểm giữa đơn BHXD và BHLĐ
công ty bảo hiểm ngân hàng đầu tư phát triển (BIC) đang triển khai.
Bảo
hiểm
Rủi ro chế tạo
Tổn thất
trực tiếp
Tổn thất
gián tiếp
Mở rộng
EAR
1.Lỗi do thiết kế
2.Lỗi do vật liệu chế tạo
3.Lỗi do khuôn đúc
4.Lỗi do quy trình
Loại trừ
-nt-
-nt-
-nt-
Loại trừ
-nt-
-nt-
-nt-
ĐKBS 200 cho các
tổn thất gián tiếp
CAR
1.Lỗi do thiết kế
2.Lỗi do vật liệu xây dựng
3.Lỗi do quy trình
Loại trừ
-nt-
-nt-
Loại trừ
Thuộc phạm
vi bảo hiểm
-nt-
ĐKBS 115 cho các
tổn thấtgián tiếp
Nguồn: Phòng nghiệp vụ
+ Sở dĩ phạm vi bảo hiểm của BHXD trong trường hợp này rộng
hơn BHLĐ vì trong xây dựng người sản xuất hay người chế tạo và chủ
đầu tư thông thường là một người. Còn trong BHLĐ thì người sản xuất
hay chế tạo là các nhà máy, xí nghiệp chế tạo ra máy móc thiết bị được
lắp đặt.
- Điểm khác nhau cơ bản giữa hai đơn là: Đơn BHLĐ loại trừ tất
cả tổn thất trực tiếp và gián tiếp của các rủi ro trên. Và có thêm điều kiện
bổ sung là :“Bảo hiểm rủi ro của người chế tạo” sẽ mở rộng phạm vi
bảo hiểm cho cả các rủi ro nêu trên nhưng chỉ cho các tổn thất gián tiếp.
Còn các tổn thất trực tiếp vẫn bị loại trừ.
- Thêm một điểm khác khau nữa là trong đơn BHXD: Loại trừ các
trục trặc của các trang bị máy móc xây dựng gây ra bởi sự hỏng hóc,
trục trặc, đổ vỡ cơ học hoặc điện hoặc việc đông lạnh các chất làm
nguội, các chất lỏng nào khác, hoặc do chất bôi trơn hư hỏng hoặc do
thiếu dầu và các chất làm nguội và tổn thất của các xe cộ có giấy phép
lưu hành trên công lộ gây ra. Trong đơn BHLĐ không có điểm này.
* Phạm vi bảo hiểm phần trách nhiệm đối với người thứ ba.
- Phần mở đầu: phạm vi bảo hiểm của hai đơn bảo hiểm về cơ bản
là giống nhau. Tuy nhiên trong đơn bảo hiểm lắp đặt có thêm phần trách
nhiệm cả khi chạy thử máy (trong BHXD không có chạy thử này).
- Phần loại trừ: cả hai đơn đều quy định giống nhau về loại trừ trách
nhiêm đối với người thứ ba. Và chỉ đảm bảo trách nhiệm của người
được bảo hiểm đối với người thứ ba trong thời gian xây dựng hay lắp
đặt , không chịu trách nhiệm trong thời gian bảo hành.
- Riêng đơn BHXD có thêm điểm 3 loại trừ các tổn thất do chấn
động chuyển dịch hoặc suy yếu các trụ chống. Trong BHLĐ không có
điểm này.