Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Đồng Tính, Song Tính Và Chuyển Giới Ở Việt Nam Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH HẬU

QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH,
SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH HẬU

QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH,
SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã ngành: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VĂN BIÊN

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu


trong luận văn là trung thực và đáng tin cậy. Các trích dẫn được chú thích đầy đủ và
có thể truy xuất nguồn của tài liệu tham khảo.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TỪ/CỤM TỪ VIẾT
TẮT

THUẬT NGỮ
TIẾNG ANH

TỪ/CỤM TỪ ĐẦY ĐỦ

(nếu có)

BLDS

Bộ luật Dân sự

Hiến pháp 2013

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành năm 2013

LGBT

Lesbian, Gay,


Đồng tính nữ, đồng tính nam, song

Bisexual and

tính và chuyển giới

stransgender
LHN&GD

Luật Hôn nhân và Gia đình

Viện iSSE

Viện nghiên cứu kinh tế, xã hội và môi
trường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI................................... 8
1.1. Khái quát về người đồng tính, song tính và chuyển giới .................................. 8
1.1.1. Lịch sử nhận thức người đồng tính, song tính và chuyển giới qua các thời
kỳ ........................................................................................................................... 9
1.1.2. Hệ thống các khái niệm liên quan đến đồng tính, song tính và chuyển
giới ...................................................................................................................... 14
1.2. Quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới ............ 16
1.2.1. Khái niệm .................................................................................................. 16
1.2.2. Nội dung quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển
giới ...................................................................................................................... 21

Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI
SẢN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH, CHUYỂN GIỚI VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN ................................................................................................. 31
2.1. Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính,
song tính và chuyển giới ........................................................................................ 31
2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới ............................................................................. 31
2.1.2. Một số nhận xét, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về quyền sở hữu
tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới ....................................... 34
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và
chuyển giới ............................................................................................................. 49
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY .......................................................................................................................... 62
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song
tính và chuyển giới ................................................................................................. 62


3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền sở hữu tài sản của
người đồng tính, song tính và chuyển giới............................................................. 64
3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song
tính và chuyển giới ................................................................................................. 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Phân tích tương quan với trải nghiệm khó khăn trong quan hệ cùng
giới............................................................................................................................. 58



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) không phải là một hiện tượng
xã hội mà là bản chất của xã hội (hiện tượng là những vấn đề nổi lên và đạt đến cao
trao rồi sẽ tự động thoái trào, không tồn tại vĩnh viễn theo sự vận động và phát triển
của xã hội). LGBT là bản chất của một số người sống trong cộng đồng xã hội loài
người, ở mọi thời đại đều có, nó đã tồn từ cổ đến kim bằng chứng qua quá trình phát
triển lịch sử văn hóa, tôn giáo của xã hội loài người.
Giai đoạn đầu các phong trào chủ yếu đòi các quyền liên quan đến được
công nhận quyền rất cơ bản của một con người: quyền được sống, quyền được bình
đẳng trước pháp luật… Khi các phong trào đấu tranh bảo vệ quyền nổ ra thì thuật
ngữ “Đồng Tính” mới bắt đầu xuất hiện trong các công trình nghiên cứu của các
nhà xã hội học. Đến ngày 17/5/1990, WHO đã chính thức gở bỏ “đồng tính luyến
ái” là một dạng của bệnh tâm thần. Ngày nay, nhận thức của những người quan tâm
đến người LGBT đã không xem đồng tính là một căn bệnh, khiếm khuyến về cơ thể.
Mà nếu để phân biệt và “xếp loại” người LGBT thì dựa vào khuynh hướng tính dục
khác so với dị tính.
Cộng đồng người LGBT tại Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những
phong trào đòi bình đẳng quyền trên toàn thế giới, nhu cầu bình đẳng quyền là một
nhu cầu rất cơ bản đối với mọi người không chỉ người LGBT mà người “dị tính”
cũng có nhu cầu hết sức cơ bản như vậy, cho nên năm gần đây cộng đồng LGBT tại
Việt Nam dám đứng ra ánh sáng dũng cảm lên tiếng bảo vệ cho quyền của họ là
việc hết sức bình thường và sơ đẳng trước những nghi kỵ, kỳ thị của đa số người
Việt Nam.
Tuy nhiên những hoạt động nhằm đòi hỏi quyền của cộng đồng LGBT chỉ
tập trung trong vấn đề liên quan đến các quyền nhân thân như: quyền được công
nhận, quyền không bị phân biệt đối xử, quyền được kết hôn mà không có hoặc ít đề
cập đến các quyền mà bản chất nó đã tồn tại rất lâu khi các cặp thuộc người LGBT
sống chung với nhau như: Quyền sở hữu tài sản chung, quyền được nhận thừa kế tài

1


sản, quyền định đoạt tài sản khi về sống chung với nhau… Trên thực tế các bài viết
nghiên cứu về bảo vệ quyền của người LGBT, người ta chỉ tập trung đến các quyền
nhân thân của người LGBT và ngay bản thân họ, cũng chỉ muốn các quyền cơ bản
về nhân thân mà bỏ quên đi quyền sở hữu tài sản vô cùng quan trọng. Sau khi về
sống chung với nhau như một gia đình, có rất nhiều mối quan hệ đặc biệt là các mối
quan hệ tài sản, thì liệu các quan hệ tài sản đó được đảm bảo như thế nào khi có
những vấn đề phát sinh như: không còn chung sống, một người trong hai người chết
đi…
Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện tại không xem người LGBT
chung sống với nhau là hành vi bất hợp pháp nhưng việc quy định các vấn đề liên
quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng như các vấn đề quyền sở hữu tài sản
trong quá trình chung sống với nhau như vợ chồng thì vẫn chưa có quy định cụ thể
đặc biệt quyền sở hữu tài sản của họ sẽ không được đảm bảo khi có chung sống với
nhau.Ngoài ra các vụ tranh chấp trong thực tế liên quan đến tài sản của các cặp
LGBT là rất nhiều, các vấn đề liên quan đến tranh chấp chưa được giải quyết đúng
với bản chất tài sản của người LGBT làm cho quyền tài sản sản của họ bị tổn hại
nghiêm trọng. Xuất phát điểm từ thực tế quy định pháp luật sẽ ảnh hưởng rất nhiều
đến các quan hệ tài sản, đặc biệt là mối quan hệ sở hữu tài sản chung khi các cặp
LGBT sống chung như vợ chồng tại Việt Nam làm cho họ không hưởng được
quyền sở hữu tài sản tuyệt đối của công dân do các rào cản về mặt pháp lý nên
người viết quyết định chọn đề tài “Quyền sở hữu tài sản của người đồng tính,
song tính và chuyển giới ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu trong luận văn,
nhằm đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền tài sản cơ bản của cộng đồng LGBT tại
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề nghiên cứu liên quan đến các quyền của người “đồng tính,
song tính và chuyển giới” đang thu hút được nhiều sự quan tâm bao, có thể do nhu

cầu được công nhận cũng như để đảm bảo quyền lợi của mình mà các người thuộc
nhóm đồng tính, song tính và chuyển giới đã dám bước ra ánh sáng, cất lên tiếng

2


nói của mình thông qua các hoạt động cộng đồng, các games show truyền thực tế
hay các phương tiện truyền thông đại chúng như báo đài, internet… để giúp mọi
người hiểu rõ hơn về mình và khẳng định mình là người hoàn toàn bình thường vẫn
sống và cống hiến cho xã hội. Cũng chính từ đây các bài viết, các công trình nghiên
cứu bắt đầu hướng về họ rất nhiều, tuy nhiên nhiên đó chỉ là các bài viết, các bài
nghiên cứu khoa học tập trung vào các vấn đề : “có nên hay không công nhận các
quyền của người đồng tính”, “công nhận hôn nhân đồng tính”, “Thừa nhận vấn đề
sống chung của các cặp đồng tính, song tính và chuyển giới”, “bảo vệ quyền cơ bản
của người Đồng Tính, Song Tính và Chuyển Giới”... nhưng vẫn chưa có bất kỳ bài
viết nào đề cặp hay nói một cách chuyên sâu về mối quan hệ tài sản của nhóm
người LGBT khi họ về sống chung với nhau.
Tính cho đến thời điểm hiện tại, theo những nghiên cứu để tìm nguồn tài liệu
tham khảo của người viết, thì đề tài liên quan đến quyền sở hữu tài sản của người
LGBT không có hoặc có cũng chỉ đề là đề cập sơ lược nhằm tạo tiền đề để nghiên
cứu các quyền khác của người LGBT. Có thể nói đây là đề tài tương đối mới trong
giới học thuật nghiên cứu liên quan đến quyền con người nói chung và quyền của
người LGBT nói riêng, tuy nhiên trong thực tế vấn đề quyền sở hữu tài sản này
không mới, vì nó tồn tại song hành cùng với các quyền cơ bản khác của người
LGBT nhưng ít được xem trọng cũng như đặt đúng vị thế của mình. Trong thời đại
kinh tế thị trường hiện nay, thì vấn đề liên quan tài sản được xem như “cánh tay
trái” quan trọng không kém gì so với “cánh tay phải” là các quyền nhân thân trong
các hệ thống quyền, không chỉ quan trọng đối với dị tính mà còn đối với người đồng
tính, song tính và chuyển giới là hết sức quan trọng trong bối cảnh Việt Nam chưa
công nhận mối quan hệ chung sống và quan hệ sở hữu tài sản chung với bất kỳ hình

thức nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Đưa ra các khái niệm chính xác với người đồng tính, song tính và
chuyển giới, và các khái niệm về quyền tài sản của ngươi LGBT. Đưa ra các lập
luận của cá nhân nhưng xác đáng toàn diện và phù hợp cho một hệ thống giải pháp

3


hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam để đảm bảo các quyền cơ bản, cụ thể trong
luận văn của người viết đó là quyền sở hữu tài sản trong quá trình chung sống của
các cặp đôi người đồng tính, song tính và chuyển giới.
Nhiệm vụ:
Căn cứ vào mục đích trên người viết xin trình bày các nhiệm vụ của luận văn
như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về người đồng tính, song tính và chuyển
giới; lý luận về quyền sở hữu tài sản và pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người
đồng tính, song tính và chuyển giới; các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng, thi
hành pháp luật về quyền sở hữu tài sản của các đối tượng này; xu hướng phát triển
của pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia trên thế giới về quyền sở hữu tài sản
của các đối tượng này.
- Nghiên cứu thực tiễn pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, và
chuyển giới tại Việt Nam từ đó làm nổi bật lên quyền sở hữu tài sản của nhóm đối
tượng này cần thiết như thế trong quá trình chung sống, tham gia các hoạt động giao
dịch dân sự và các hoạt động thương mại khác trong bối cảnh pháp luật Việt Nam
vẫn chưa công nhận quyền sở hữu tài sản chung của các cặp đồng tính, song tính và
chuyển giới trong hệ thống pháp luật hiện nay.
- Dựa vào các kết quả nghiên cứu trong thực tiễn, lý luận cũng như chính
người viết từng trải và chứng kiến. Người viết sẽ trình bày trong luận văn các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của người đồng

tính, song tính và chuyển giới dựa vào những nhóm quyền cơ bản của con người mà
đối tượng này được hưởng cũng như đang trong quá trình đấu tranh để được công
nhận và góp phần thúc đẩy thi hành pháp luật về quyền của các đối tượng này cũng
như nhóm quyền sở hữu tài sản chung của cộng đồng người LGBT trong thời gian
xắp đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiện cứu: luận văn tập trung nghiên cứu đến đối tượng cụ thể
chủ thể mà người viết nghiên cứu chính là người đồng tính, song tính và chuyển

4


giới và thái độ của những người trong xã hội khi gặp các vấn đề phát sinh liên quan
đến tài sản của những cặp đối tượng LGBT khi sống chung với nhau. Tuy nhiên đối
tượng chủ thể song tính và đồng tính có cơ sở tương quan nhau về mặt lý luận cũng
như bản chất nên người viết coi là một nhóm đối tượng chủ thể. Còn người chuyển
giới, thì đã được công nhận giới tính thông qua Bộ luật dân sự 2015 tại Điều 37. Vì
thế các quyền sỡ hữu tài sản của người chuyển giới có thể xem như là cơ bản hoàn
thiện so với đồng tính, song tính (người chuyển giới được xem như đúng giới tính
họ chuyển, tuy nhiên từ Nam chuyển thành nữ thì vẫn còn một số quyền bị hạn chế
do chưa có pháp luật quy định). Mặc dù là nghiên cứu cho cả ba đối tượng chủ thể
nhưng luận văn vẫn tập trung vào đối tượng đồng tính, song tính nhiều hơn so với
chuyển giới. Bên cạnh đó đối tượng người viết nghiên cứu để đưa ra các nhận định
và lập luận nhằm đảm bảo quyền sở hữu tài sản của người LGBT là những thực
trạng quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản của nhóm đối
tượng này từ đó tổng hợp các nguyện vọng và mong muốn của nhóm đối tượng để
trình bày trong chương 3 các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu quyền sở hữu tài sản dựa trên
quyền tài sản được quy định trong Hiến Pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015 và các luật
khác có liên quan, trong đó Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 là trọng tâm mà

người viết muốn hướng tới nhiều nhất trong các luật có liên quan đến quyền sở hữu
tài sản của người LGBT. Bên cạnh nghiên cứu các quy định của pháp luật ở Việt
Nam hiện nay luận văn cũng nghiên cứu phân tích, so sánh và đối chiếu với các
quốc gia trên thế giới có pháp luật, văn hóa phong tục tập quán tương đồng với Việt
Nam và các điều ước, công ước mà Việt Nam tham gia nhằm bảo đảm quyền con
người để tìm ra điểm chung từ đó để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các cặp đôi
LGBT thông qua việc đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của đảng về nhà nước, pháp luật, về quyền con
người.

5


Dựa trên phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như
phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, phân tích, so sánh, tổng hợp. Ngoài ra, người
viết có tham khảo ý kiến chuyên môn của các chuyên gia, tổ chức có liên quan đến
đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Về mặt lý luận:
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp một cách có hệ thống thế nào là người đồng
tính, song tính và chuyên giới, giúp cho việc phân biệt rạch ròi trong công tác
nghiên cứu về giới và “ xu hướng tính dục”, đặc biệt tạo cơ sở tiền đề nghiên cứu
quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới.
Luận văn cung cấp các kiến thức cơ bản về LGBT cho người đọc cũng như
các nghiên cứu về giới, giúp người đọc hiểu được các mối quan hệ tài sản thông
thường của các cặp đồng tính, song tính và chuyển giới khi họ sống chung với nhau.
Qua đó giúp cho người đọc hiểu hơn về bản chất quyền sở hữu tài sản chung quan

trọng đến thế nào đối với người thuộc cộng động người LGBT. Từ đó, đưa ra những
nhận định và kiến nghị các biện pháp để giúp pháp luật Việt Nam có những quy
định cụ thể để bảo vệ và bảo đảm quyền sở hữu tài sản của người LGBT trong thời
đại kinh tế thị trường hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Giúp cho các cơ quan giải quyết tranh chấp các vụ việc
có liên quan đến các quan hệ tài sản chung của các cặp đồng tính, song tính và
chuyển giới được diễn ra thuận tiện, nhanh chóng, “hợp tình và hợp lý”. Bên cạnh
đó cũng góp phần giúp cho pháp luật Việt Nam bắt kịp các quốc gia tiên tiến về xây
dựng vào bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho các nhóm người yếu thế
trong xã hội như người LGBT
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm ba chương:

6


Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền sở hữu tài sản của người
đồng tính, song tính, chuyển giới và thực tiễn thực hiện
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính,
song tính và chuyển giới ở Việt Nam hiện nay

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI
ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI

1.1. Khái quát về người đồng tính, song tính và chuyển giới
Đồng tính, song tính hay gọi chung là “đồng tính luyến ái” (yêu cùng giới
tính sinh học, bản dạng giới mà mình đang mang) và chuyển giới (yêu người có
bảng dạng giới khác so với mình đang mang) đã có từ rất lâu. Đây không phải là
hiện tượng xã hội mà nó là bản chất của những nhóm người không hề nhỏ trong xã
hội và nó đã tồn tại hàng ngàn năm nay (chiếm từ 3% đến 7% dân số mỗi quốc gia).
Khi nhìn vào quá trình phát triển của loài người, chúng ta sẽ nhìn thấy được bằng
chứng của những người đồng tính, song tính và chuyển giới trong lịch sử, trong văn
hóa của tất cả dân tộc trên toàn thế giới, có thể nói ở đâu có con người thì ở đó tồn
tại đồng tính, song tính và chuyển giới.
Đồng tính và song tính trong lịch sử được xem như là một, gọi chung là
“đồng tính luyến ái”, tuy xét ở gốc độ nghiên cứu về xu hướng tính dục hiện đại thì
hai quan hệ này được xem là khác nhau. Nhưng do cổ xưa, người ta vẫn chưa có các
cuộc nghiên cứu về xu hướng tính dục vì thế đồng tính và song tính được đánh đồng
là một… Tuy nhiên nhìn vào lịch sử cổ đại sẽ không thấy được người chuyển giới,
vì đơn giản do các thời kỳ đó chuyện phân biệt rạch rồi của đồng tính, song tính và
đặc biệt là người chuyển giới là không thể. Người chuyển giới xuất hiện khi nền y
học phát triển mạnh mẽ ở cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, dấu mốc đầu tiên
cho khái niệm về người Chuyển giới, khi ca phẩu thuật chuyển giới đầu tiên từ Nam
thành Nữ của Einar Mogens Wegener (1882-1931) được thực hiện vào năm 1930,
ca phẫu thuật chuyển đổi giới tính của Einar Wegener khi đó đã trở thành đề nóng
hổi, gây sốt trên các trang báo ở Đan Mạch và Đức, sau ca phẩu thuật chuyển giới
cô đổi tên thành Lili Elbe, nhưng năm 1931 cô mất vì biến chứng của cấy ghép tử
cung.
Tất cả điều đó nói lên rằng người “đồng tính, song tính” xuất hiện sớm hơn
so với người chuyển giới, cũng chứng minh được khi họ gần kề bên nhau thì không
8


đơn thuần là có quan hệ với nhau về mặt tình cảm hoặc thể xác mà còn có quan hệ

với nhau về mặt sở hữu chung tài sản. Khi con người có mối quan hệ với nhau về
mặt tình cảm, chắc sẽ có quan hệ với nhau liên quan đến tài sản. Khi các cặp đồng
tính, song tính yêu nhau trong lý trí chắc chắn họ muốn dành tất cả tình yêu và tất
cả những vật chất tốt nhất cho đối phương. Tuy nhiên vấn đề quan hệ sở hữu tài sản
không được chú ý đến quá nhiều ở thời cổ đại vì đơn thuần hành vi tính dục đồng
tính, song tính còn qua mới mẻ cho những con người sống trong thời đại đó, hay
cho chính những người đồng tính, song tính.
1.1.1. Lịch sử nhận thức người đồng tính, song tính và chuyển giới qua các
thời kỳ
Hơn 2000 năm sống trong sự kỳ thị, phân biệt đối xử kéo dài xuyên suốt từ
thời kỳ cổ đại đến thời kỳ hiện đại, người LGBT quyết định không sống trong im lặng
bóng tối, họ quyết định bước ra ánh sáng đứng lên đòi lại quyền bình đẳng cho mình,
bằng các phong trào đấu tranh nổ ra trong những năm đầu cuối thế kỷ XVIII. Giai
đoạn này các nhà hoạt động nhân quyền, các nhà nghiên cứu khoa học về giới tính và
tình dục đã bắt đầu nghiên cứu những người có quan hệ đồng tính luyến ái. Từ đây,
các khái niệm liên quan đến người đồng tính, song tính, chuyển giới và bản dạng giới
ra đời, đặt nền tảng vững chắc cho các lập luận liên quan đến người có quan hệ đồng
giới và chuyển đổi giới tính, giúp cho việc có thúc đẩy và bảo vệ các quyền cơ bản
của người đồng tính, song tính và chuyển giới được đảm bảo. Thời kỳ thiện đại,
chúng ta sẽ nhìn thấy được các phong trào đấu tranh, kêu gọi quyền bình đẳng của
người đồng tính, song tính và chuyển giới trên khắp mọi nơi. Đây cũng xem như là
thời kỳ có nhiều bước ngoặc mang tính cách mạng của người trong cộng đồng tính,
song tính và chuyển giới.
Vào ngày 17/5/1990, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức loại “đồng
tính luyến ái” ra khỏi danh sách các căn bệnh. Và nhân sự kiện này, cộng đồng
LGBT (đồng tính, song tính và chuyển giới) đã chọn ngày 17/5 làm Ngày Quốc tế
chống kì thị người đồng tính và chuyển giới - IDAHOT (International Day Against
Homophobia & Transphobia). Kể từ năm 2004, ngày 17/5 hằng năm được chọn là

9



ngày Quốc tế chống kì thị người đồng tính, song tính và chuyển giới
(IDAHOT), nhằm nâng cao nhận thức của người dân, thu hút sự quan tâm tới các
quyền cơ bản của cộng đồng LGBT. Cũng chính giai đoạn này mà mối quan hệ gia
đình của người LGBT được đặt ra trong những mối quan hệ gia đình thì vấn đề sở
hữu tài sản chung của người LGBT là vấn đề được quan tâm hàng đầu khi các cặp
LGBT về chung sống với nhau như vợ chồng trong vấn đề điều chỉnh của hệ thống
pháp luật từng quốc gia nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của một con người trong
đó có quyền sở hữu tài sản của người LGBT.
Lịch sử nhận thức về người đồng tính, song tính tại châu Âu-Mỹ
Những năm cuối 1860, nghiên cứu về người đồng tính được bắt đầu lần đầu
tiên ở Đức, nơi đã gắn liền với cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ sự ngăn cấm đối với hành
vi đồng tính. Thuật ngữ “đồng tính luyến ái” và “người đồng tính” không tồn tại cho
đến cuối những năm 1860 khi chúng lần đầu xuất hiện ở Trung Âu. Vào năm 1864,
Karl Heinrich Ulrichs là người đầu tiên viết về khái niệm của quan hệ đồng tính, ông
được coi là “ông tổ của phong trào giải phóng quyền đồng tình nam” và Karoly Maria
Kertbeny đã đặt nền móng thực sự cho những thuật ngữ này. Những thuật ngữ mà ông
đã sử dụng trong cuộc đấu tranh vì “quyền của người đồng tính” ở Đức nhằm xóa bỏ
tình trạng ngăn cấm quan hệ đồng tính. Và cũng trong giai đoạn này một lĩnh vực
nghiên cứu mới được bắt đầu, đó là “tình dục học” nghiên cứu về quan hệ tình dục và
cụ thể là quan hệ đồng tính. Và cũng bắ tđầu từ đầu những năm 1860 này, người đồng
tính vận động đấu tranh vì quyền lợi hợp pháp của người đồng tính và các chuyên gia
về tình dục cũng tán thành rằng quan hệ đồng tính không phải là một tội lỗi hay tội ác.
Năm 1886, Richard von Kraftt-Ebing (1840-1902) là một chuyên gia tình dục
học lỗi lạc. Ông đã phá vỡ học thuyết của Ulrichs về quan hệ đồng tính. Mặc dù ông
cũng đã cho rằng đồng tính là bẩm sinh nhưng ông xem là một dạng khuyết điểm bẩm
sinh thể hiện là giới tính bị đảo ngược và bị thoái hóa. Sau này cũng có nhiều chuyên
gia cũng có cùng quan điểm với Ulrichs như Magnus Hirschfeld (1868-1935), một
trong những người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì quyền của người đồng tính. Vượt ra


10


khỏi nước Đức, Havelock Ellis (1859-1939) là một trong những người ủng hộ quyền
của người đồng tính sớm nhất ở Anh
Năm 1948, Alfred Kinsey đã xuất bản cuốn “Sexual Behavior in the Human
Male”. Về mặt lịch sử, tác phẩm của ông đã góp phần đáng kể vào sự phát triển khái
niệm “người đồng tính” hiện nay. “Không thể phân tách đàn ông thành hai loại riêng
biệt là dị tính và đồng tính luyến ái cũng như không thể chia thế giới thành cừu và dê.
Thế giới tự nhiên hiếm khi được phân chia thành những loại riêng biệt… Trong mọi
khía cạnh, thế giới sống này là liên tục. Dựa trên nguyên lý đó, cần thiết đề xuất một
cách phân loại mới bằng cách thêm vào hai loại hoàn toàn dị tính và hoàn toàn đồng
tính những loại khác mà chúng khác nhau một cách tương đối. Một người có thể nằm
đâu đó trên thang đánh giá này trong một thời điểm nào đó của cuộc đời… Một thang
đo 7 điểm một chiều thể hiện những thiên hướng tính dục” là kết quả nghiên cứu của
ông được viết trong tác phẩm trên. Đóng góp của ông cho sự phát triển khái niệm
ngày nay, tình dục hướng đến giới tính khác cũng là vấn đề xu hướng tính dục giống
như đồng tính luyến ái và xu hướng tính dục đó không thay đổi [49].
Trong những giai đoạn đầu, các chuyên gia trong lĩnh vực giới tính và tình dục
học đã xếp người chuyển giới chung với những người có quan hệ tình dục đồng giới
(đồng tính, song tính). Tuy nhiên khi ca phẩu thuật chuyển đổi giới tính đầu tiên được
thực hiện 1930; cùng với các khái niệm liên quan đến giới tính và tình dục học được
phát triển mạnh mẻ trong giai đoạn hiện đại, trong đó hai khái niệm quan trọng nhất là:
bản dạng giới và xu hướng tính dục, giúp cho các nhà nghiên cứu không chỉ riêng các
nhà tình dục học và giới tính mà còn có các nhà nhân quyền, xã hội hoc và các chuyên
gia liên quan đến pháp luật và y học cũng tham gia nghiên cứu đối tượng người
chuyển giới. Cũng chính trong giai đoạn này, cùng với người đồng tính và song tính,
người chuyển giới cũng cất lên tiếng nói và có các hành động thiết thực để bảo vệ
quyền liên quan đến nhân thân và quyền sở hữu tài sản khi có quan hệ tài sản trong

quá trình chung sống với một người LGBT khác và những quyền liên đến sở hữu tài
sản của mình thông qua các phong trào đấu tranh của người thuộc cộng đồng LGBT.

11


Các phong trào đấu tranh của người đồng tính, song tính và chuyển tại khu vực
lục địa Âu và Mỹ kéo dài hơn 100 năm đã đạt được những thành quả nhất định sau khi
Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã thông qua tuyên bố về quyền của người
đồng tính, song tính và chuyển giới trên toàn cầu vào tháng 6/2011. Tuyên bố khẳng
định "mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về nhân cách và quyền lợi, và mọi
người đều xứng đáng có được tự do và quyền lợi mà không bị phân biệt đối xử dưới
bất kỳ hình thức nào". 96 nước thành viên của Liên Hợp Quốc đã ký tên ủng hộ
nghị quyết công nhân quyền của người đồng tính, 44 nước không ủng hộ cũng
không phản đối quyền của người đồng tính, 57 nước ký tên phản đối quyền của
người đồng tính (hiện còn 54 nước vì có 3 nước đã chuyển sang ủng hộ quyền của
người đồng tính [46].
Việc công nhận hôn nhân LGBT đồng nghĩa với việc cho hai người cùng giới
tính được phép kết hôn và có các quyền nghĩa vụ như các cặp vợ chồng thông thường.
Trong đó các nghĩa vụ cũng như các quyền liên quan đến sở hữu tài sản đều được bảo
hộ bởi pháp luật như các quyền sở hữu tài sản chung, quyền liên quan đến bất động
sản, quyền thừa kế, quyền được hưởng hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản chung,
quyền tài sản liên quan đến bất động sản trong thời kỳ hôn nhân, quyền được hưởng
bảo hiểm... và các nghĩa vụ liên quan đến khối tài sản chung: như nghĩa vụ trả nợ trên
phần tài sản chung, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung…. Bên cạnh đó việc chấp
thuận hôn nhân đồng giới, cũng là chấp thuận xác định lại giới tính trên mặt hành
chính, tư pháp cho người chuyển giới mà họ đã chuyển thành, vì trên thực tế quyền và
nghĩa vụ liên quan đến cặp vợ chồng của người chuyển giới không giống như người
đồng tính và song tính mà bản chất nó giống như các cặp dị tính nếu xét theo giới tính
sinh học và chức năng xã hội.

Nhìn chung đến giai đoạn hiện đại thì các cuộc đấu tranh của người đồng tính,
song tính và chuyển giới ở châu Âu và châu Mỹ đã có những thành công nhất định
thông qua các đạo luật dành riêng cho người đồng tính, song tính và chuyển giới,
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người LGBT. Bên cạnh pháp luật, thì ở các
nước như Mỹ, Pháp, Bắc ireland… đã đưa vấn đề liên quan đến người đồng tính, song

12


tính và chuyển giới vào trong hệ thống giáo dục ở các cắp từ bậc tiểu học đến đại học
giúp cho người dân hiểu rõ hơn về cộng đồng người đồng tính song tính và chuyển
giới, nhằm mục đích hướng tới có cái nhìn tích cực hơn trong xã hội để từ đó không
còn phân biệt đối xử với cộng đồng người LGBT.
Lịch sử nhận thức về người đồng tính, song tính tại châu Á
Nếu ở khu vực phương tây bao gồm châu Âu-Mỹ luôn phát triển về các vấn đề
liên quan đến quyền con người từ rất sớm trong đó có quyền của người đồng tính,
song tính và chuyển giới, thì châu Á tuy được ghi nhận rất sớm về các mối quan hệ
đồng tính, song tính trong lịch sử nhưng do bị ảnh hưởng bởi các hệ tư tôn giáo, xem
tình yêu là sự hòa hợp “Âm và Dương” để sản sinh ra mọi vật; trong đó Âm đại diện
cho giống cái có nhiệm vụ sinh sản còn Dương đại diện cho giống đực có nhiệm vụ
giúp giống cái sinh sản, tuy nhiên các hệ tư tưởng này không bài xích hay triệt tiêu
đồng tính mà đến thời kỳ khi các quốc gia phương Tây (thời kỳ Phục Hưng) đánh
chiếm thuộc địa ở khu vực châu Á đã truyền tư tưởng bài xích và triệt tiêu người
LGBT thì lúc đó xã hội ở hai châu lục bắt đầu nhận thức tiêu cực đến người thuộc
cộng đồng LGBT. Kết hợp cả hai yếu tố trên cùng với văn hóa cộng đồng đề cao lối
sống tập thể hơn chủ nghĩa cá nhân dẫn đến việc công nhận hay chấp nhận người
đồng tính, song tính và chuyển giới là cả một quá trình khó khăn không chỉ khó ở giai
đoạn trung đại, cận đại mà ngay cả giai đoạn hiện đại khi mà các học thuyết, các khái
niệm niệm liên quan đến LGBT được truyền bá vào châu Á bởi các quốc gia Âu-Mỹ
“ cái nôi” của LGBT.

Trung Quốc được xem là quốc gia có người đồng tính nhiều nhất thế giới và
nằm trong khu vực châu Á (97 triệu người tương đương dân số Việt Nam 2018), tuy
nhiên xã hội Trung Quốc không có cái nhìn thiện cảm với người thuộc cộng đồng
LGBT. Trong những năm cách mạng văn hóa (1966-1976), những người “đồng tính
luyến ái” đã phải đối mặt với tình trạng ngược đãi tồi tệ nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Những cuộc thăm dò vào năm 2000 cho thấy người Trung Quốc ngày càng cởi mở
hơn với những người đồng tính. Những điều đó càng chứng tỏ đồng tính tồn tại không
phải do yếu tố môi trường xã hội tạo nên và nó cũng không vì sự kỳ thị của mọi người,

13


thậm chí từ áp lực của xã hội mà mất đi. Năm 2004 lần đầu tiên các cơ quan chức
năng Trung Quốc công bố số liệu cho biết, nước này có khoảng từ 5%-7% người
đồng tính nam, trong đó đại đa số là những thanh niên có học vấn.
Việc các quốc gia Châu Á “ không thừa nhận” người thuộc cộng đồng LGBT
là việc tiến bộ so với giai đoạn trước trong quan điểm tư duy lập pháp nhằm giảm đến
mức thấp nhất việc kỳ thị và tạo tiền đề cho việc xây dựng các quyền liên quan đến
nhân thân cũng như mối quan hệ sở hữu tài sản chung của người LGBT được thực
hiện như các cặp dị tính. Để các cặp đồng tính, song tính hay chuyển giới có quan hệ
với nhau như vợ chồng dị tính, đây là vấn đề rất nhạy cảm trong xã hội của các quốc
gia châu Á, muốn được thừa nhận thì phải có lộ trình vì trên thực tế thế giới có hơn
200 quốc gia nhưng chỉ mới có 99 quốc gia công nhận người thuộc cộng đồng LGBT,
trong đó chiếm phần lớn là các quốc gia thuộc Âu-Mỹ với toàn bộ châu Âu với 44
quốc gia trừ Nga, 28 quốc gia đến từ châu Mỹ chiếm gần 95% tổng số quốc gia công
nhận người LGBT. Có 25 quốc gia hợp thức quá hôn nhân đồng tính và có xây dựng
các luật liên quan đến hôn nhân gia đình nhằm đảm bảo được các quyền sở hữu tài sản
cơ bản của người LGBT như: thừa kế, bồi thường hợp đồng bảo hiểm… đều tập trung
ở khu vực Âu-Mỹ chiếm tỷ lệ 90%.
1.1.2. Hệ thống các khái niệm liên quan đến đồng tính, song tính và chuyển

giới
(1)

Khái niệm về giới tính: Là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng sinh

học của nam và nữ. Những đặc trưng sinh học dường như là bất biến và đó là cơ sở
cho những chuẩn mực về vai trò giới sau này. Sự chuyển đổi giới tính có thể do sinh
học, văn hoá, kinh tế…
(2)

Khái niệm về giới: Giới là khái niệm dùng để chỉ những mối quan hệ xã

hội của nam và nữ. Khái niệm giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những
trông đợi được tạo nên với hai giới tính. Giới là một sản phẩm của xã hội và liên quan
đến
(3)

Khái niệm bản dạng giới: Là tự nhận thức giới tính vai trò của giới, bản

sắc giới và thể hiện giới không phụ thuộc vào giới tính sinh học.

14


(4)

Khái niệm xu hướng tính dục: “Tính dục là tổng thể con người, bao gồm

mọi khía cạnh đặc trưng của con trai hoặc con gái, đàn ông hoặc đàn bà và biến động
suốt đời. Tính dục phản ánh tính cách con người, không phải chỉ là bản chất sinh dục.

Vì là một biểu đạt tổng thể của nhân cách, tính dục liên quan tới yếu tố sinh học, tâm
lý, xã hội, tinh thần và văn hóa của đời sống. Những yếu tố này ảnh hưởng đến sự
phát triển nhân cách và mối quan hệ giữa người với người và do đó tác động trở lại
xã hội
(5)

Khái niệm người đồng tính:Bao gồm cả đồng tính luyến ái nữ và đồng

tính luyến ái nam, là những người có sự hấp dẫn tình yêu và tình dục với những
người cùng giới tính một cách lâu dài và cố định. Khác với người dị tính luyến ái là
sự hấp dẫn tình yêu và tình dục với những người không cùng giới tính.
(6)

Khái niệm về song tính:Những người có sự hấp dẫn tình yêu, tình dục

với cả những người cùng giới và khác giới tính một cách lâu dài.
(7)

Khái niệm chuyển giới: Là những người có bản dạng giới khác với biểu

hiện giới tính sinh học, bao gồm người chuyển giới đã phẫu thuật và người chuyển
giới chưa phẫu thuật chuyển đổi giới tính.
(8)

Khái niệm về dị tính: Là việc yêu đương hay mối quan hệ tình dục với

những người khác giới tính với mình hay nói cách khác là việc yêu đương hay quan
hệ tình dục giữa nam và nữ thông thường.
(9)


Kết hợp dân sự: Là chung sống có đăng ký cho các cặp đôi cùng giới,

một hình thức tương tự như hôn nhân nhưng không đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
như hôn nhân.
Đồng tính luyến ái cùng với dị tính luyến ái và song tính luyến ái, là ba dạng
chủ yếu của thiên hướng tình dục con người, thuộc thang liên tục dị tính - đồng tính
(Thang Kinsey). Đồng tính luyến ái bản chất là một biến thể bình thường và tích
cực của tính dục con người, không phải là một bệnh hay sự lệch lạc tâm lý, và
không phải là nguyên nhân gây ra các hiệu ứng tâm lý tiêu cực. Người đồng tính,
song tính và chuyển giới phải dựa vào khái niệm bản dạng giới đi cùng với giới tính
sinh học và thiên hướng tính dục để xác định rõ họ thuộc giới tính nào, để từ đó

15


khẳng định họ là người hoàn toàn bình thường, cũng như “dị tính” họ có quyền
được ngang bằng trước pháp luật cũng như vị trí xã hội, chính trị. Người liên giới
tính tuy nằm trong nhóm người dễ bị tổn thương, so với người đồng tính, song tính
và chuyển giới thì họ được bảo đảm hơn về các quyền cơ bản không khác gì so với
người “dị tính” vì đã được công nhận là một giới tính sinh học bẩm sinh và có
quyền được xác định theo giới tính mong muốn của mình mà không bị hạn chế bất
cứ quyền nhân thân nào trong đó có quyền được kết hôn; một trong những quyền
nhân thân cơ bản để được cộng nhận các quyền sở hữu tài sản trong giai đoạn hôn
nhân mà không bị hạn chế hay gặp khó khăn gì nếu so sánh với người LGBT.
1.2. Quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Quyền sở hữu tài sản trong mối quan hệ với quyền nhân thân của
người đồng tính, song tính và chuyển giới
Khái niệm quyền nhân thân: Quyền nhân thân với tư cách là một thuật ngữ
pháp lý, lần đầu tiên được nhắc đến trong Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995, nó ra

đời và có ý nghĩa là cơ sở pháp lý để bảo vệ cho cá nhân tồn tại với tư cách là một
thực thể, một chủ thể độc lập trong cộng đồng. Thông qua việc cụ thể hoá các quy
định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người về dân sự, BLDS năm 2015 xác
định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đây được xem là
một bước đổi mới quan trọng trong tư duy, nhận thức của các nhà làm luật Việt
Nam, cũng là bước tiến đáng ghi nhận, có ý nghĩa đặt nền móng cho sự phát triển
quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. [20]
Dựa vào khái niệm, đặc điểm và các quyền nhân thân được quy định trong
BLDS 2015 thì quyền nhân thân không áp dụng đầy đủ cho người thuộc cộng đồng
LGBT ở quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 39). Người dị tính được
phép kết hôn khi đầy đủ các điều kiện pháp luật cho phép như độ tuổi, hành vi dân
sự... và có các quyền và nghĩa vụ với nhau được pháp luật ghi nhân và bảo đảm thực
hiện bằng quyền lực nhà nước. Tuy nhiên người thuộc cộng đồng LGBT thì không

16


được quyền kết hôn nói một cách trực diện thì pháp luật Việt Nam đang phân biệt đối
xử với người LGBT thông qua LHN&GD 2014 “không công nhận hôn nhân đồng
giới” [33], vậy liệu đặc điểm thứ 2 của định nghĩa về quyền nhân thân có được tuân
thủ vì quyền nhân thân không bị chi phối bởi các điều kiện khách quan bên ngoài như
độ tuổi, giới tính, dân tộc... giới tính ở đây không nên suy nghĩ đơn thuần theo định
nghĩa giới tính sinh học chỉ có nam, nữ và người liên giới tính; giới tính ở đây được
hiểu theo nghĩa rộng hàm chứa bản dạng giới, thể hiện giới, bản sắc giới và xu hướng
tính dục. Hiện tại không chỉ xã hội mà cả các nhà làm luật vẫn còn đang tiếp cận vấn
đề giới tính dựa vào giới tính sinh học; điều đó là tiếp cận mang tính chủ quan không
đáp ứng các yếu tố khách quan đang tồn tại vô tình sẽ làm ảnh hưởng đến các quyền
nhân thân vốn thuộc về người LGBT và nguyên tắc nhà nước pháp quyền-công dân
đều bình đẳng trước pháp luật liệu có được đảm bảo. Theo LHN&GD 2014 ngăn cấm

cưỡng ép hôn nhân, cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn (Khoản 2, Điều 4) [33].
Theo đó, nếu người đồng tính, song tính và chuyển giới thuận theo áp lực gia đình kết
hôn với người dị tính thì sẽ mâu thuẫn với quy định cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết
hôn. Như vậy, "pháp luật hiện hành đã tước đi một trong số những quyền cơ bản của
con người, đó là quyền được mưu cầu hạnh phúc” cho những người trong cộng đồng
LGBT.
Xét ở gốc độ quyền nhân thân, cụ thể hơn là quyền được kết hôn của người
đồng tính, song và chuyển giới; người đồng tính chịu thiệt thòi hơn so với người
song tính và người chuyển giới. Người song tính họ có quan hệ với người đồng giới
sinh học hoặc là người có khác giới tính sinh học; nếu họ có mối quan hệ với người
khác giới tính sinh học (trừ trường hợp người liên giới tính chưa được xác định giới
tính cụ thể) thì các quyền hôn nhân và gia đình vẫn được bảo đảm như các cặp dị
tính thông thường. Người chuyển giới theo Điều 37 BLDS 2015 quy định “Việc
chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi
giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về
hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định
của Bộ luật này và luật khác có liên quan” [30]; người chuyển giới nếu nhìn theo

17


góc độ luật đề cập ở Điều 37, thì theo quan điểm của người viết có thể xem là người
chuyển giới đã thay đổi về mặt sinh học (chuyển đổi cơ quan sinh dục và bề ngoài
phù hợp với giới tính đã chuyển đổi), việc xác định lại giới tính và được pháp luật
công nhận thì quyền nhân thân trong đó có quyền nhân thân đến hôn nhân và gia
đình mặt nhiên được chấp nhận giống với người liên giới tính và dị tính. Tuy nhiên
hiện tại quy định của Điều 37 chỉ mang tính định hướng, chứ chưa định nghĩa rõ
ràng thế nào là người chuyển giới, vấn đề đến người chuyển giới vẫn còn nằm trong
các cuộc thảo luận của các chuyên gia về luật cũng như các chuyên gia liên quan
khác nhằm đảm bảo cân bằng quyền lợi giữa người chuyển giới được xác định theo

bản dạng giới và người chuyển giới can thiệp trên mặt sinh học. Người chuyển giới
và người song tính vẫn được đảm bảo quyền nhân thân hôn nhân và gia đình trong
một số trường hợp cụ thể. Nhưng người đồng tính thì không, cho nên cần thúc đẩy
công nhận quyền nhân thân hôn nhân và gia đình của người trong cộng đồng người
LGBT đặc biệt là của người đồng tính, để quyền sở hữu tài sản gắn liền với quyền
nhân thân hôn nhân và gia đình được thực hiện và bảo vệ như quyền sở hữu tài sản
của người đồng tính nói riêng và toàn bộ quyền cơ bản của người LGBT nói chung.
1.2.1.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và
chuyển giới
Mọi quốc gia sẽ có định nghĩa về quyền sở hữu tài sản khác nhau hay những
chế định liên quan đến quyền sở hữu tài sản cho từng công dân của họ, nhưng đều
có đặc điểm chung quyền sở hữu tài sản là thể hiện quyền chiếm hữu, định đoạt, sử
dụng tài sản cũng như các quyền có liên quan đến tài sản như: quyền sở hữu trí tuệ,
quyền đối với bất động sản, quyền thừa kế... của chủ thể. Mặc dù mang đặc điểm
tương đồng của các quy định về quyền sở hữu tài sản của tất cả các quốc gia trên
thới giới như quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng tài sản chỉ có một số quốc gia
cộng nhận hôn nhân “đồng tính” hoặc thừa nhận mối quan hệ “gia đình” của các
cặp LGBT thì trong hệ thống pháp luật của các quốc gia đó mới mặc định và thừa
nhận quyền sở hữu tài sản của các cặp LGBT và được bảo hộ các quyền sở hữu tài
sản của nhóm đối tượng này như công dân phổ thông mà không bị hạn chế ở bất kỳ

18


×