VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐÀO ĐOAN HÙNG
PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9.38.01.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trương Thị Hồng Hà
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu và
số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và tôi xin chịu
trách nhiệm về tất cả những tư liệu và số liệu đó. Những kết luận khoa học của luận
án này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 10 năm 2018
Tác giả luận án
Đào Đoan Hùng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
GEMB
Governmental Electoral Management Body
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AIPO/AIPA
Tổ chức Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đôn Nam
Á GS
Giáo sư
HĐND
Hội đồng nhân dân
MTTQ
Mặt trận Tổ quốc
MTTQVN
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
QĐ
Quyết định
QH
Quốc hội
QH&HĐNH
Quốc hội và Hội đồng nhân
dân SL
Sắc lệnh
TS
Tiến sĩ
TW
Trung ương
ThS
Thạc sĩ
UBMTTQVN
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
UBTVQH
Ủy ban thường vụ Quốc hội
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
UNDP
Chương trình phát triên Liên hiệp quốc
IPU
Liên minh Nghị viện Thế giới
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.................................................................................................. 7
1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước................................................................ 7
1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài.............................................................. 10
1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước..................................... 11
1.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.............................................................. 13
1.5. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu................................................... 14
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN.......................................................... 17
2.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của bầu cử và chế độ bầu cử................................. 17
2.2. Pháp luật về bầu cử và mô hình bầu cử một số nước trên thế giới....................39
2.3. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân................................................................................................... 32
2.4. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân 70
Chương 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
VÀ HỘỊ ĐỒNG NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM...................................................... 75
3.1. Pháp luật thực định về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân..........75
3.2. Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của pháp luật về bầu cử đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân..................................................................... 100
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY........................................................................................................... 111
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân ở Việt Nam hiện nay........................................................................................ 111
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân ở nước ta hiện nay........................................................................................... 122
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 151
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Pháp luật bầu cử là một bộ phận quan trọng của của chế độ chính trị dân chủ,
là cơ sở để xác lập và bảo đảm các quyền chính trị của Nhân dân lao động, có tầm
quan trọng đặc biệt trong tổ chức quyền lực Nhà nước, là phương thức cơ bản để
thành lập nên hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước trong xã hội hiện đại. Bầu cử là
đặc trưng của chế độ chính trị dân chủ, gắn liền với chế độ dân chủ đại diện, nên vai
trò của nó được đề cao trong các nền dân chủ đương đại. Trong cơ chế chính trị cạnh
tranh, bầu cử được ví như “trái tim của dân chủ”. Pháp luật bầu cử có vị trí, vai trò
hết sức quan trọng trong việc thực hiện chủ quyền Nhân dân đối với Nhà nước.
Thông qua bầu cử, công dân bày tỏ ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình
với tư cách là chủ thể quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước để trao quyền, ủy
quyền cho những người mình tín nhiệm tham gia vào cơ quan đại diện. Bầu cử có
mối quan hệ bản chất với thể chế chính trị, với tổ chức, phân công và kiểm soát
quyền lực Nhà nước, về dân chủ trong xã hội, là chất keo kết dính tạo nên sự đồng
thuận và niềm tin trong xã hội; đồng thời là yếu tố cơ bản đảm bảo ổn định chính trị ở
mỗi quốc gia. Lịch sử phát triển của các thể chế chính trị và Nhà nước trên thế giới đã
trải qua nhiều cách thức tổ chức quyền lực khác nhau, trong đó có cách thức tổ chức
chính quyền thông qua bầu cử và cũng có cách thức tổ chức chính quyền mà không
qua bầu cử. Chế độ bầu cử và pháp luật về bầu cử luôn gắn liền với một Nhà nước
nhất định, không có chế độ bầu cử mang tính chung chung. Ở nước ta, dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trải qua cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, với thắng
lợi của Cách mạng tháng tám năm 1945, Nhân dân ta đã lật đổ sự thống trị của chế độ
thực dân, phong kiến lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, xác lập quyền
lực chính trị của Nhân dân lao động. Quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát
triển đất nước hơn 73 năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng
trong trên các lĩnh vực, từng bước đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và trở
thành nước phát triển năng động ở khu vực Đông Nam á và có uy tín, vị thế ngày
càng cao trên trường quốc tế. Một trong những đóng góp quan trọng vào thành tựu ấy
là sự hình thành, phát triển và hoạt động hiệu quả của hệ thống cơ quan dân cử ở
nước ta (Quốc hội và Hội đồng Nhân dân) - Một thiết chế dân chủ đại diện quan trọng
được thiết lập thông qua bầu cử để thực hiện quyền lực của Nhân dân lao động. Khái
niệm và bản chất của bầu cử có nội hàm và ngoại diên phong phú; Vì vậy, trên diễn
đàn quốc tế và trong nước nó được xem xét trong những phạm vi và mức độ khác
nhau, với những quan niệm khác nhau phụ thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh
tế, văn hóa xã hội của mỗi quốc gia.
Quá trình xây dựng Nhà nước và pháp luật ở nước ta vừa phản ánh quy luật
5
chung của sự ra đời và phát triển của Nhà nước và pháp luật, của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, vừa phản ánh những nét đặc thù của lịch sử, văn hóa, chính trị và đặc điểm
của cách mạng Việt Nam. Theo quy định của Hiến pháp, bộ máy nhà nước Việt Nam
gồm ba hệ thống cơ quan nhà nước: lập pháp, hành pháp và tư pháp, được tổ chức
theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát việc thực hiện ba quyền. Nguyên tắc tập trung dân chủ được xem là nguyên
tắc đặc thù của mô hình bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) nói chung và
Việt Nam nói riêng. Nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của các thiết chế
quyền lực nhà nước nói chung và thiết chế Quốc hội và Hội đồng nhân dân nói riêng
cho thấy, sự kết hợp giữa dân chủ và tập trung vừa tạo nên sự tương đồng, vừa thể
hiện các đặc thù trong cấu trúc của mô hình thiết chế quyền lực ở nước ta. Quốc hội
và Hội đồng nhân dân (sau đây viết tắt là QH&HĐND) với mô hình hoạt động theo
chế độ dân chủ nghị trường, đòi hỏi phải tạo lập mô hình tổ chức bộ máy có tính tổ
chức, thống nhất cao, vừa không quá tập trung quá nhiều quyền lực vào bất kỳ cơ
quan nào, vừa tạo cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các thiết chế quyền lực
trong quá trình thực hiện quyền lực Nhân dân theo quy định của Hiến pháp.
QH&HĐND được thành lập thông qua hình thức bầu cử, là cơ quan quyền lực nhà
nước đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, việc xây dựng
QH&HĐND có thực quyền để đảm đương vai trò trách nhiệm của mình là một yêu
cầu khách quan của quá trình đổi mới. Vấn đề cơ bản của bầu cử là làm thế nào để
người dân biết lựa chọn đúng người để ủy quyền, và cơ chế nào để người dân có thể
thuận lợi trong việc bỏ phiếu bất tín nhiệm, bãi miễn, yêu cầu từ chức đối với người
đại diện khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân. Đây là những
vấn đề trọng yếu không chỉ liên quan đến ứng cử viên, đại biểu, các tổ chức chính
trị mà còn liên quan đến toàn thể Nhân dân, đến sự ổn định và phát triển của đất
nước. Bầu cử còn là cơ hội để lựa chọn, sàng lọc và xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức nhằm đáp ứng mục tiêu chính trị. Song song với việc đổi mới hệ thống chính
trị, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của QH&HĐND thì việc nghiên cứu,
hoàn thiện pháp luật về bầu cử QH&HĐND là yêu cầu quan trọng, và đòi hỏi cấp
bách đặt ra trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam. Nghiên cứu pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND nhằm đề xuất xây dựng
cơ chế pháp lý khoa học, xác lập những mối quan hệ hợp lý, chặt chẽ và mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, đặc biệt là trong điều kiện thể chế chính trị
“nhất nguyên” ở Việt Nam.
Vì vậy, Đề tài “Pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
ở Việt Nam hiện nay ” là vấn đề có tính cấp thiết trên phương diện lý luận và thực
tiễn, là một trong những hướng nghiên cứu quan trọng của khoa học pháp lý, rất cần
được nghiên cứu một cách cơ bản ở nước ta hiện nay. Với lý do đó, nghiên cứu sinh
quyết định lựa chọn vấn đề này để làm luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp
luật bầu cử đại biểu QH&HĐND, đánh giá đúng thực trạng pháp luật và mức độ hoàn
thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam, góp phần hình thành
những tri thức lý luận và những luận cứ khoa học để đề xuất quan điểm, giải pháp
cho việc hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam.
Để hoàn thành được mục đích đề ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bầu cử đại biểu
QH&HĐND trên các phương diện khái niệm, đặc điểm, bản chất, nguyên tắc của chế
độ bầu cử; khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật bầu cử đại biểu QH&HĐND.
Nghiên cứu làm rõ nội dung các chế định, quy định, tiêu chí hoàn thiện pháp luật về
bầu cử, mối tương quan giữa pháp luật bầu cử của Việt Nam với pháp luật bầu cử của
các nước trên thế giới. Phân tích làm rõ mối quan hệ giữa Đảng chính trị cầm quyền Nhà nước - Nhân dân thông qua bầu cử; cơ chế kiểm soát quyền lực và mối quan hệ
giữa pháp luật bầu cử và thực hành dân chủ. Thực hiện nhiệm vụ này, luận án góp
phần xây dựng hệ thống tư duy lý luận đầy đủ, vững chắc về pháp luật bầu cử đại
biểu QH&HĐND ở Việt Nam.
- Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND ở Việt Nam, tìm ra những hạn chế, bất cập, chỉ ra nguyên nhân ưu
điểm, hạn chế của pháp luật bầu cử đại biểu QH&HĐND và yêu cầu hoàn thiện pháp
luật bầu cử QH&HĐND ở Việt Nam.
- Thứ ba, Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND phù hợp với tiến trình đổi mới hệ thống cơ quan dân cử, góp phần
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là Pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội
và Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính, bao gồm: những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND; các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bầu cử đại
biểu QH&HĐND ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án:
Về nội dung, nghiên cứu pháp luật bầu cử và những nội dung của nó là những
vấn đề mang tính chính trị, pháp lý, xã hội. Đây đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa
học như chính trị học, xã hội học, sử học, triết học, khoa học quản lý, Tâm lý học
v.v...Song, Luận án chỉ xem xét pháp luật bầu cử dưới góc độ của khoa học pháp lý.
Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của Luận án, để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu Luận
án có thể được tiếp cận dưới góc độ liên ngành và đa ngành của khoa học xã hội,
chính trị và một số khoa học khác như: triết học, xã hội học, dân tộc học, tâm lý học,
sử học, khoa học về quản lý, tổ chức.
Về thời gian: Nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của pháp luật bầu cử
Quốc hội và Hội đồng nhân dân từ 1945 đến nay. Đây là khoảng thời gian hình thành
và phát triển của pháp luật bầu cử đại biểu QH&HĐND, được đánh dấu bằng sự ra
đời của các bản Hiến pháp và Luật bầu cử đại biểu QH&HĐND.
Về không gian nghiên cứu: Trên phạm vi toàn quốc.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận: Luận án được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới đất nước, về phát
huy dân chủ, về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; về đổi mới và hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam
năm 2013. Luận án thuộc mã ngành luật Hiến pháp và luật Hành chính nên quá trình
nghiên cứu, hoàn thiện, luận án phải dựa trên nền tảng lý luận của luật Hiến pháp và
luật Hành chính.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án: Trong quá trình thực hiện đề tài
luận án chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, được sử dụng đề đánh giá, bình luận các quy định của
pháp luật về bầu cử, các tình huống thực tiễn làm cơ sở cho các kết luận khoa học.
Phương pháp này sử dụng trong tất cả các chương và xuyên suốt quá trình thực hiện đề
tài luận án.
- Phương pháp tổng hợp, được sử dụng khi đánh giá nhằm rút ra kết luận tổng
quan trong các tiểu mục, các mục, các chương và khi đưa ra quan điểm, đề xuất các
phương hướng, giải pháp ở nội dung chương 4.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn, dùng để nghiên cứu tổng kết đánh giá những
kết quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn thực hiện pháp luật về bầu cử Quốc hội và
Hội đồng nhân dân ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh luật học, được sử dụng ở chương 2 và chương 3 để so
sánh, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật bầu cử của Việt Nam trong mối
tương quan với quy định của pháp luật bầu cử các nước, nhằm làm sáng tỏ những
điểm chung và điểm khác biệt, so sánh giữa các giai đoạn lịch sử ở Việt Nam với
nhau. Phương pháp này còn được sử dụng khi làm sáng tỏ những vấn đề tổng quan
về mô hình bầu cử và nội dung pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND.
- Phương pháp thống kê, được sử dụng ở chương 2 và chương 3 Thực trạng
pháp luật bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, nhằm tiến hành thu thập, đánh giá
số liệu, sự phát triển của pháp luật bầu cử, sự tác động của bầu cử đối với đời sống
chính trị, xã hội, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Phương pháp phân tích lo gíc quy phạm, được sử dụng khi đánh giá thực
trạng pháp luật, xem xét tính thống nhất hoặc phát hiện những bất cập, mâu thuẫn còn
tồn tại đối với pháp luật bầu cử ở nội dung chương 3.
Ngoài các phương pháp cơ bản nêu trên, đề tài còn sử dụng phương pháp Tiếp
cận đa ngành, liên ngành trong nghiên cứu khoa học xã hội để giải quyết những vấn
đề đặt ra trong Luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách cơ
bản, toàn diện, có hệ thống về pháp luật bầu cử pháp luật bầu cử đại biểu
QH&HĐND ở Việt Nam dưới góc độ Khoa học pháp lý. Những kết quả cần đạt được
của luận án là:
- Thứ nhất, Luận án làm rõ khái niệm, đặc điểm, bản chất của bầu cử, chế độ
bầu cử và pháp luật về bầu cử; vai trò, tầm quan trọng của pháp luật bầu cử đại biểu
QH&HĐND đối với tổ chức quyền lực Nhà nước. Đặc biệt đã đóng góp vào kho tàng
lý luận về dân chủ đại diện được hình thành thông qua bầu cử trên cơ sở pháp luật về
bầu cử đại biểu QH&HĐND.
- Thứ hai, nghiên cứu làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật bầu cử ở
Việt Nam; mối tương quan giữa pháp luật bầu cử của Việt Nam với pháp luật bầu cử
của các nước trong khu vực và thế giới. Phân tích làm rõ mối quan hệ giữa Đảng
chính trị cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền và phương thức thực hiện quyền lực
chính trị của Nhân dân thông qua bầu cử; cơ chế kiểm soát quyền lực và mối quan hệ
giữa pháp luật bầu cử và thực hành dân chủ ở Việt Nam.
- Thứ ba, Luận án làm rõ thực trạng pháp luật bầu cử pháp luật bầu cử đại biểu
QH&HĐND qua các thời kỳ; sự phát triển của các nguyên tắc, quy định của Luật bầu
cử, chế định Hội đồng bầu cử quốc gia, chế định lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm, quy định về từ chức.
- Thứ tư, phân tích và chỉ rõ một số hạn chế, bất cập và nguyên nhân hạn chế
của pháp luật bầu cử pháp luật bầu cử đại biểu QH&HĐND. Những phát hiện và
đánh giá của Luận án về thành tựu và hạn chế của pháp luật bầu cử đại biểu
QH&HĐND chưa được thực hiện và công bố trước đó.
- Thứ năm, qua nghiên cứu lý luận, thực trạng pháp luật bầu cử đại biểu
QH&HĐND, Luận án đề xuất 03 quan điểm, và 05 giải pháp hoàn thiện pháp luật về
bầu cử đại biểu QH&HĐND theo những tiêu chí khoa học, công bằng, tự do, dân chủ,
hiện đại phù hợp với điều kiện nước ta và theo lộ trình hợp lý. Kiến nghị sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân 2015 những vấn đề về: khôi phục quy định “từ chức” của đại biểu
QH&HĐND; đổi mới “quy trình hiệp thương, ứng cử, vận động bầu cử, đơn vị bầu
cử, xác định kết quả bầu cử, vai trò của Tòa án...”; đề xuất nghiên cứu ban hành Luật
về Hội đồng bầu cử Quốc gia, thành lập “Viện nghiên cứu về bầu cử” trực thuộc Hội
đồng bầu cử quốc gia, đề xuất cơ chế “kiểm soát quyền lực Nhà nước” bằng bầu cử
dân chủ..,là những điểm mới của luận án. Những đề xuất này là kết quả của những
nghiên cứu trong công trình này, chưa được công bố ở những nghiên cứu khoa học
pháp lý khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Những kết quả nghiên cứu được nêu trong Luận án góp phần bổ sung tri thức
lý luận về pháp luật bầu cử đại biểu QH&HĐND, tạo cơ sở cho việc tiếp tục xây
dựng, phát triển và hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam,
nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu QH&HĐND, đáp ứng được yêu cầu đổi
mới đất nước và hội nhập quốc tế. Những kết luận trong Luận án góp phần tích cực
vào việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 2013, luật bầu cử đại biểu
QH&HĐND năm 2015 trong thời gian tới.
Luận án là tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy về nhà nước
và pháp luật, về dân chủ nói chung và dân chủ đại diện nói riêng, nhất là về cơ sở,
nền tảng của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện chủ quyền nhân dân, về
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đặc biệt là
trong điều kiện thể chế chính trị “nhất nguyên” ở nước ta.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
Đề tài Luận án gồm 04 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.
Chương 2: Những vấn đề lý luận pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân.
Chương 3: Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Tình hình nghiên cứu liên quan đến chế độ, mô hình bầu cử: Ở Việt Nam,
các nghiên cứu liên quan đến chế độ, mô hình bầu cử, có những công trình như: TS.
Đặng Đình Tân (Chủ biên), “Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội -2006); Viện nghiên
cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp “Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước
KX.02, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật” (1993);
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung “Sự hạn chế quyền lực nhà nước” (Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia, Hà Nội -2006); Sách chuyên khảo do GS.TS Đào Trí Úc (Chủ biên)
“Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia,
Hà Nội-2005); Sách Chuyên khảo do GS.TS Đào Trí Úc (Chủ biên) cùng tập thể tác
giả Võ Khánh Vinh, PGS. TS Trần Đình Hảo, PGS. TS Phạm Hồng Hải, PGS. TS. Hà
Thị Mai Hiên, PGS. TS. Đinh Ngọc Vượng, TS. Nguyễn Thị Việt Hương “Mô hình tổ
chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ” (Nhà xuất
bản Tư pháp, Hà Nội- 2006); Luận án Tiến sĩ Luật học “Mối quan hệ giữa dân chủ và
pháp luật”(Hà Nội -2007) của tác giả Đỗ Minh Khôi. Sách chuyên khảo do PGS. TS.
Bùi Xuân Đức (Chủ biên ) “ Đổi mới, hoàn thiện Bộ máy Nhà nước trong gia đoạn
hiện nay ” (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội- 2007 ); GS. TS. Võ Khánh Vinh (Chủ
biên) “ Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội ” ( Nhà
xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội- 2009 ); GS. TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) “
Quyền con người” Giáo trình giảng dạy sau đại học (Nhà xuất bản khoa học xã hội,
Hà Nội- 2011); Ban Công tác đại biểu Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử “Vai trò
của Hội đồng nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương” (Nhà xuất bản
Chính trị- Hành chính, Hà Nội 2009 ). Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đềTriển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội- 2014.
GS.TS. Phùng Hữu Phú, GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Vũ Văn Hiền, PGS.TS.
Nguyễn Viết Thông, đồng chủ biên: Một số vấn đề lý luận – Thực tiễn về Chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Mã số
3.32, CTQG- 2016 – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà nội – 2016, với
các đề tài nghiên cứu: “Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”,
mã số KX.04.01/11- 15. Chủ nghiệm: GS.TS. Mạch Quang Thắng. “Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị- xã hội trong điểu kiện mới”, mã số KX.04.02/11- 15. Chủ
nghiệm: PGS.TS. Trần Khắc Việt. “Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy
nhất cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, mã số KX.04.03/11- 15. Chủ nhiệm: PGS.TS. Phạm Văn
Đức. “Đổi mới bộ máy của Đảng, bộ máy của Nhà nước trong điều kiện mới”, mã số
KX.04.04/11- 15. Chủ nghiệm: GS.TS. Nguyễn Đăng Thành. “Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”, mã số KX.04.08/11- 15.
Chủ nghiệm: TS. Võ Thành Khối. “Quyền con người trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế - lý luận và thực tiễn”, mã
số KX.04.27/11- 15. Chủ nhiệm: PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn. PGS.TS. Nguyễn
Văn Động (Chủ biên). “Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam”, NXB Chính trị quốc
gia- Sự thật, Hà nội- 2016.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội
và Hội đồng nhân dân: Các công trình, bài viết trực tiếp liên quan pháp luật bầu cử
QH&HĐND, cụ thể: Văn phòng Quốc hội-Vụ Công tác đại biểu, với đề tài nghiên
cứu “Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Quốc hội” (TS. Phan Trung Lý- chủ
nhiệm đề tài -2004), Đề tài đã làm rõ vai trò của đại biểu Quốc hội và những yêu cầu
về đổi mới pháp luật bầu cử đại biểu Quốc hội, những nội dung đề cập đã được tiếp
thu trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 1992 và ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. PTS. Vũ Hồng Anh với
sách chuyên khảo “Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới” (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội-1997); TS. Vũ Thị Loan, với sách chuyên khảo “Một số
vấn đề về hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay”
(Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 2010), tác giả đã làm rõ chế độ bầu cử đại
biểu HĐND ở Việt Nam trong điều kiện một Đảng cầm quyền, thực trạng pháp luật
bầu cử và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bầu cử HĐND, những đề xuất đã được
xem xét trong quá trình xây dựng và ban hành Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân năm 2015. TS. Thái Vĩnh Thắng có bài viết “Một số ý kiến về đổi mới
tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước ta trong giai đoạn hiện
nay”(Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 (157)/2001; TS. Bùi Xuân Đức có bài viết
trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 7/2001 “Pháp luật bầu cử: một số vấn
đề cần hoàn thiện”; PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Chu Khắc Hoài Dương “Bầu cử
và vấn đề dân chủ” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2002); TS. Trương Đắc Linh
có bài viết “Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 - Một mốc son lịch sử của thể chế
dân chủ Việt Nam” (Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1(32)/2006); TS. Bùi Ngọc Thanh
“Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII- Những vấn đề từ thực tiễn” (Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 7(103), tháng 7/2007). Lưu Đức Quang “ Tự do, công bằng
trong bầu cử và những liên hệ với bầu cử ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 01 (91) tháng 1 /2007. PGS, TSKH Phan Xuân Sơn “ Thực trạng và giải pháp đổi
mới công tác bầu cử ở nước ta ” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 04 (97) tháng
4/2007. Trần Thanh Hương “ Hiệp thương và tác động của hiệp thương đến phát huy
tính tích cực của công dân trong thực hiện quyền bầu cử” Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 04 (97) tháng 4/2007. Nguyễn Thị Phượng “ Có nên bằng cấp hoá tiêu chuẩn
đại biểu Quốc hội” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 02 (163) tháng 01/2010. TS. Vũ
Đức Khiển “Quyền lực nhà nước của nhân dân và việc bảo đảm để nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19 (180) tháng 10/2010.
TS. Vũ Văn Nhiêm “ Chế độ bầu cử- Nhìn từ góc độ đồng thuận xã hội và bảo vệ các
nhóm xã hội dễ bị tổn thương ” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 (181) tháng
10/2010. PGS. TS Nguyễn Minh Đoan “Hoàn thiện hơn nữa chế độ bầu cử đại biểu
dân cử ở nước ta” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7 (192) tháng 4/2011. Tác giả:
Đào Đoan Hùng “ Khắc phục những hạn chế của hoạt động chất vấn ” Báo Người
đại biểu nhân dân số 40 (432) Ngày 11/03/2005. Tác giả: Đào Đoan Hùng “ Giải
pháp cho những hạn chế về hiệu quả hoạt động của HĐND ” Báo đại biểu nhân dân
số 164 ( 2643) Ngày 13/6/2011; Thạc sĩ: Đào Đoan Hùng “Pháp luật về bầu cử Hội
đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay” Luận văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ ngày
19/5/2013 tại Học viện khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Những bài viết, công trình nghiên cứu của nhóm tác giả trên đã chỉ rõ những
hạn chế, bất cập của pháp luật bầu cử ở nước ta như: thực hành dân chủ, cơ chế thực
hiện quyền lực, quy trình hiệp thương, sự công bằng, đồng thuận xã hội trong bầu
cử.., các nghiên cứu đã cung cấp những luận cứ quan trọng và có những đóng góp
nhất định về mặt khoa học giúp cho việc xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 2013,
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. Tuy nhiên, trước yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bầu cử
hiện nay thì những đóng góp đó chỉ có giá trị tham khảo ở những khía cạnh nhất định.
Những bài viết nghiên cứu sau khi có Bản Hiến pháp năm 2013 và Luật bầu
cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 mà tác giả tiếp cận, nghiên
cứu: Xây dựng Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ( Kỷ
yếu Hội thảo ) Nhà xuất bản Lao động, Hà nội 2014. Viện nghiên cứu lập pháp - Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nền tảng chính trị, pháp lý cho
cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới - Ủy ban thường vụ Quốc hội(Nhà xuất bản lao động xã hội năm 2014). Thạc sĩ: Đào Đoan Hùng “Thi hành Hiến
pháp và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bầu cử cơ quan đại diện dân cử ở Việt
Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề- Triển khai thi hành Hiến pháp
năm 2013, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội- 2014. GS. TS. Hoàng Chí Bảo “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ Quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân”, Tạp chí Mặt trận số 162 + 162,
tháng 1+ 2/2017. GS.TS. Trần Ngọc Đường, Bàn về Hội đồng bầu cử Quốc gia trong
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Báo Đại biểu nhân dân, ngày 18/9/2013…
Ngoài ra, các Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam hoặc Luật Hiến pháp nước
ngoài trong Chương trình đào tạo Cử nhân Luật đều có chương (mục) “Chế độ bầu
cử”, đề cập về pháp luật bầu cử ở mức độ giới thiệu pháp luật thực định về bầu cử
cho sinh viên. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử ở nước ta đã được
Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm trong những năm gần đây. Trong lĩnh vực khoa
học pháp lý vấn đề này đã được đề cập nhiều trên sách báo, tạp chí, các diễn đàn khoa
học nhưng chủ yếu mới chỉ quan tâm đến chức năng giám sát hoặc chức năng quyết
định của QH&HĐND, vai trò của đại biểu dân cử hoặc nghiên cứu dưới góc độ kiện
toàn hệ thống tổ chức, xây dựng đội ngũ đại biểu QH&HĐND. Những nội dung
nghiên cứu trên đã bàn trực tiếp đến vấn đề tổ chức và hoạt động của cơ quan đại
diện dân cử; những vấn đề này có liên quan đến đề tài nghiên cứu, song chưa đề
cập một cách toàn diện đến Pháp luật về bầu cử QH&HĐND với những đặc điểm
riêng có của nó và những ưu thế cũng như hạn chế có tính đặc thù của hệ thống cơ
quan dân cử ở Việt Nam.
1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Bầu cử được các học giả tư sản nghiên cứu rất công phu và đa dạng, và có khá
nhiều các tác giả có các công trình nghiên cứu về bầu cử và pháp luật bầu cử. Cụ thể
như: Giáo sư Guy S. Goodwin-Gill với cuốn sách “Free and Fair Elections-New
expanded edition” (2006), do Liên minh Nghị viện thế giới xuất bản. Tập thể các nhà
nghiên cứu Mark Anstey, Christopher Bennett, David Bloomfield, K. M. de Silva,
Nomboniso Gasa, Yash Ghai, Peter Harris, Luc Huyse, Rasma Karklins, Michael
Lund, Charles Nupen, David M. Olson, Anthony J. Regan, Ben Reilly, Andrew
Reynolds, Carlos Santiso and Timothy D. Sisk với ấn phẩm “Democracy and DeepRooted Conflict: Options for Negotiators”(1998) do IDEA xuất bản; Alan Wall,
Andrew Ellis, Ayman Ayoub, Carl W. Dundas, Joram Rukambe, Sara Staino với công
trình “Electoral Management Design: The International IDEA Handbook”; Các tác
giả Judith Large and Timothy D. Sisk, có công trình “Democracy, Conflict and
Human Security: Pursuing Peace in the 21st Century”(2006); Ấn phẩm do Liên hợp
quốc xuất bản “Women and Elections: Guide to promoting the participation of
Women in elections”(2005); David Beetham với“Parliament and Democracy in The
twenty-first century a guide to good practice”(2006); Huntington, Samuel P.“The Third
Wave: Democratization in the Late Twentieth Century”(1991). Madison Jay với
cuốn: Từ điển về quyền và chính trị Hoa kỳ, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002…
Ngoài ra có rất nhiều các bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến bầu cử được
đề cập ở các khía cạnh khác nhau, song đều có điểm chung đó là: theo cơ chế chính
trị và chế độ bầu cử của các quốc gia theo chế độ đa đảng, có bề dày lịch sử về thực
hành dân chủ ở Nhà nước tư bản.
1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Đánh giá về các công trình nghiên cứu đã được tham khảo nêu trên có thể rút
ra một số nhận xét khái quát sau:
- Thứ nhất, Phần tài liệu khoa học nước ngoài là những nghiên cứu, đề xuất,
khuyến nghị của các học giả và tổ chức quốc tế về chế độ bầu cử và pháp luật bầu
cử. Trong đó nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những nguyên lý, giá trị phổ quát có ý
nghĩa về bầu cử trong xã hội dân chủ đã được nhân loại thừa nhận và áp dụng rộng
rãi trên thế giới; bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng thể hiện rõ nét đặc điểm của
các hệ thống pháp luật (Dân luật Civillow, Châu âu lục địa), và cơ chế bầu cử
trong các thể chế chính trị cạnh tranh “đa Đảng” được áp dụng ở nhiều quốc gia;
là cơ sở tham khảo trong quá trình nghiên cứu lý luận pháp luật về bầu cử đại biểu
QH&HĐND, đặc biệt khi đối chiếu, so sánh với các chuẩn mực quốc tế và kinh
nghiệm bầu cử của các nước.
- Thứ hai, các công trình nghiên cứu liên quan đến chế độ, mô hình về bầu cử
cho thấy: bầu cử là yếu tố thiết yếu của một Nhà nước dân chủ hiện đại, là phương
thức quan trọng để khẳng định vai trò của Đảng chính trị cầm quyền trong tổ chức,
thực hiện quyền lực Nhà nước và thực hiện chủ quyền nhân dân, là đáp ứng yêu cầu
xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy của các Nhà nước trên thế giới và của Việt
Nam. Những công trình nghiên cứu này đã có những phân tích, tổng hợp nhất định về
bầu cử cũng như quá trình triển khai thực hiện tại Việt Nam, đánh giá vai trò của thiết
chế đại diện dân cử trong điều kiện, đặc điểm lịch sử, chính trị của mỗi quốc gia,
trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đây là các công trình khoa học có giá
trị tham khảo cao trong quá trình xác định cơ sở lý luận của pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND, một số vấn đề trong thực trạng triển khai, tiến hành bầu cử
QH&HĐND ở Việt Nam.
- Thứ ba, nhóm nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bầu cử đại biểu
QH&HĐND đã có những đánh giá từ góc độ của khoa học pháp lý các vấn đề về:
nguyên tắc bầu cử, quy trình bầu cử, quyền ứng cử, tính cạnh tranh trong bầu cử, mô
hình đơn vị bầu cử, các tổ chức phụ trách, quản trị bầu cử, việc bầu cử thêm, bầu cử
lại; quy định lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm những người giữ chức vụ do
QH&HĐND bầu hoặc phê chuẩn...,trong đó pháp luật về bầu cử đại biểu
QH&HĐND đã được đề cập ở những cấp độ và khía cạnh khác nhau; đồng thời là
một nội dung mới cần được hoàn thiện phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp
luật bầu cử, đảm bảo công bằng, khách quan, minh bạch, thống nhất, hiện đại. Các
công trình nghiên cứu này có giá trị tham khảo cho luận án trong việc triển khai
những nội dung căn bản của lý luận pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND và quá
trình thực hiện cũng như một số vấn đề còn hạn chế cần được bổ sung, hoàn thiện đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Thứ tư, qua phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài cho
thấy, mặc có những đóng góp nhất định và có ý nghĩa tham khảo cho luận án, tuy
nhiên nhìn chung các nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án còn một số hạn chế và
còn nhiều vấn đề chưa được đề cập, cụ thể là:
Một là, phần lớn các công trình nghiên cứu tiếp cận pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND dưới góc độ Chế độ bầu cử, mô hình bầu cử. Công trình nghiên cứu
pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND dưới góc độ khoa học pháp lý còn hạn chế
về số lượng và phạm vi nghiên cứu. Đa phần các công trình nghiên cứu ở cấp luận án
tiến sĩ đều là các luận án nghiên cứu chuyên biệt về chế độ bầu cử, về các chế định
luật cụ thể: quyền bầu cử, ứng cử, vận động bầu cử, bầu cử đại biểu QH&HĐND;
một số nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của QH&HĐND, Hội đồng bầu cử quốc
gia, vai trò lãnh đạo của Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc trong bầu cử…chưa có công
trình nào đề cập toàn diện đến khái niệm pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND,
đặc điểm, vai trò của pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND, vấn đề kiểm soát
quyền lực nhà nước bằng bầu cử dân chủ và mối quan hệ của pháp luật bầu cử và thể
chế chính trị…, do đó chưa đưa ra được các yêu cầu và tiêu chí hoàn thiện pháp luật
về bầu cử đại biểu QH&HĐND. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rõ rằng, để hoạt động
bầu cử hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền thì cần thiết phải có khung pháp lý đảm bảo cho việc
triển khai bầu cử theo đúng tinh thần tự do, dân chủ, công bằng, khách quan phù hợp
với đặc điểm chính trị của Việt Nam và chuẩn mực quốc tế.
Hai là, các nghiên cứu tuy ít nhiều đã có đề cập đến pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND như là cơ sở pháp lý cho hoạt động bầu cử trên thực tiễn, nhưng
chưa có đánh giá tổng thể pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND hiện hành ở góc
độ pháp luật thực định để chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Trong nghiên
cứu khoa học luật còn thiếu các công trình mang tính lý luận về pháp luật bầu cử đại
biểu QH&HĐND cũng như phân tích thực trạng của pháp luật về bầu cử đại biểu
QH&HĐND. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND thiếu một hệ thống lý luận vững chắc làm cơ sở nền tảng cho việc
hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND.
Ba là, đa phần các công trình đều được nghiên cứu trong điều kiện thi hành
các bản Hiến pháp từ 1946 đến nay và các văn bản pháp luật về bầu cử qua các thời
kỳ, với nền tảng lịch sử, kinh tế - xã hội có nhiều biến động, thay đổi. Nhà nước pháp
quyền đang hoàn thiện việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp
thời. Điều đó gây khó khăn cho việc thực hành dân chủ trong bầu cử và hoàn thiện
pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND. Một số tài liệu, công trình nghiên cứu phục
vụ trực tiếp cho việc sửa đổi Hiến pháp 1992, xây dựng và ban hành Hiến pháp năm
2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. Do vậy, các
vấn đề được nêu về cơ sở pháp lý, thực trạng, bất cập, hạn chế và các giải pháp đề
xuất trong các công trình này chưa thể hiện được các vấn đề của pháp luật hiện nay
về bầu cử đại biểu QH&HĐND, cần nghiên cứu, hoàn thiện.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang khẩn trương triển khai thi hành Hiến
pháp mới - Hiến pháp năm 2013, và hoàn thiện hệ thống pháp luật; việc lựa chọn và
xác định đề tài nghiên cứu Pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam hiện
nay là cần thiết và đúng hướng, kết quả nghiên cứu sẽ giúp tạo thêm những điều kiện
nhận thức cho tiến trình đổi mới xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đang được xúc tiến mạnh mẽ và khẩn trương
hiện nay. Thực tế trên đặt ra yêu cầu cần phải có thêm nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về dân chủ đại diện hình thành thông qua bầu cử và trên cơ sở pháp luật
bầu cử đại biểu QH&HĐND, đặc biệt là quy mô luận án tiến sĩ với cách tiếp cận từ
cơ sở lý luận đến thực trạng để từ đó luận giải được các quan điểm, phương hướng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam phù hợp
với yêu cầu đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Pháp luật về bầu cử đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, tác giả xác định những vấn đề
cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển đó là:
Về lý luận, Bầu cử và pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam là
một vấn đề không mới, nhưng khá phức tạp do đặc điểm lịch sử đấu tranh cách mạng
dành độc lập dân tộc thống nhất đất nước, xây dựng CNXH và đặc điểm riêng có của
thể chế chính trị Việt Nam nên có nhiều vấn đề lý luận cần được làm rõ là:
Thứ nhất, dựa trên khái niệm pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND, tiếp
tục nghiên cứu sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu
QH&HĐND phù hợp với yêu cầu đổi mới đất nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ hai, xác định các tiêu chí để hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu
QH&HĐND làm cơ sở cho việc đánh giá quá trình phát triển và hoàn thiện pháp luật
về bầu cử đại biểu QH&HĐND.
Thứ ba, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật, xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND.
Thứ tư, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật bầu cử đại biểu QH&HĐND theo
chuẩn mực pháp lý quốc tế, pháp luật bầu cử một số nước trên thế giới để tìm hiểu và
khai thác các giá trị tham khảo giúp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bầu
cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam. Với các vấn đề cần làm rõ nêu trên, luận án sẽ
trả lời các câu hỏi sau:
- Cơ sở lý luận về chế độ bầu cử, pháp luật về bầu cử? Khái niệm, đặc điểm
của pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam là gì?
- Các nguyên tắc bầu cử đương đại phổ biến hiện nay là gì? Các nguyên tắc
bầu cử nào đã và đang được áp dụng ở Việt Nam?
- Bầu cử có vai trò như thế nào trong việc tổ chức quyền lực nhà nước và thực
thi dân chủ? Cơ chế hình thành cơ quan đại diện dân cử; Vai trò của các đảng phái
chính trị và người dân trong bầu cử như thế nào?
- Pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam quy định về cách thức
bầu cử, phương pháp xác định người trúng cử như thế nào? Mối tương quan giữa
pháp luật bầu cử của Việt Nam với pháp luật bầu cử của các nước trong khu vực và
thế giới? để hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam cần phải dựa trên những tiêu
chí nào?
Về thực tiễn, luận án tiếp tục nghiên cứu là rõ các vấn đề:
Một là, quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bầu cử đại biểu
QH&HĐND ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử để thấy sự vận động, phát triển và
mức độ hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND.
Hai là, pháp luật thực định về bầu cử QH&HĐND, những ưu điểm, nhược
điểm của pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND hiện hành và những hạn chế, bất
cập của luật thực định thể hiện trong quá trình thực thi và nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập này. Những câu hỏi được trả lời trong phần này là:
- Thực trạng về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay như thế nào? để đáp ứng những
yêu cầu nào? mức độ hoàn thiện đến đâu? còn có những nội dung nào chưa phù hợp?
- Pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam thời gian qua đã đạt
được những kết quả gì? nguyên nhân gì dẫn đến thành công cũng như hạn chế của
pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam?
1.5. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
1.5.1. Giả thuyết nghiên cứu
Bầu cử là chế định quan trọng của Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Việc
nghiên cứu chế định bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cho phép chúng
ta thấy cần phải hoàn thiện chế định này trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền và tăng cường dân chủ, hội nhập quốc tế. Nhiều vấn đề của bầu cử cơ quan đại
diện dân cử cần phải nghiên cứu để hoàn thiện: đề cử, ứng cử, hiệp thương, công bố
kết quả, công nhận tư cách đại biểu, quản trị bầu cử, miễn nhiệm đại biểu, từ chức và
vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước bằng pháp luật bầu cử.
1.5.2 Câu hỏi nghiên cứu
Với các vấn đề này, luận án sẽ trả lời các câu hỏi:
- Trước yêu cầu đổi mới đất nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quan điểm hoàn
thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam là gì?
- Để hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND cần những giải pháp
cụ thể nào?
- Liệu quy định của Hiến pháp 2013 về Hội đồng Bầu cử quốc gia đã được hiểu
nhất quán và áp dụng trong thực tiễn?
- Có cần ban hành Luật về Hội đồng bầu cử Quốc gia?
- Có cần phải thành lập Viện nghiên cứu về bầu cử? Viện này trực thuộc cơ
quan nào?
- Có cần hiến định quy định về từ chức hay không?
Kết luận Chương 1
Chương 1 luận án đã khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án “Pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện
nay” với hai nhóm vấn đề: nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến chế độ, mô
hình bầu cử, và nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bầu cử
đại biểu QH&HĐND.
Đa số các công trình nghiên cứu kể cả trong nước và nước ngoài đều nhìn
nhận pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND dưới góc độ chế độ, mô hình bầu cử
với đặc điểm thể chế chính trị khác nhau “Đa đảng” và “Nhất nguyên”. Bên cạnh đó,
trong việc nghiên cứu pháp luật thực định vẫn có những quan điểm khác nhau trong
các vấn đề như: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong các cuộc bầu cử; tiêu chuẩn và cơ
cấu đại biểu; việc thực hiện các nguyên tắc bầu cử; quyền bầu cử, quyền và độ tuổi
ứng cử; quy trình hiệp thương, phân chia đơn vị bầu cử; lấy phiếu, bỏ phiếu tín
nhiệm, quy định từ chức; công tác quản trị bầu cử..,và có nên có Luật riêng về Hội
đồng bầu cử Quốc gia hay không?.., và có cần hiến định nguyên tắc bầu cử tự do vào
Hiến pháp hay không, nghiên cứu khôi phục quy định từ chức, việc thành lập Viện
nghiên cứu về bầu cử..,là những vấn đề chưa được nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận
và thực tiễn pháp luật về bầu cử.
Nhìn tổng thể, các nghiên cứu về chế độ, mô hình bầu cử và các nghiên cứu
pháp luật về bầu cử QH&HĐND chưa tập hợp, xây dựng được hệ thống tri thức lý
luận đầy đủ và vững chắc về dân chủ đại diện để hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại
biểu QH&HĐND, chưa phân tích đánh giá một cách tổng quát thực trạng xây dựng
và thực hiện pháp luật bầu cử để đưa ra các quan điểm và giải pháp phù hợp nhằm
hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND ở Việt Nam. Hạn chế này làm
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của pháp luật về bầu cử nói riêng và hệ thống
pháp luật nói chung.
Trên cơ sở đánh giá tình hình nghiên cứu, luận án đã xác định những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu trên cả 3 phương diện về lý luận, thực tiễn và quan điểm và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu QH&HĐND. Ở mỗi phương diện
đều nêu các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, qua đó đặt ra các câu hỏi và giả thuyết
nghiên cứu mà luận án cần trả lời, làm rõ.
Qua đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể nói, dưới góc độ khoa
học luật học chuyên ngành Luật Hiến Pháp và luật Hành chính thì ở Việt Nam chưa
có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về pháp
luật bầu cử đại biểu QH&HĐND trên cả hai cấp độ bầu cử cơ quan lập pháp ở Trung
ương- Quốc hội và bầu cử chính quyền địa phương - Hội đồng nhân dân các cấp. Vì
vậy, Luận án “Pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở Việt
Nam hiện nay” là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện cả về cơ sở lý
luận và thực tiễn để đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bầu cử đại biểu
QH&HĐND ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển của đất
nước, phù hợp với thể chế chính trị của Việt Nam.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
2.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của bầu cử và chế độ bầu cử
2.1.1. Khái niệm, bản chất của bầu cử
Bầu cử đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử nhân loại. Trong thời kỳ chiếm
hữu nô lệ, ngoài hình thức chính thể quân chủ là phổ biến, thì cũng đã tồn tại chính
thể cộng hòa với Viện nguyên lão bao gồm đại diện của những chủ nô quý tộc
(Comita centuria) và đại diện của những người cầm vũ khí [130, tr. 19]. Giai đoạn
đầu của chế độ phong kiến, bên cạnh các chính thể quân chủ, còn tồn tại hình thức
cộng hòa quý tộc, ở đó những người có vị thế bầu ra Đại hội nhân dân. Dưới chế độ
phong kiến chuyên chế, nói chung bầu cử không được áp dụng [21, tr. 307]. Cách
mạng dân chủ tư sản xác lập, chế độ dân chủ tư sản tuyên bố chủ quyền nhân dân,
cũng đồng thời khẳng định bầu cử là phương thức căn bản để ủy quyền, qua đó thành
lập ra các thiết chế đại diện. Trong các nhà nước quân chủ chuyên chế, quyền lực nằm
trong tay Vua (hay Hoàng đế), người được coi là “thiên tử”. Khái niệm quyền lực
nhân dân ra đời cùng với khái niệm dân chủ. Người Hy lạp ngay từ thời cổ đại đã cho
rằng dân chủ có nghĩa là chính quyền thuộc về nhân dân (dân chủ có nguồn gốc từ
tiếng Hy lạp demos có nghĩa là nhân dân và kratos có nghĩa là quyền lực [146.
Defining Democracy]. Chủ quyền nhân dân (quyền lực nhân dân) là bản chất và là
đặc trưng các Nhà nước và xã hội dân chủ. Tuy nhiên, việc thực thi chủ quyền nhân
dân thì vấn đề lại không đơn giản trong các nhà nước và xã hội. Có hai hình thức cơ
bản để thực hiện quyền lực nhân dân là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân
chủ trực tiếp là việc người dân trực tiếp quyết định các vấn đề của họ, mà không cần
qua các đại biểu hoặc cơ quan trung gian. Rousseau hay người Hy lạp cổ đại cho
rằng, chỉ có dân chủ trực tiếp mới thực sự là dân chủ, như nó đã được áp dụng trong
hoạt động của chính quyền Athena thời cổ đại. Vào thế kỷ XVIII, trong đời sống
chính trị thế giới đã xuất hiện lý thuyết đại diện gắn liền với tên tuổi của Locke,
Rousseau và Montesquieu. Theo lý thuyết đại diện, quyền lực về nguyên tắc thuộc về
nhân dân, nhưng do những lý do thực tế, nhân dân không thể trực tiếp thực hiện toàn
bộ quyền lực của mình, mà phải uỷ thác cho những người đại diện để thay mặt nhân
dân thực hiện quyền lực của nhân dân. Rousseau, mặc dù cho rằng dân chủ trực tiếp
mới là dân chủ thực sự, nhưng cũng phải thừa nhận rằng đó là một hình thức lý
tưởng; nhân dân phải uỷ quyền cho người đại diện, mà không thể trực tiếp thực hiện
quyền lực của mình. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lê nin khẳng định sự
cần thiết của chế độ đại diện trong chế độ XHCN: “Chúng ta không thể quan niệm
một nền dân chủ, dầu là dân chủ vô sản, mà lại không có cơ quan đại diện” (Tuy
nhiên, Lê nin cho rằng cơ quan lập pháp của nhà nước tư bản không thể gọi là cơ
quan dân cử (chữ cử nghĩa là bầu cử ) [102, tr. 51], vì nó đại diện cho các thành phần
tư sản, quí tộc thậm chí không qua bầu cử. Nó chỉ có thể gọi là cơ quan đại diện mà
thôi [123, tr. 370- 372]. Theo Lênin, nội dung của sự ủy quyền là nguyên tắc ủy
quyền mệnh lệnh (imperative mandate). Theo nguyên tắc này, cử tri thông qua bầu cử
trao cho các đại biểu ủy nhiệm thư, đồng thời có quyền bãi nhiệm đại biểu nếu họ
không thực hiện hoặc không thực hiện tốt ủy nhiệm thư. Lênin cho rằng, bằng hình
thức đó, chế độ dân chủ đại diện mới thực sự dân chủ và cơ quan đại diện mới thực
sự đại diện cho ý chí của Nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho đại biểu thực hiện quyền
lập pháp, đồng thời yêu cầu các đại biểu thực hiện quyền lập pháp phù hợp với ý chí
của Nhân dân [102, tr. 63].
2.1.1.1. Khái niệm bầu cử: Xuất phát từ cách tiếp cận, các phương pháp và góc
độ nghiên cứu, các tác giả có thể đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về bầu cử. Nhìn
chung, bầu cử được hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, bầu cử là hành vi của công dân lựa chọn người ( hoặc tổ
chức) để ủy quyền, trao quyền (bầu ra các cơ quan đại diện, các chức danh trong một
tổ chức Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội) hay bày tỏ ý chí, quan điểm của mình về
một chính sách, vấn đề hệ trọng của quốc gia, sự bất tín nhiệm đối với đại biểu do
chính họ bầu ra. Không chỉ liên quan đến bộ máy nhà nước, bầu cử còn được sử dụng
trong tổ chức, hoạt động của các tổ chức Đảng phái, xã hội (ví dụ như bầu cử trong
Đảng, tổ chức công đoàn…). Với cách tiếp cận như trên, theo các tác giả cuốn Từ
điển Tiếng Việt, “bầu cử là chọn bằng cách bỏ phiếu hoặc biểu quyết để giao cho
làm đại biểu, giữ một chức vụ hoặc hưởng một vinh dự (bầu đại biểu Quốc hội, bầu
đại biểu đi dự đại hội, hội nghị…”[132, tr. 50].
Theo tác giả Vũ Hồng Anh, “bầu cử là thủ tục mà theo đó nhóm người xác
định (Nhân dân, cử tri, tập thể, cá nhân) bầu ra một hay nhiều người để thực hiện
chức năng xã hội nào đó ”[01, tr. 10].
Theo tác giả Madison Jay, trong cuốn Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa
Kỳ định nghĩa “bầu cử là quá trình lựa chọn một hoặc nhiều người cho một chức vụ
công hoặc tư, từ nhiều ứng cử viên khác nhau” …”[157, tr. 315]. Như vậy, theo nghĩa
rộng, bầu cử là hành vi lựa chọn của công dân (cá nhân) theo một cách thức nhất định
(bỏ phiếu, biểu quyết) để xác định những người đại diện nhằm thực hiện một nhiệm
vụ cụ thể hay chức năng nào đó trong một cơ cấu xã hội nhất định. Bầu cử là một
hiện tượng xã hội.
Theo nghĩa hẹp, xuất phát từ cách tiếp cận quyền lực chính trị mà biểu hiện tập
trung ở (quyền lực nhà nước), bầu cử là cách thức của công dân lựa chọn người đại
diện để ủy quyền (thay mặt mình ra quyết định) nhằm thành lập cơ quan nhà nước
hoặc ( chức vụ quyền lực nhà nước) ở quốc gia hay một vùng lãnh thổ (địa phương).
Theo Madison Jay, định nghĩa theo nghĩa hẹp: “bầu cử là quá trình do chính phủ điều
hành người dân lựa chọn ứng cử viên của một đảng chính trị cho các cơ quan quyền
lực nhà nước dù họ phản đối hay tán thành”. Nhóm tác giả khác là Harop và Miller
cho rằng, bầu cử là cách bày tỏ sự tín nhiệm của những người bị cai trị, sau đó là sự
bày tỏ này được tập hợp lại và chuyển thành một quyết định tập thể về vấn đề ai sẽ là
người cai trị ( người sẽ nắm giữa quyền lực), ai sẽ bị lật đổ, ai sẽ thay thế người bị lật
đổ. Với cách định nghĩa này, các tác giả trên đã chỉ rõ bản chất của các cuộc bầu cử
trong xã hội tư sản hiện đại, đồng thời đặt ra những vấn đề rộng lớn hơn trong lĩnh
vực chính trị như: bản chất cơ chế bầu cử; các yếu tố cấu thành hệ thống bầu cử; kết
quả và tác động của bầu cử [65, tr. 14].
Ở Việt Nam, các tác giả Nguyễn Đăng Dung và Bùi Ngọc Sơn định nghĩa
“bầu cử là phương pháp lựa chon người đại diện chủ quyền của nhân dân để thay
mặt họ quản lý và điều hành đất nước. Bầu cử là một hình thức đặc trưng cho chế độ
chính trị dân chủ”[65, tr. 14]. Nhóm tác giả cuốn Tổ chức và hoạt động của Quốc hội
một số nước, dưới góc độ luật học đã đưa ra khái niệm “bầu cử là một trong những
chế định pháp luật quan trọng của ngành luật Hiến pháp, là cơ sở pháp lý cho việc
hình thành các cơ quan đại diện- cơ quan quyền lực nhà nước. Bầu cử là việc công
dân của một nước lựa chọn những người đại diện để trao quyền cho họ thay mặt
mình giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước”[65, tr. 14, 15].
Mặc dù với những cách tiếp cận khác nhau (rộng, hẹp) hay từ góc độ của khoa
học chính trị- pháp lý, các tác giả đều thống nhất nội dung cơ bản của khái niệm bầu
cử, đó là: “Cách thức người dân lựa chọn trong số các ứng cử viên để ủy quyền cho
họ thực thi quyền lực. Đó là quá trình một nhóm người (cử tri) chọn ra một nhóm
người hoặc một người (người được bầu) đại diện cho họ và đưa ra các quyết định
nhân dân họ”. Như vậy, Bầu cử là một quá trình đưa ra quyết định của người dân để
lựa chọn ra một cá nhân nắm giữ chức vụ thuộc chính quyền. Đây là một cơ chế
thông thường mà các nền dân chủ dùng để phân bổ chức vụ trong bộ máy lập pháp,
cơ chế này cũng được áp dụng ở bộ máy hành pháp, tư pháp, và ở chính quyền địa
phương.
Bầu cử là một trong những chế định quan trọng trong ngành Luật Hiến pháp,
là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện cho quyền lực của Nhà
nước. Việc bầu cử thành lập cơ quan hoặc một chức danh công quyền được điều
chỉnh bởi hiến pháp và pháp luật do nhà nước ban hành. Thông thường Quốc hội
(Nghị viện), các cơ quan đại diện của chính quyền địa phương được thành lập bằng
cách tổ chức bầu cử. Ở một số nước, các vị trí, cơ quan nhà nước khác như tổng
thống, thống đốc tiểu bang, thị trưởng thành phố... cũng phát từ Nhân dân và buộc
các chính trị gia phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về hành vi của mình. được
thành lập thông qua bầu cử. Các cuộc bầu cử định kỳ là phương tiện kiểm soát thiết
yếu của công chúng đối với chính quyền. Bầu cử là để khẳng định quyền lực chính trị
xuất Bầu cử là sự lựa chọn (từ gốc tiếng Latinh eligere- lựa chọn). Thông qua đó các
công dân chọn người, chọn đảng phái để ủy quyền, chọn chính sách để giải quyết các
vấn đề của một xã hội, để mang lại hạnh phúc cho cá nhân và cộng đồng. Bầu cử sẽ
mất đi ý nghĩa nếu không có sự tự do lựa chọn. Trong Luật Hiến pháp thuật ngữ "bầu
cử" được hiểu là thủ tục tiến hành biểu quyết của cử tri (đại cử tri, đại diện cử tri) với
điều kiện để bầu lập cơ quan nhà nước hay chức danh nhà nước, thủ tục này được
thực hiện bởi sự một đại biểu (chức danh) phải có từ hai ứng cử viên trở lên. Cần
phân biệt bầu cử với phương pháp khác thành lập cơ quan nhà nước như bổ nhiệm.
Khác với cuộc bầu cử được sử dụng trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã
hội, cuộc bầu cử thành lập cơ quan nhà nước hay một chức danh nhà nước được điều
chỉnh bởi Hiến pháp và pháp luật do nhà nước ban hành. Thông thường Nghị viện, cơ
quan đại diện của chính quyền địa phương được thành lập bằng con đường bầu cử. Ở
một số nước, các cơ quan nhà nước khác như Tổng thống, Chính phủ, Tòa án cũng
được thành lập thông qua bầu cử. Montesquieu chỉ ra trong Quyển II, Chương 2 của
cuốn Del’esprit des lois (Tinh thần Pháp luật) của ông rằng trong việc bầu cử ở thể
chế cộng hòa hay dân chủ, cử tri có khi là những người cầm quyền của quốc gia có
khi lại là người dân của nhà nước đó bằng việc bỏ phiếu. Nó cho phép người dân có
quyền rất lớn để hành động như những "chủ nhân" chọn những "công bộc" chính
quyền cho chính họ. Đặc điểm đặc biệt của các nền dân chủ và cộng hòa là sự nhận
thức rằng chỉ có quyền hợp pháp cho nhà nước "của dân, do dân và vì dân" là phải có
sự đồng thuận của người dân hay những người bị trị (consent of the governed). Việc
chấp nhận rộng rãi về bầu cử như là một công cụ để chọn ra các đại diện của Nhân
dân trong các nền dân chủ hiện đại tương phản với thực tiễn trong thời nguyên mẫu
dân chủ Athena, nơi bầu cử được xem là cơ quan của chính thể đầu não và ở đó hầu
hết các chức vụ nhà nước được phân bổ theo kiểu bắt thăm, cũng như chỉ định. Ở đây
chúng ta cần phân biệt giữa bầu cử với chế độ bầu cử, theo đó, chế định bầu cử là một