Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vai trò của quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.24 KB, 15 trang )

VAI TRÒ CỦA QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Thị Vân Anh
*
Từ thập kỷ 80 đến nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu, công nghệ năng lượng nền kinh tế thế giới đang biến đổi rất sâu sắc, mạnh
mẽ về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây không phải là một sự
biến đổi bình thường mà là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền kinh
tế chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người
chuyển sang văn minh trí tuệ.
Suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người, tri thức luôn là một
trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển. Sự bùng nổ của công nghệ
thông tin và công nghệ kỹ thuật số với những ứng dụng to lớn của nó trong mọi
mặt của đời sống xã hội ngày càng khẳng định điều đó. Tuy nhiên, tài sản tri thức
là tài sản vô hình và cũng mặc định như tài sản hữu hình. Vì vậy, sự hình thành,
chuyển dịch và chấm dứt, cũng như bảo hộ các quyền phát sinh từ tài sản vô hình
có những điểm khác biệt so với tài sản hữu hình. Do đó, hầu hết các nước trên thế
giới đều ban hành những quy định pháp luật riêng biệt để điều chỉnh các quan hệ
liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày
càng trở nên quan trọng trong việc thúc đẩy sự sáng tạo, phát triển nền kinh tế, văn
hóa và trở thành điều kiện tiên quyết trong hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia. Vì
vậy, tiếp tục nâng cao nhận thức cho người dân, các tổ chức và cá nhân có liên
quan, nhằm đưa Luật Sở hữu trí tuệ vào cuộc sống là điều cần thiết…
Sản phẩm tri thức có nhiều tính chất đặc biệt khác với sản phẩm vật thể
thông thường. Có thể nêu ra các tính chất đặc biệt quan trọng của sản phẩm tri
thức sau đây:
- Vì tri thức thuộc phạm trù tinh thần nên tri thức luôn phải có vật mang nó.
Vật mang ấy có thể là các bộ nhớ trong bộ não hoặc ngôn ngữ, hình ảnh được ghi
*
Viện Triết học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam


trong tài liệu (sách), băng từ, đĩa quang, bộ nhớ silic (ROM, RAM, CPROM…)
Ngày nay xuất hiện mâu thuẫn là chi phí để sản xuất ra sản phẩm tri thức cao hơn
giá thành của vật mang nó rất nhiều, ví dụ chi phí làm ra phần mềm Window 2000
hàng tỉ USD. Do đó, cuộc đấu tranh chống siêu lợi nhuận do độc quyền và sao
chép lậu ngày càng gay gắt và khó có lối thoát.
- Đối với sản phẩm thông thường (ví dụ chiếc ôtô) người mua có quyền sở
hữu về nó, nghĩa là có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Đối với sản phẩm
tri thức, người mua chỉ có quyền sở hữu vật mang, còn về nội dung tri thức thì chỉ
có quyền sử dụng. Đặc tính này là nguồn gốc sâu xa ở chỗ chỉ duy nhất ở con
người mới có khả năng tư duy.
- Quá trình tiêu dùng sản phẩm tri thức dù là tiêu dùng sản phẩm hay tiêu
dùng cho cá nhân, nói chung đều mang tính chất của một quá trình nghiên cứu,
học tập và trực tiếp hoàn thiện sản phẩm tri thức đó. Đôi khi người tiêu dùng còn
phát hiện ra những tính năng mà chính tác giả của nó không ngờ tới.
- Trong thị trường hiện đại, với trình độ khoa học và công nghệ của sản
xuất ngày càng cao, việc sản xuất ra các loại sản phẩm tri thức hiện nay thường có
giá trị gia tăng rất lớn. Tỷ suất của giá trị thặng dư trên chi phí sản xuất thường đạt
vài chục, thậm chí vài trăm trở nên.
Trước đây, do những tính chất đặc biệt, người ta thường tách các sản phẩm
tri thức riêng ra, thậm chí không coi chúng là sản phẩm, kết quả của lao động sản
xuất mà là kết cuả của sáng tạo đặc thù. Ngày nay sản phẩm tri thức đã tràn lan
trong mọi lĩnh vực của xã hội từ việc bếp núc đến sản xuất công, nông nghiệp,
dịch vụ quản lý, giá trị của các sản phẩm tri thức mang lại đã chiếm một phần
quan trọng cuả tổng sản phẩm trong nước (nếu chỉ kể một số ngành chính đã vượt
10% của GDP) ở các nước phát triển.
Trong thời đại kinh tế tri thức, thông tin và tri thức đóng vai trò vừa là
nguyên liệu, vừa là năng lượng của nền kinh tế, khác nguyên liệu năng lượng
truyền thống là nhiều người, nhiều thế hệ cùng có thể sử dụng, đa sở hữu, vô tận,
thống nhất xã hội - cá nhân.
Tri thức, khoa học - công nghệ trở thành vốn chủ yếu của sản xuất, thì

quyền sở hữu về tri thức trở thành quyền sở hữu rất quan trọng - đó là quyền sở
hữu trí tuệ. Vì vậy, hệ thống pháp luật của nhà nước về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
do đó có ý nghĩa đặc biệt, nó quy định chế độ sở hữu vốn tri, thức khoa học và
phân phối sản phẩm do tri thức, khoa học tạo ra. Tri thức, khoa học là tài sản
chung của nhân loại, “việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải đi đôi với mở rộng
quyền phổ cập thông tin của mọi người”, Hội nghị toàn cầu hóa về khoa học cho
thế kỷ XXI ở Budapest năm 1999 đã tuyên bố như vậy. Tổ chức UNNESCO cũng
đã nhiều lần lên tiếng yêu cầu phải hài hòa quyền sở hữu trí tuệ với quyền được
chia sẻ thông tin của mọi người. Như vậy, hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí
tuệ phải đảm bảo quyền lợi của người sáng tạo, đồng thời đảm bảo cho mọi người
được hưởng lợi ích của sự sáng tạo, để cho sự sáng tạo thực sự trở thành động lực
thúc đẩy phát triển xã hội loài người, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích người sáng
tạo, lợi ích người sử dụng sáng tạo và lợi ích toàn xã hội.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ tạo tiền đề thay đổi dần một số khía
cạnh của quan hệ sở hữu: khi nền sản xuất được tự động hóa và tin học hóa hoàn
toàn, sở hữu tư bản và tư liệu sản xuất không còn đóng vai trò quyết định như
trước đây, những người sở hữu lớn tư bản và tư liệu sản xuất không còn cơ sở
quyết định tuyệt đối để thống trị các tầng lớp xã hội khác như trước đây. Do vậy,
tư bản sẽ không còn đồng nghĩa tuyệt đối với quyền lực, mà quyền lực sẽ gắn liền
với thông tin, tri thức, nên quyền lực tuyệt đối của vốn, tài nguyên, tư liệu sản xuất
trước đây nay bị chia sẻ bớt dần sang cho thông tin tri thức.
Theo đà tăng lên của tỷ lệ lao động trí óc, sự phát triển của mạng thông tin
điện tử và mức độ tự động hóa sản xuất, sẽ có nhiều đảo lộn trong các khái niệm
hiện nay C.Mác đã dự báo về một nền sản xuất dựa trên giá trị trao đổi sẽ có
những đảo lộn lớn trong luận điểm: “Một khi lao động dưới hình thái trực tiếp của
nó không còn là nguồn của cải vĩ đại nữa thì thời gian lao động không còn là và
phải không còn là thước đo của cải nữa, do đó giá trị trao đổi không còn là thước
đi giá trị sử dụng nữa. Lao động thặng dư của quần chúng công nhân không còn là
điều kiện để phát triển của cải phổ biến… Do đó, nền sản xuất dựa trên giá trị trao
đổi sụp đổ”

1
. Nghĩa là, nếu trước kia con người trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất vật chất, với vai trò to lớn của nguồn lực sức lao động chân tay là phổ
biến, thì ngày nay, con người được giải phóng hoàn toàn khỏi chức năng sản xuất
trực tiếp đó, con người có điều kiện để phát triển lao động trí tuệ và sử dụng chất
1
C.Mác và Ăngghen. (2000), Toàn tập, t.46, phần II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.370.
xám của mình để vận hành mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Lao động trí
tuệ trở thành lao động phổ biến trong xã hội, nền sản xuất xã hội chuyển từ nền
sản xuất vật chất là chủ yếu sang nền sản xuất phi vật chất. Với sự thay đổi quan
trọng đó thì thước đo giá trị của sức lao động trước kia không còn phù hợp để làm
thước đo giá trị hàm lượng chất xám và trí tuệ mà người lao động bây giờ tạo ra.
Chính vì vậy mà việc thay đổi thước đo giá trị là điều mà chúng ta rất quan tâm.
C.Mác đã chỉ ra cơ chế của bóc lột giá trị thặng dư là nhà tư bản đã mua sức lao
động của người công nhân và hoàn toàn có quyền sử dụng sức lao động của họ
trong một khoảng thời gian nhất định. Phần thời gian thừa ra sau khi người công
nhân đã hoàn thành với lượng giá trị đủ để trả lương cho mình và cho nhà tư bản,
nhà tư bản đã mua thêm nguyên liệu và trả thêm hao phí máy móc để tiếp tục sản
xuất, bóc lột phần giá trị thặng dư đó. Khi đó, sự chiếm hữu tri thức có thể được
giải thích như là chiếm hữu sức lao động của người lao động, tức là người lao
động thoả thuận bán quyền làm chủ các sản phẩm trí tuệ của mình cho nhà tư bản.
Không như nguyên vật liệu hay máy móc, việc tái sử dụng sản phẩm tri thức
không cần phải chi phí gì cả, cũng giống như người công nhân phải hao phí sức
lao động không công trong khoảng thời gian dôi ra do tăng năng xuất hoặc giờ
làm. Tác giả của sản phẩm trí tuệ có thể không nhận thức hết được giá trị sản
phẩm của mình cũng như cường độ khai thác của các nhà cơ bản đối với sản phẩm
đó hay khả năng mà nó được tiếp thu và biến đổi trong quá trình sử dụng. Như
vậy, trong yếu tố sức lao động ở đầu vào của quá trình sản xuất phải bao hàm cả
sức lao động trực tiếp của người lao động (thể lực và trí lực) và sức lao động trí
tuệ kết tinh trong những phát minh công nghệ có khả nằn tạo ra giá trị thặng dư.

Trong thời đại kinh tế tri thức, cách thức tổ chức, quản lý và phân công lao động
trong nền kinh tế cũng phải thay đổi mạnh mẽ để phù hợp với vai trò ngày càng ra
tăng của yếu tố tri thức trong lực lượng sản xuất, để có thể ứng dụng được những
công nghệ khoa học có hàm lượng tri thức rất cao. Công nghệ về mặt tổ chức và
quản lý sản xuất trở nên hết sức quan trọng.
Khái niệm “tài sản trí tuệ” hay “sở hữu trí tuệ” bắt đầu xuất hiện từ đầu thế
kỷ XX và vốn dĩ được dùng để chỉ các sản phẩm sáng tạo trí tuệ, gồm các tác
phẩm khoa học, văn học, nghệ thuật; các sáng chế, các kiểu dáng sản phẩm (hay
kiểu dáng công nghệ) và các nhãn hiệu hàng hoá (kể cả nhãn hiệu dịch vụ) gắn
liền với khái niệm trên là hai khái niệm xuất hiện sớm hơn (nửa cuối thế kỷ XIX)
đó là “sở hữu công nghệ” gồm sáng chế, kiểu dáng công nghệ và nhãn hiệu hàng
hoá và “bản quyền” gồm các tác phẩm khoa học, văn học, nghệ thuật.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như sáng tạo trong
kinh doanh, “nội hàm” của sở hữu trí tuệ ngày càng mở rộng. Danh sách các đối
tượng sở hữu trí tuệ được bổ sung không ngừng và sự bổ sung đó diễn ra đặc biệt
nhanh ở khoảng 30 năm gần đây. Ngày nay có thêm những đối tượng sau đây
được liệt kê thuộc các đối tượng sở hữu trí tuệ: các chủng vi sinh mới, các loại
giống cây trồng mới, các thiết kế bố trí mạch tích hợp (mạch IC); phần mềm máy
tính, các thông tin bí mật liên quan đến công nghệ hay kinh doanh. Vài năm gần
đây lại đã thấy nhu cầu kể thêm các chương trình vệ tinh mã hoá, tên miền trên
Internet…
Trong khuân khổ lý luận về sở hữu trí tuệ, các tài sản trên đây có các đặc
tính đáng chú ý:
- Là kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ (chứ không phải là hoạt động chí
tuệ thông thường).
- Vô hình nhưng có thể lưu giữ và thể hiện trên các vật mang nhất định.
- Có khả năng lan truyền, sao chép (nhân bản) mà không làm mất sự hiện
diện tại nguồn.
Các dạng tài sản trí tuệ đều là sản phẩm, sự thể hiện, là thước đo đồng thời
là động lực của sự tiến bộ nói chung của xã hội về tinh thần, vật chất và trình độ

công nghệ sản xuất, công nghệ kinh doanh.
Ảnh hưởng và vai trò như vậy của các tài sản trí tuệ chủ yếu được quyết
định bởi đặc tính thứ 3 (khả năng lan truyền) của các loại tài sản đó. Tuy vậy, các
tài sản trí tuệ có thể sẽ bị hạn chế lan truyền, tức là bị giữ lại tại nguồn nếu sự lan
truyền không bù đắp được các nỗ lực trong quá trình tìm tòi để tạo ra tài sản. Hãy
xét về một dạng tài sản trí tuệ cụ thể. Các sáng chế chẳng hạn với ngành công
nghệ đều được xây dựng trên nền tảng các sáng chế. Đổi mới công nghệ tức là bổ
sung các sáng chế mới thuộc nền tảng đó. Cạnh tranh công nghệ thực chất là cạnh
tranh tìm kiếm và khai thác các sáng chế đó. Vì vậy, thiết lập và vận hành một cơ
chế thúc đẩy việc tạo ra các sáng chế mới là một đòi hỏi thường xuuyên. Việc tìm
kiếm một cơ chế như vậy đã dẫn tới chỗ hình thành và phát triển hệ thống bảo hộ
sáng chế - một trong những hệ thống quan trọng nhất của hệ thống bảo hộ sở hữu
trí tuệ.
Mục tiêu của hệ thống sở hữu trí tuệ là khuyến khích hoạt động sáng tạo; cổ
vũ đầu tư tìm kiếm các giải pháp kỹ thuật - mỹ thuật ứng dụng; các tác phẩm cũng
như các sáng kiến kinh doanh mới; thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh đồng thời sử
dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất các nguồn lực trí tuệ của xã hội.
Việc tạo dựng, củng cố giá trị của mọi đối tượng sở hữu trí tuệ thực chất là
một quá trình đầu tư tốn kém về vật chất và trí tuệ. Trong khi đó, bối cảnh của
cạnh tranh cũng thúc đẩy việc tìm kiếm các biện pháp giảm bớt chi phí và tăng
cường lợi nhuận. Việc sao chép, mô phỏng, thậm chí đánh cắp nguyên vẹn các
thành quả sáng tạo kỹ thuật - kinh doanh của đối thủ là biện pháp hấp dẫn nhất để
đạt được mục tiêu trên. Bởi vậy, nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí tuệ là nguy
cơ thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế thị trường công
nghiệp hoá. Nếu không áp dụng các biện pháp ngăn chặn nguy cơ này, mọi nỗ lực
chính đáng đều bị vùi dập bởi tệ nạn chiếm đoạt hoặc cạnh tranh không lành
mạnh. Một cơ chế pháp luật chống lại nguy cơ như vậy là đòi hỏi ngày càng gay
gắt.
Biện pháp để đạt được các mục tiêu trên là thông qua việc vận hành hệ
thống các quy phạm pháp luật mà xây dựng và duy trì một lĩnh vực hoạt động gọi

là hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong đó quan hệ giữa các chủ thể liên
quan tới đối tượng mang nội dung quan hệ quyền và nghĩa vụ và các quan hệ đó
được điều chỉnh sao cho phù hợp với xu thế phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ được cấu tạo từ hai hệ thống chủ chốt đó là hệ thống sở
hữu công nghiệp và hệ thống quyền tác giả. Hệ thống sở hữu công nghiệp lại bao
gồm: hệ thống bảo hộ sáng chế (hay còn gọi là hệ thống patent); hệ thống bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá và hệ thống bảo hộ thông tin bí mật. Nguyên tắc chung của
các hệ thống này là thông qua việc thừa nhận và bảo vệ của pháp luật đối với các
quyền sở hữu trí tuệ mà chủ thể các quyền đó (người nắm giữ quyền) được bảo
đảm các điều kiện thuận lợi nhất trong một thời gian nhất định đủ để khai thác
nhằm không những bù đắp các chi phí đầu tư tạo ra giá trị của các đối tượng đó
mà có thể thu lợi nhuận để tiếp tục tạo ra các thành tựu mới. Một cách tổng quát,
mọi đối tượng nói trên đều được coi là đối tượng sở hữu, các quan hệ xã hội liên
quan tới các đối tượng đó đều được điều chỉnh chủ yếu theo nguyên tắc điều chỉnh
các quan hệ sở hữu.
Đấy là lý do ra đời thuật ngữ “sở hữu trí tuệ”. Tuy nhiên, xét về bản chất và
thực tiễn thì quyền sở hữu trí tuệ không đồng nhất với quyền sở hữu tài sản, trong
đó đặc biệt quyền chiếm giữ tài sản trí tuệ không có nhiều ý nghĩa. Vì vậy có thể
nói nội dung chủ yếu của quyền sở hữu trí tuệ là quyền khai thác hay là quyền sử
dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ.
Xu thế này đã khẳng định tài sản trí tuệ và quyền sở hữu tài sản trí tuệ ngày
càng trở nên quan trọng, bảo hộ sở hữu trí tuệ được xem là một nguyên tắc cơ bản
trong sự vận động của nền kinh tế thế giới. Thực tế này cũng đặt ra yêu cầu phải
gia tăng mối quan tâm tới vấn đề sở hữu trí tuệ trên phương diện lý luận lẫn thực
tiễn cho mỗi quốc gia nếu muốn tồn tại và hội nhập thành công.
Vai trò và ý nghĩa của sở hữu trí tuệ đối với phát triển kinh tế – xã hội
Có thể khái quát vai trò của sở hữu trí tuệ đối với phát triển kinh tế – xã hội trên
những khía cạnh sau:
Thứ nhất, sở hữu trí tuệ là nhân tố đem lại sự tăng trưởng kinh tế ngoạn
mục cho chủ thể sở hữu và xã hội

Nhìn vào lịch sử phát triển của các quốc gia, nhất là các nước công nghiệp
phát triển, sở hữu trí tuệ được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí quan trọng nhất
đối với sự tăng trưởng của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng chế ra đời và được
bảo hộ, chủ thể sở hữu sản phẩm trí tuệ đó không những có được tỷ lệ tiền bản
quyền cao hơn và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình
khác, mà chính người mua quyền sở hữu trí tuệ đó và người xin cấp giấy phép sử
dụng cũng vui lòng trả nhiều tiền hơn do có sự bảo hộ. Việc bảo hộ này nhằm
giảm rủi ro trong các giao dịch thương mại về quyền sở hữu trí tuệ, nhưng đồng
thời cũng tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua việc cung cấp các hiệp định bảo
hộ và nhân lên nhiều lần giá trị sử dụng của các tài sản trí tuệ đã được bảo hộ đó
bằng việc thương mại hoá chúng, chính việc thương mại hoá các tài sản trí tuệ đã
đem lại cho chủ thể sở hữu cũng như những người mua quyền sử dụng tài sản trí
tuệ đó những lợi ích kinh tế.
Thứ hai, sở hữu trí tuệ là công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp
cũng như nền kinh tế quốc gia trong hội nhập
Hiện nay, với mỗi quốc gia, doanh nghiệp, năng lực sở hữu trí tuệ là một
trong những năng lực nội sinh quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Quốc
gia, doanh nghiệp nào có được càng nhiều quyền sở hữu trí tuệ thì năng lực cạnh
tranh của quốc gia, doanh nghiệp đó càng cao.
Với các nước đang phát triển, năng lực cạnh tranh thường thấp, khả năng tiếp
cận thị trường hạn chế, cho nên để có thể phát triển bền vững và hội nhập hiệu quả,
cần thiết phải đánh giá đúng vị trí quan trọng của sở hữu trí tuệ. Cách tốt nhất là phải
tiếp cận các chuẩn mực quốc tế về sở hữu trí tuệ nhằm xây dựng hệ thống sở hữu trí
tuệ có hiệu quả. Điều đó làm cho hoạt động sở hữu trí tuệ xét trên phạm vi quốc gia
ngày càng có khuynh hướng tiến gần hơn tới chuẩn mực chung của thế giới.
Thứ ba, sở hữu trí tuệ là phương tiện đảm bảo sự phát triển bền vững của
mỗi quốc gia cũng như từng doanh nghiệp
Bất kỳ tài sản hữu hình nào cũng đều có giới hạn và cùng với thời gian,
không gian khối lượng và giá trị của các tài sản hữu hình này không chỉ bị thu hẹp
về quy mô, số lượng mà còn có khả năng bị thay thế bởi các sản phẩm mới do tri

thức tạo ra. Do đó, sở hữu các tài sản hữu hình là sở hữu cái có giới hạn, còn sở
hữu tri thức, trí tuệ của nhân loại là sở hữu cái vô hạn, vì vậy sẽ là vô cùng bền
vững nếu chúng ta biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả – có thể nói sở hữu
trí tuệ là sở hữu một thứ tài sản đặc biệt, khi sử dụng không những không mất đi
mà còn có khả năng kiến tạo những sản phẩm trí tuệ cao hơn, là những tiền đề cho
sự phát triển mạnh mẽ và bền vững đối với những chủ thể sở hữu và xã hội.
Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế (song phương và đa phương) về
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Hiện nay, chúng ta đã là thành viên của các Điều ước
quan trọng như Công ước Paris, Thỏa ước Madrid, Nghị định thư Madrid về đăng
ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp ước hợp tác Patent, Công ước Benre về bản
quyền… và đặc biệt là Hiệp định TRIPS. Ngoài ra, các Điều ước quốc tế đa
phương và song phương liên quan đến việc khiếu nại, xét xử, trọng tài, thi hành
bản án, quyết định, tương trợ tư pháp… giữa Việt Nam và các nước là những cơ
sở quan trọng trong công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, lợi nhuận lớn thường đổ dồn về những doanh nghiệp
nào biết quan tâm đầu tư và khai thác sản phẩm trí tuệ của mình hay những quốc
gia sở hữu nhiều phát minh, sáng chế của nhân loại.
Thứ tư, tuân thủ hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ là cách thức để các nước
đang phát triển tiếp cận bền vững hơn với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công
nghệ và hội nhập hiệu quả
Việc tạo dựng và củng cố giá trị của mọi đối tượng sở hữu trí tuệ là một
quá trình đầu tư tốn kém về vật chất và trí tuệ. Do vậy, việc sao chép, mô phỏng,
thậm chí đánh cắp nguyên vẹn các thành quả sáng tạo kỹ thuật – kinh doanh của
đối thủ cạnh tranh là biện pháp hấp dẫn nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận và chiến
thắng. Nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí tuệ là nguy cơ thường xuyên và ngày
càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế công nghiệp hoá. Bởi vậy, việc ngăn chặn
nguy cơ này là vấn đề ám ảnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài, họ sẽ chỉ chấp
nhận chuyển giao công nghệ và thực hiện các biện pháp đầu tư, nếu họ nhận thấy
đủ cơ hội khai thác an toàn, hiệu quả công nghệ đó ở quốc gia dự định đầu tư.
Cho nên, sẽ là thiển cận, nếu cho rằng vì lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ mà

không cần phải có một sự bảo hộ công nghệ nào ở các nước đang phát triển. Cần
thấy rằng, các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng lo sợ rằng bảo hộ sở hữu trí tuệ
lỏng lẻo sẽ dẫn đến việc thiếu kiểm soát đối với công nghệ được chuyển giao và
như vậy công nghệ chuyển giao này sẽ dễ trở thành mục tiêu bị vi phạm bản
quyền.
Vì lẽ đó, xác lập được một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả và việc
tuân thủ hệ thống quản lý bảo hộ sở hữu trí tuệ một cách nghiêm túc sẽ là một điều
kiện tiên quyết tác động đến quyết định đầu tư và chuyển giao của các công ty nước
ngoài.
Thứ năm, một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả là một yếu tố
để chống lại nguy cơ tụt hậu và phát triển đất nước.
Một khi cơ sở hạ tầng và khả năng kỹ thuật cho việc cải tiến công nghệ đã
được thiết lập ở một nước, nhất là ở các nước đang phát triển, hệ thống bảo hộ
sáng chế sẽ thành một yếu tố thúc đẩy sự nghiệp cải tiến kỹ thuật. Bởi vậy, câu hỏi
đặt ra cho các nước đang phát triển không phải là có thiết lập hệ thống bảo hộ sở
hữu trí tuệ hay không, mà phải là thiết lập như thế nào và vào lúc nào trong quá
trình phát triển kinh tế, kỹ thuật của đất nước sẽ là phù hợp cho việc áp dụng một
hệ thống bảo hộ toàn diện và hiệu quả.
Ở Việt Nam, bảo hộ sở hữu trí tuệ là một lĩnh vực còn khá mới mẻ. Song, ý
tưởng về bảo hộ sở hữu trí tuệ mà trước tiên là quyền tác giả đã được ghi nhận
ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 (Điều 10, 12, 13). Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã thừa nhận quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của công
dân, quyền nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và bảo đảm quyền
tư hữu tài sản cùng quyền lợi của trí thức. Năm 1986 đánh dấu một mốc mới trong
hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng: Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị định 142/CP – văn
bản riêng biệt đầu tiên để điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền tác giả. Từ đó
đến nay còn có nhiều văn bản, sửa đổi thể hiện một bước tiến đáng kể trong hoạt
động lập pháp về lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Luật Sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội Việt Nam thông qua năm 2005 và có

hiệu lực từ ngày 1-7-2006. Đặc biệt, khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới thì thực tiễn đặt ra những vấn đề bức bách đòi hỏi phải giải
quyết trước áp lực trong và ngoài nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhằm tạo
dựng hành lang pháp lý khuyến khích hoạt động sáng tạo có giá trị của công dân.
Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song phương liên quan đến quyền
tác giả như: Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả Việt Nam – Hoa Kỳ năm
1997); Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp
tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (năm 1999); Hiệp định Thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ (năm 2000). Năm 2004, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập để trở thành
thành viên của Công ước Bơn (Bern) về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
đã được ký tại Bơn (Thụy Sĩ) năm 1886 và Chủ tịch nước đã ký quyết định gia nhập
Công ước Rô-ma bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát
sóng được thông qua tại Rô-ma (I-ta-li-a) năm 1961.Theo cam kết tại các Hiệp định
song phương với Hoa Kỳ, Thụy Sỹ và yêu cầu của WTO, Việt Nam đã gia nhập
Công ước Giơ-ne-vơ, Công ước Brúc-xen và tuân thủ các quy định của Hiệp định
TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ).
Ngày nay, tài sản vô hình ngày càng khẳng định vai trò là yếu tố cơ bản tạo
nên giá trị của doanh nghiệp và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Nó chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Khi
đã thực sự là thành viên WTO và đang trong quá trình hội nhập sâu và rộng, khi
hàng rào thuế quan dần được rỡ bỏ, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có một chiến
lược phát triển thương hiệu và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Một chiến lược phát triển phù
hợp và hệ thống quản lý hữu hiệu về sở hữu trí tuệ sẽ giúp các doanh nghiệp có
được sản phẩm có tính cạnh tranh cao lại tiết kiệm chi phí và kịp thời ngăn chặn
việc sao chép nhãn mác, làm nhái sản phẩm
Mặc dù, lượng đăng ký về quyền sở hữu trí tuệ tăng khá nhanh nhất là khi
nước ta hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, việc đăng ký và bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ chưa được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, vẫn có khá
nhiều doanh nghiệp chưa thực sự am hiểu những quy định về việc đăng ký bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ. Theo báo cáo sơ kết công tác phòng ngừa, đấu tranh chống
sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ của Bộ Công an, trong 5
năm (2002-2007), lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế của 43 địa phương
đã phát hiện 1092 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả. Ngoài ra mỗi năm, các cơ quan
chức năng đã phát hiện hàng ngàn vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Trong năm 2006, thanh tra chuyên ngành văn hoá – thông tin
tiến hành kiểm tra 20.414 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá, phát hiện 5.647 cơ sở
vi phạm; đã cảnh cáo 519 cơ sở; đình chỉ hoạt động của 289 cơ sở; tạm giữ giấy
phép kinh doanh của 160 cơ sở; chuyển xử lý hình sự 09 trường hợp; xử phạt hành
chính 10.891.780.000 đồng. Thanh tra chuyên ngành khoa học và công nghệ tiến
hành thanh tra, kiểm tra 1.536 cơ sở về chấp hành các quy định sở hữu công
nghiệp, xâm phạm quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và cạnh tranh không
lành mạnh đã phát hiện 107 cơ sở sai phạm, buộc tiêu huỷ và loại bỏ các yếu tố vi
phạm khỏi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và phạt tiền 224.900.000 đồng. Thanh tra
Bộ Văn hoá – Thông tin tiến hành kiểm tra và phát hiện nhiều cơ sở kinh doanh
máy tính lắp đặt, xây dựng các trang Web, cung cấp cho khách hàng các phần
mềm Windows, Micrrosoft office, Vietkey… vi phạm pháp luật về bản quyền
2
.
Về quyền tác giả, việc sao chép tác phẩm không chỉ xảy ra với các sản
phẩm giải trí như băng đĩa ca nhạc, phim ảnh và không chỉ thực hiện bởi những
2
Báo Tuổi trẻ thủ đô (2006), Tin kinh tế tham khảo, số ra ngày 17-3-2006.
người buôn bán thuần túy, mà còn xảy ra cả với các sản phẩm nghiên cứu, sáng
tác, phần mềm… Việc mạo nhận tác giả, sao chép từng phần hoặc toàn bộ tác
phẩm, xào xáo lại tác phẩm xuất hiện ở một số lĩnh vực. Cùng với đà phát triển
công nghệ, phương tiện và công nghệ sao chép, bắt chước ngày càng được cải tiến
và có mặt ở Việt Nam ngày một nhiều, nên sản phẩm vi phạm được sản xuất với
số lượng lớn và tốc độ tăng nhanh. Thực tế, nhiều người buôn bán, nhiều cửa hàng
băng đĩa ở các thành phố lớn đều bán băng đĩa sao chép lậu, thậm chí tỷ lệ còn lớn

hơn băng đĩa có bản quyền. Mặt khác, một bộ phận lớn dân cư không có khả năng
tiếp cận với sản phẩm chính hiệu giá cao, nhu cầu chất lượng bị giá cả của sản
phẩm đẩy xuống hàng thứ yếu, do đó trong thực tế đang tồn tại một mâu thuẫn lớn
giữa cung và cầu đối với sản phẩm trí tuệ.
Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay được thực hiện
bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các
thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý
thị trường khó phát hiện thật, giả. Các hành vi vi phạm này ngày càng nguy hiểm
hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không những trong phạm vi lãnh thổ
Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ có đặc điểm rất phức tạp vì
chủ thể của tội phạm hầu hết là những người có điều kiện kinh tế, trình độ chuyên
môn, kỹ thuật, tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình đang quản lý, một số
người còn có chức vụ, quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của khoa
học, công nghệ đã tạo nhiều thiết bị, công cụ, phương tiện phạm tội ngày càng tinh
vi nên rất khó phát hiện. Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ đã gây ra hoặc đe dọa
đến thiệt hại nền kinh tế của cả nước cũng như từng lĩnh vực, từng ngành, ảnh
hưởng đến tài sản, sức khoẻ và tính mạng con người, tác động đến với cả cộng
đồng, triệt tiêu sức sáng tạo và khiến giới đầu tư e ngại.
Tuy nhiên, việc xử lý tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn gặp nhiều khó
khăn và bất cập. Các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra ngày một gia tăng nhiều
hơn nhưng khó bị phát hiện và khi bị phát hiện thì thường chỉ bị xử lý bằng các
biện pháp dân sự hoặc hành chính. Điều này cho thấy, công tác đấu tranh phòng
chống tội xâm phạm sở hữu trí tuệ hiện còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu
cầu bảo quyền sở hữu trí tuệ một cách hiệu quả trước các hành vi xâm phạm ngày
một gia tăng và phức tạp, cũng như trước các yêu cầu cấp thiết khi Việt Nam tham
gia vào các điều ước quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội
nhập thương mại quốc tế của mình.
Việc thiết lập cơ chế mới thúc đẩy hình thành thị trường công nghệ. Trong
môi trường cạnh tranh lành mạnh thị trường công nghệ sẽ phát triển. Thị trường

công nghệ đòi hỏi một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hợp lý đảm bảo được
quyền lợi của người sáng tạo, đồng thời làm cho lợi ích sáng tạo được chia sẻ cho
mọi người. Đặc biệt coi trọng quản lý tri thức là quản lý việc tạo ra, truyền bá và
sử dụng tri thức sao cho đạt hiệu quả cao nhất.Ngoài ra chúng ta phải làm rõ nội
hàm của sở hữu trí tuệ cần phải làm rõ hơn để bảo vệ quyền lợi của những người
lao động trí tuệ. Pháp luật về sở hữu trí tuệ còn yếu, do đó quyền lợi của các chủ
sở hữu trí tuệ bị vi phạm nghiêm trọng. Cần tăng nặng các hình thức xử lý đối với
những hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt của kinh tế tri thức toàn cầu, nắm giữ
quyền sở hữu trí tuệ sẽ có được ưu thế đáng kể để cạnh tranh và phát triển vì vậy
chúng ta cần đáp ứng các yêu cầu quan trọng sau để thực thi quyền sở hữu trí tuệ có
hiệu quả:
Thứ nhất, nhanh chóng xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa nhất là luật đầu tư và luật về quyền sở hữu trí tuệ…nhằm tạo ra
bước chuyển biến cơ bản trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài,
trong đó hướng mạnh vào những ngành, những lĩnh vực quan trọng của nền kinh
tế, đặc biệt là những ngành công nghệ cao, công nghệ mới… Cần tăng cường bảo
hộ sở hữu trí tuệ nhằm khuyến khích sáng tạo và phổ biến tri thức. Pháp luật về sở
hữu trí tuệ còn yếu, do đó quyền lợi của chủ sở hữu trí tuệ bị vi phạm nghiêm
trọng. Cần tăng nặng các hình thức xử lý đối với những vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ. Tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ, nhất là các quy
phạm thực thi. Đặc biệt, trình tự dân sự phải được áp dụng triệt để và phổ biến
nhằm điều chỉnh các quan hệ liên quan đến loại tài sản vô hình này, mà việc đầu
tiên là chấn chỉnh lại toàn bộ các quy phạm về chế tài bảo đảm thực thi theo hướng
lấy trật tự dân sự làm biện pháp chủ yếu, còn chế tài hành chính chỉ được áp dụng
như một biện pháp bổ sung cho chế tài dân sự khi mà sự xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ vượt quá mức dân sự. nhằm tạo ra bước chuyển biến cơ bản trong việc thu
hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, trong đó hướng mạnh vào những ngành,
những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là những ngành công nghệ
cao, công nghệ mới…

Thứ hai, sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi, từ tòa
án đến các cơ quan bảo đảm thực thi nội địa: Thanh tra (nhà nước và chuyên
ngành), ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế phải
được tạo điều kiện áp dụng các biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả, khắc phục sự
chồng chéo, phân công rõ ràng chức năng quyền hạn của từng cơ quan theo hướng
một cơ quan đầu mối, đó là thanh tra chuyên ngành, còn tòa án giải quyết các vụ
kiện dân sự, ủy ban nhân dân, thanh tra, quản lý thị trường quyết định xử phạt (tùy
theo hình thức và mức phạt), cảnh sát kinh tế chỉ có chức năng điều tra, hải quan
kiểm soát ở biên giới về sở hữu trí tuệ.
Thứ ba, tăng cường các hoạt động dịch vụ thông tin về sở hữu trí tuệ, đồng
thời củng cố và nâng cao vai trò của các hội về sở hữu trí tuệ trong việc nâng cao
nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ. Cần mở rộng đội ngũ những người tham gia
hoạt động này, bằng cách nhanh chóng tổ chức các hình thức bồi dưỡng kiến thức
về sở hữu trí tuệ cho đội ngũ luật sư và những người khác. Tiếp tục cải cách hệ
thống thông tin sở hữu trí tuệ với mục tiêu nâng cao năng lực tài nguyên thông tin
và năng lực vận hành của cả hệ thống. Mở rộng diện những người dùng tin, tạo sự
gần gũi, hấp dẫn đối với toàn xã hội. Thành lập các trung tâm bảo vệ bản quyền cho
các loại hình nghệ thuật. Các hội sở hữu trí tuệ cần phối kết hợp với các cơ quan
quản lý nhà nước và các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến kiến
thức, pháp luật và thông tin, hướng dẫn nhận thức bằng những vụ việc cụ thể trong
hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách
khuyến khích, động viên các đối tượng trong xã hội, nhất là thu hút các doanh
nghiệp - chủ thể quyền sở hữu công nghiệp tham gia tích cực hơn vào bảo vệ sở
hữu trí tuệ.
Thứ tư, xây dựng mối quan hệ có tính chất cân bằng cùng có lợi giữa chủ sở
hữu và người tiêu dùng. Tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế cho các loại sản
phẩm, hàng hóa có nhu cầu sử dụng lớn hoặc liên quan đến nhiều người. Cần
khuyến khích mở các cuộc thương lượng giữa những người có nhu cầu khai thác
với các chủ sở hữu nhằm giảm giá hàng hóa, tăng lượng hàng cung cấp cho xã hội.
Đối với những sản phẩm,hàng hoá có nhu cầu sử dụng lớn hoặc có liên quan đến

lợi ích công cộng (như thuốc chữa bệnh) ngoài các biện pháp trên cần lưu ý đến
công cụ giấy phép, cũng như Nhà nước cần tập trung đầu tư và nhập khẩu nguồn
sản phẩm giá rẻ để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng thay thế các sản phẩm giá quá
cao do bị khống chế bởi chủ sở hữu
Tóm lại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển cho nhân tài để tránh tình trạng “chảy máu chất xám” làm lãng phí nguồn nhân
lực.
Ngày nay, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo đảm thực hiện các quyền đó ngày
càng có vị trí quan trọng trong thương mại quốc tế cũng như đối với nền kinh tế mỗi quốc
gia. Đối với nền kinh tế trong nước, làm tốt việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là tạo ra một
môi trường thuận lợi cho sự sáng tạo, bảo đảm động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và
thương mại; khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá
và tạo uy tín cho sản phẩm. Hệ thống sở hữu trí tuệ mạnh sẽ có tác dụng tốt trong việc phát
triển công nghệ và kinh doanh lành mạnh, có vai trò tích cực đối với công cuộc phát
triển
kinh tế.

×