Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN XANH CỦA SINGAPORE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.6 KB, 25 trang )

MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN XANH CỦA SINGAPORE
2.1 Tổng quan về Singapore
2.1.1 Vị trí địa lý
Singapore là một đảo quốc với diện tích khiêm tốn nằm ở phía nam khu vực
Đông Nam Á. Ví trí của Quốc đảo này nằm cách đường xích đạo 136,8 km về
phía Bắc, giữa vĩ độ 103038' và 104006' vĩ độ đông.
Singapore nằm ở giao nhau của con đường Huyết mạch chính vận chuyển
hàng hải giữa Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và eo biên Malacca. Quốc đảo
nhỏ bé này được tổ hợp nên bởi hơn 50 hòn đảo trong đó Singapore là hòn đảo
lớn nhất, chiếm 9/10 diện tích toàn quốc. Địa thế nơi đây phẳng đều, những eo
biển giữa các hòn đảo chính là nơi neo đậu thuận tiện của các thuyền bè. Nằm
tại một trong những giao lộ của thế giới, vị trí chiến lược của Singapore chính là
một yếu tố thuận lợi góp phần giúp quốc gia này phát triển thành một trung tâm
quan trong trong các lĩnh vực thương mại, viễn thông và du lịch. Singapore nối
liền Malaysia bởi hai cây cầu vượt, và những hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Riau
của Indonesia chỉ cách quốc gia một chuyến tàu tốc hành. Đối với Singapore và
Philippine chỉ là một chuyến bay ngắn. Đảo quốc Singapore có một phi trường
lớn phục vụ hơn 69 hãng hàng không. Quả là đất nước "cửa ngõ" vào Đông
Nam Á. Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương bao quanh
bởi nhiều đảo nhỏ khác. Có hai con đường nối giữa Singapore và bang Juhor
của Malaysia — một con đường nhân tạo có tên Đường nối Johor-Singapor ở
phía Bắc, băng qua eo biển Tebrau và chỗ nối thứ hai Tuas, một cầu phía Tây
nối với Juhor. Đảo Jurong, Pulau Tekong, Pulau Ubin và Sentosa là những đảo
lớn nhất của Singapore, ngoài ra còn có nhiều đảo nhỏ khác. Vị trí cao nhất của
Singapore là đồi Bukit Timah với độ cao 166 m.
Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy biển và
những nước lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ 581,5 km² ở
thập niên 1960 lên 697,25 km² ngày nay (xấp xỉ diện tích huyện Cần Giờ (thành
phố Hồ Chí Minh)), và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến năm 2030.
Vùng thành thị trước đây chỉ tập trung ở khu vực phía Bắc Singapore bao
quanh sông Singapore, hiện nay là trung tâm buôn bán của Singapore, trong khi


đó những vùng còn lại rừng nhiệt đới ẩm hoặc dùng cho nông nghiệp. Từ thập
niên 1960, chính phủ đã xây dựng nhiều đô thị mới ở những vùng xa, tạo nên
một Singapore với nhà cửa san sát ở khắp mọi miền, mặc dù Khu vực Trung
tâm vẫn là nơi hưng thịnh nhất. Ủy ban Quy hoạch Đô thị là một ban của chính
phủ chuyên về các hoạt động quy hoạch đô thị với nhiệm vụ là sử dụng và phân
phối đất hiệu quả cũng như điều phối giao thông. Ban đã đưa ra quy hoạch chi
tiết cho việc sử dụng đất ở 55 khu vực.
Sự đô thị hóa đã làm biến mất nhiều cánh rừng mưa nhiệt đới một thời, hiện
nay chỉ còn lại một trong số chúng là Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bukit Timah.
Tuy nhiên, nhiều công viên đã được gìn giữ với sự can thiệp của con người, ví
dụ như Vườn Thực vật Quốc gia. Không có nước ngọt từ sông và hồ, nguồn
cung cấp nước chủ yếu của Singapore là từ những trận mưa rào được giữ lại
trong những hồ chứa hoặc lưu vực sông. Mưa rào cung cấp khoảng 50% lượng
nước, phần còn lại được nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nước tái chế - một
loại nước có được sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất nước tái chế
đang được đề xuất và xây dựng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào việc nhập
khẩu.
2.1.2 Lịch sử
Tên Singapore xuất phát từ Singapura trong tiếng Malaysia (hay tiếng
Malay), vốn được lấy từ nguồn gốc của chữ Phạn là singa (sư tử) và pura (thành
phố). Từ đó Singapore được biết với cái tên Thành phố Sư Tử. Tên gọi này bắt
nguồn từ một vị hoàng tử tên là Sang Nila Utama. Theo truyền thuyết, vị hoàng
tử này nhìn thấy một con sư tử là sinh vật sống đầu tiên trên hòn đảo và do đó
đặt tên cho hòn đảo là Thành phố Sư Tử (Singapura).
Những bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của hòn đảo được tìm thấy trong
những văn bản của Trung Quốc từ thế kỉ thứ 3. Hòn đảo là nơi chiếm đóng của
đế chế Sumatran Srivijaya và khởi đầu có tên theo tiếng Java là Temasek.
Temasek phát triển thành một thành phố thương mại thịnh vượng nhưng sau đó
dần dần suy tàn. Từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, Singapore là một phần của
Vương quốc Johor.

Năm 1819, ông Thomas Stamford Raffles, một viên chức của công ty East
India (của Anh), đã kí một thỏa thuận với vua của Johor. Ông đồng thời thiết lập
Singapore trở thành một trạm thông thương buôn bán và nơi định cư, sau này đã
nhanh chóng phát triển và thu hút sự di dân từ nhiều chủng tộc khác nhau.
Singapore sau đó đã trở thành thuộc địa của Anh năm 1867. Sau một chuỗi các
hoạt động mở mang lãnh thổ, Đế quốc Anh nhanh chóng đưa Singapore trở
thành một trung tâm tập trung và phân phối dựa vào vị trị rất quan trọng của nó
trên con đường biển nối giữa châu Âu và Trung Quốc.
Tượng của ông Thomas Stamford Raffles, được dựng tại nơi ông đầu tiên đặt
chân lên Singapore. Ông được xem là người tìm ra Singapore mới.
Trong Thế chiến thứ hai, quân đội Đế quốc Nhật xâm chiếm Malaysia và
những vùng lân cận trong Cuộc chiến Malaya, lên đến cực điểm tại Cuộc chiến
Singapore. Quân Anh không được chuẩn bị và nhanh chóng thất thủ mặc dù có
lực lượng đông hơn. Anh giao nộp Singapore cho quân Nhật vào ngày 15 tháng
2 năm 1942. Người Nhật đổi tên Singapore sang tiếng Nhật thành Syonan-to,
nghĩa là "Ánh sáng Miền Nam", và chiếm đóng nó cho đến khi quân Anh trở lại
chiếm hòn đảo một tháng sau sự đầu hàng của Nhật vào tháng 9 năm 1945.
Singapore trở thành một nhà nước tự chủ năm 1959 với người đứng đầu nhà
nước đầu tiên là Yusof bin Ishak và thủ tướng đầu tiên là Lý Quang Diệu sau
cuộc bầu cử năm 1959. Cuộc trưng cầu dân ý về việc sát nhập Singapore vào
Liên bang Mã Lai đã đạt được năm 1962, đưa Singapore trở thành một thành
viên của liên bang Mã Lai cùng với Malaya, Sabah và Sarawak như là một bang
có quyền tự trị vào tháng 9 năm 1963. Singapore bị tách ra khỏi liên bang vào
ngày 7 tháng 8 năm 1965 sau những bất đồng quan điểm chính trị chính phủ của
bang và hội đồng liên bang tại Kuala Lumpur. Singapore được độc lập 2 ngày
sau đó, vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, sau này đã trở thành ngày Quốc khánh
của Singapore. Malaysia là nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Singapore.
Độc lập đồng nghĩa với tự túc, Singapore đã phải đối mặt với nhiều khó khăn
trong giai đoạn này, bao gồm nạn thất nghiệp, thiếu nhà ở, đất đai và tài nguyên
thiên nhiên như dầu mỏ. Với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và Đồng Minh, trong nhiệm

kỳ của mình từ năm 1959 đến 1990, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã từng bước
kiềm chế thất nghiệp, lạm phát, tăng mức sống và thực hiện một chương trình
nhà ở công cộng với quy mô lớn. Các cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước được
phát triển, mối đe dọa của căng thẳng chủng tộc được loại bỏ và một hệ thống
phòng vệ quốc gia được thiết lập. Singapore từ một nước đang phát triển trở
thành một nước phát triển vào cuối thế kỷ 20.
Năm 1990, Goh Chok Tong kế nhiệm chức thủ tướng, đối mặt với nhiều khó
khăn bao gồm ảnh hưởng kinh tế từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm
1997, sự lan tràn của SARS năm 2003 cũng như những đe dọa khủng bố từ
Jemaah Islamiah, hậu 11 tháng 9 và các vụ đánh bom ở Bali. Năm 2004, Lý
Hiển Long, con trai cả của Lý Quang Diệu, trở thành thủ tướng thứ ba.

2.1.3 Xã hội
Xã hội Singapore là một xã hội đa sắc tộc gồm nhiều nền văn hóa khác nhau.
Singapore là một đất nước nhỏ bé và dân cư tại đây là sự tổng hợp của nhiều
nền văn hoá khác nhau như Trung Quốc, Ấn Độ, Mã Lai do kết quả của quá
trình di cư, vì vậy, xã hội Singapore là một xã hội đa sắc tộc. Mỗi người dân
đến đây, họ cố gắng giữ gìn nét riêng chính tổ tiên mình cùng lúc linh hoạt để
hoà nhập vào các văn hoá khác. Nhờ vậy, xã hội Singapore với nền văn hoá đa
dạng của mình đã được hình thành. Khi tới đất nước này, bạn có thể thấy một lễ
cưới theo kiểu Mã Lai cùng tổ chức trong một khu công cộng với một lễ tang
của người Trung Quốc. Có thể nói, xã hội Singapore tôn trọng mọi nền văn hoá
tồn tại trên đảo quốc này. Bên cạnh đó, Singapore cũng đã tạo ra được một bản
sắc riêng trong sự kết hợp của các nền văn hoá trong một mức độ nào đó. Nhờ
vậy thế hệ trẻ của Singapore được thừa hưởng một sự kết hợp giàu bản sắc. Kế
hoạch Raffles của Singapore từ đầu thế kỷ 19 nhằm phân biệt những người mới
nhập cư vào từng khu vực riêng mà tại Singapore ta có thể thấy những khu
mang đậm chất riêng như Little India, Chinatown và Kampong Glam. Mặc dù
người dân không còn xây dựng theo lối phân biệt như vậy, nhưng chủ yếu nhờ
có chính sách của Uỷ ban nhà ở và sự quản lý của Đảng Nhân dân Hành động

mà những khu vực này vẫn giữ được nét riêng của mình trong xã hội hiện đại.
Ngày nay, những nền văn hoá đặc trưmg không còn được sử dụng để quy hoạch
nhà ở cho người dân nhưng nó lại phục vụ cho mục đích thương mại. Vì vậy, ở
Singapore ta có thể mua một đồ vật hay tìm ăn một món ăn đặc trưng của văn
hoá Ấn Độ, Trung Hoa, hay Mã Lai. Một ví dụ đơn giản, tại Little India, bạn có
thể tìm thấy tiệc đứng Nam Ấn với những món ăn chay và các món ăn được
đựng bằng lá chuối theo đúng truyền thống.
Trên một khía cạnh khác, chính phủ không cho phép sự phân biệt chủng tộc
được phát triển. Chính sách của Uỷ ban Nhà ở Singapore đưa ra nhằm khuyến
khích người dân đến từ mọi nền văn hoá chung sống với nhau, với tỉ lệ của một
dân tộc không được quá lớn trong một khu nhà. Hay nói cách khác, họ luôn đảm
bảo sự đa dạng và tỉ lệ tương đối về các nền văn hoá trong một khu công cộng.
Điều này giúp cho mỗi người dân nói riêng và nền văn hoá họ mang trong mình
nói chung có sự hoà nhập bình đẳng trong xã hội. Sự đa dạng văn hoá và tự do
phát triển bản sắc riêng có thể thấy ở mọi mặt của xã hội. Ta có thể thấy một
cửa hàng chuyên bán đồ ăn Malay nằm ngay cạnh nhà hàng Trung Quốc hay
nhà hàng Ấn Độ. Như lời cựu thủ tướng Lý Quang Diệu khi ông còn đương
nhiệm, mục đích của việc này là nhằm thúc đẩy sự gắn kết xã hội, lòng yêu
nước – yếu tố không thể thiếu để giúp Singapore phát triển bền vững sau khi
độc lập.
2.1.4 Kinh tế
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên
ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt;
đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông
nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng
nhu cầu ở trong nước. Tuy nhiên vị trí địa lý đặc biệt, nằm trong tuyến đường
huyết mạch của khu vực khiến cho đảo quốc này được bù đắp bằng những “tải
nguyên” phong phú khác. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công
nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp
đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi.

Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn.
Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á.
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu
nhập quốc dân). Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi
sang nền kinh tế tri thức.
Kinh tế Singapore là nền kinh tế phát triển theo đường lối kinh tế tư bản. Sự
can thiệp của chính phủ vào vào nền kinh tế được giảm thiểu tối đa. Singapore
có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính cao, giá cả
ổn định, và là một trong những nước có GDP bình quân đầu người cao nhất thế
giới. xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng điện tử và hóa chất và dịch vụ là nguồn
cung cấp chính cho thu nhập kinh tế và mua được các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và hàng chưa gia công mà trong nước không có. Do vậy có thể nói
Singapore dựa hoàn toàn vào nền kinh tế mở bằng việc mua các hàng hóa chưa
gia công và chế biến chúng để xuất khẩu. Singapore cũng có một hải cảng chiến
lược, có thể cạnh tranh với các nước láng giềng để thực hiện các hoạt động buôn
bấn, xất nhập khẩu. Thành phố hải cảng của Singapore là một trong những nơi
bận rộn nhất trên thế giới, vượt xa Hong Kong và Thượng Hải. Thêm vào đó,
thành phố hải cảng của Singapore có cơ sở hạ tầng tốt và lực lượng lao động có
tay nghề cao nhờ các chính sách giáo dục của đất nước trong việc đào tạo kỹ
nghề cho công nhân, nó cũng là nền tảng cho việc phát triển kinh tế của đất
nước.
Về mặt chính sách vĩ mô, Chính phủ thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư thông qua
cơ chế tiết kiệm cho kỳ nghỉ hưu còn gọi là Quỹ trung tâm dự phòng, và một
phần lớn của quỹ này được sử dụng cho mục đích giáo dục và kỹ thuật. Vào
năm 2001, Singapore đã sử dụng 21% quỹ này cho mục đích trên so với 4% của
Mỹ. Tuy nhiên số liệu này có thể sai lệch, vì tại Mỹ, ngân sách rót vào giáo dục
thường dùng ngân sách bang chứ không phải ngân sách quốc gia. Tại
Singapore, tồn tại những công ty nằm trong dự án đầu tư của chính phủ, đặc biệt
trong lĩnh vực chế tạo Với cái nhìn dài hạn, Singapore hiểu được ý nghĩa của từ
“toàn cầu hoá”, đảo quốc này đang dần tạo nên vị trí của mình như một trung

tâm tài chính khu vực và trung tâm công nghệ cao cạnh tranh với các thành phố
khác của Đông Á.
Chiến lược phát triển kinh tế của Singapore tập trung vào hoạt động vận tải
biển. Những công dân chăm chỉ của đất nước này đã đưa đất nước họ trở thành
con rồng của khu vực Đông Nam Á. Sức mạnh về kinh tế của đảo quốc này
hoàn toàn tỉ lệ nghịch với diện tích nhỏ bé của nó. Kể từ khi tách ra khỏi
Malaysia vào năm 1965, Singapore phải đối diện với những khó khăn về sự
nghèo nàn tài nguyên và một thị trường nội địa nhỏ bé. Để giải quyết những khó
khăn của mình, Chính phủ Singapore đã xây dựng một nền kinh tế tập trung vào
kinh doanh, đầu tư nước ngoài và hướng ra xuất khẩu kết hợp với việc đầu tư
theo định hướng chính sách của nhà nước vào các công ty quốc doanh. Trong
suốt thời kỳ phát triển của chủ nghĩa xã hội vào những năm 60 của thế kỷ trước,
Singapore đã đẩy mạnh mở cở để tiếp nhận nền kinh tế tư bản. Tuy nhiên
Singapore vẫn luôn là một nước trung lập trên thế giới. Về kinh tế, chính phủ
đảo quốc sư tử hướng nền kinh tế và các mục đầu tư vào dược phẩm và cơ sở hạ
tầng.
Chiến lược kinh tế của Singapore là một minh chứng của sự thành công . Từ
năm 1960 đến năm 1999, tăng trưởng sản xuất thực tế luôn đạt ở mức trung
bình là 8%. Khi nền kinh tế thế giới gặp khó khăn vào những năm đầu thế kỷ
21, những ông lớn của thế giơi là Mỹ, Nhật, Liên minh châu âu EU đều khó
khăn trong tăng trưởng (ước tính tăng trưởng tại các nước này là âm 2%). Trong
khi đó, Singapore vẫn giữ mức tăng trưởng là 2.2%. Và đất nước này đạt mức
1.1% tăng trưỏng vào năm sau đó là 2003 do sự bùng nổ của bệnh SARS
(Severe Acute Respiratory Syndrome - Hội chứng hô cấp cấp tính nặng). Đến
năm 2004, sự phục hồi đã xuất hiện với mức tăng trưởng ấn tượng là 8.3% cho
dù mức tăng trưởng thực tế đã làm giảm mục tiêu tăng trưởng của nước này đến
hơn một nửa chỉ vào khoảng 2.5%. Năm 2005, nền kinh tế đã đạt mức tăng
trưởng là 6.4% còn năm 2006 là 7.9%.
1


Chính quyền trong sạch, nguồn nhân lực chất lượng cao và cơ sở hạ tầng hiện
đại là những yếu tố tiên quyết để các nhà đầu tư chọn Singapore làm điểm đến
của mình. Những nhà đầu tư lớn vào đất nước nhỏ bé này là những tập đoàn đa
quốc gia của Mỹ, Nhật và EU. Singapore mở rộng cánh cửa đầu tư trong hầu hết
các lĩnh vực của nền kinh tế. Các công ty đa quốc gia làm ra 2/3 mặt hàng chế
tạo và cũng là những nhà xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên những tập đoàn trong
nước lại nắm hầu hết lĩnh vực dịch vụ.
Trong nền kinh tế phát triển nhanh và vững vàng của Singapore, có thể coi
chế tạo và dịch vụ tài chính doanh nghiệp là hai nguồn năng lượng chính với
mức đóng góp lần lượt là 26% và 22% vào tổng sản phẩm quốc nội năm 2000.
Trong ngành chế tạo thì ngành điện tử đứng vị trí đầu tiên với mức đóng góp là
48% tổng sản lượng sản phẩm hàng hoá làm ra tại nước này. Bên cạnh đó chính
phủ cũng đầu tư phát triển cho ngành hoá chất và công nghệ xanh.
Tăng trưởng và phát triển cũng đồng nghĩa với việc Singapore mất dần lợi thế
cạnh tranh về giá nhân công rẻ như thời kỳ đầu mở cửa. Tuy nhiên, nhờ các
hoạt động của chính phủ nhằm thúc đẩy giá trị gia tăng trong lĩnh vực chế tạo và
dịch vụ mà Singapore vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh của mình trên thị
1 Theo Wikipedia: />trường thế giới. Đồng thời, những ngành mới cũng phát triển và bắt đầu có mặt
trong cơ cấu nền kinh tế như: dịch vụ tài chính, viễn thông, và bán lẻ cho những
nhà cung cấp nước ngoài. Chính phủ cũng nỗ lực đưa ra những giải pháp bao
gồm các giải pháp về tiền lương hay cho thuê bất động sản chưa sử dụng nhằm
kiểm soát sự tăng giá thuê nhà, văn phòng tại đây.
2.1.4 Môi trường
Singapore là một đất nước rất quan tâm tới môi trường. Cùng với sự phát
triển kinh tế, Singapore còn không ngừng khẳng định vị trí của mình là một
thành phố công viên của thế giới. Người ta nói rằng ở Singapore bạn có thể tìm
thấy bất cứ thứ gì, chỉ có một thứ rất khó kiếm – đó chính là rác. Nói như vậy để
thấy rằng môi trường của Singapore rất trong sạch. Người ta có thể ngồi thoải
mái ở bất kỳ bậc thềm nào trong thành phố bởi lẽ chúng lúc nào cũng sạch bong
như đá lát sàn nhà. Lá cây luôn xanh mướt màu nguyên bản, không bụi bậm. Dù

ở những nơi công cộng như bến xe điện ngầm, sân bay hay siêu thị ta sẽ luôn
thấy những nhân viên vệ sinh cần mẫn với công việc của mình. Họ sẽ làm hoàn
thành vịêc dọn vệ sinh dù rằng trong khu vực rộng lớn chỉ có vài chiếc lá rụng.
Không chỉ sạch, thành phố công viên Singapore còn là một thành phố xanh.
Xanh vì môi trường sạch, và xanh vì màu xanh của cỏ cây. Khắp nơi trên quốc
đảo này đều có cây xanh với màu sắc nhiệt đới. Trong sân bay, lan can cầu
vượt, chân cầu, các toà nhà, quán ăn thậm chí trong toilet công cộng, chố nào
cũng có cây xanh.
Có thể nói, xanh - sạch – an toàn là những điều hay được nhắc tới nhất khi
người ta nói tới Singapore.
2.2 Mô hình phát triển xanh của Singapore
Từ một nước thứ ba dành được độc lập vào năm 1960 Singapore đã thay đổi
và biến mình thành một con rồng của Châu Á. Có được Singapore như hiện nay,
hẳn ta không thể không nhắc tới một người có vai trò vô cùng quan trọng là cựu
thủ tướng Lý Quang Diệu - người đã đưa Singapore trở thành thành phố công
viên.
Trong hồi ký “Singapore xanh” của mình, Lý Quang Diệu đã có đoạn viết
“Sau độc lập, tôi đã tìm kiếm một vài cách để chỉ ra sự khác biệt giữa chúng
tôi với các nước thuộc Thế giới Thứ ba khác. Tôi chấp nhận chọn một Singapore
xanh và sạch. Mục đích của chiến lược này là làm Singapore trở thành một ốc
đảo trong Đông Nam Á, vì nếu chúng tôi có những tiêu chuẩn của Thế giới Thứ
nhất thì các thương gia và các khách du lịch sẽ chọn chúng tôi làm căn cứ cho
việc kinh doanh của họ cũng như là một vùng du lịch.”
2
Từ đó, bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX, thủ tưởng Lý Quang Diệu đã
bắt tay vào thay đổi đất nước của mình. Và để có một Singapore như ngày nay,
cố gắng thay đổi không chỉ trên bình diện kinh tế mà nó còn diễn ra mạnh mẽ cả
về xã hội.
2.2.1 Thay đổi từ người dân
Người ta nói rằng, thói quen sẽ tạo ra tính cách. Một xã hội với những con

người có thói quen xấu sẽ trì trệ và hạn chế trong tốc độ phát triển. Vì lẽ đó, cựu
thủ tướng Lý Quang Diệu đã nhận thức được rằng để cho Singapore phát triển
trước tiên phải thay đổi những thói quen xấu của người dân nước này. Bắt đầu
từ thói quen khó bài trừ như khạc nhổ tới sự lộn xộn trên đưòng phố. Tất cả
những điều này được ông nói tới trong cuốn hồi ký “Singapore xanh” của mình.
“Trong chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi đến Uỷ ban nhân dân thành phố
Bắc Kinh năm 1976, trong phòng khách nơi họ tiếp đón chúng tôi có rất nhiều
ống nhổ. Một vài nhà lãnh đạo Trung Quốc thật sự sử dụng chúng. Năm 1978,
khi Đặng Tiểu Bình đến thăm Singapore, chúng tôi đã chuẩn bị một ống nhổ màu
trắng xanh đời Minh. Mặc dù chúng tôi đã đặt nó sát bên ghế của ông ta trong
phòng họp, nhưng ông ta không sử dụng nó. Dường như ông ta biết rằng người
2 />

×