Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm dự thi GVDG huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.98 KB, 12 trang )

Ngô Thị Tuyết Anh Trường THCS Chùa Hang 1
MỘT SỐ THỦ THUẬT
SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TRONG DẠY - HỌC TIẾNG ANH
PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây việc dạy và học đã có nhiều chuyển biến tích
cực, đặc biệt luôn trú trọng việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Cụ thể Bộ giáo
dục đã cho thực hiện đại trà chương trình thay sách mới từ 6 đến 12. Điều này
đòi hỏi người thầy luôn tìm tòi, phát hiện, thay đổi phương pháp giảng dạy cho
phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới. Có người cho rằng học tiếng mẹ
đẻ đã khó thì việc học ngoại ngữ lại càng không dễ dàng gì. Xét về phương diện
nào đó thì câu nói này đúng. Thế nhưng theo tôi, học ngoại ngữ sẽ trở nên dễ
dàng hơn nếu ta có phương pháp giảng dạy khoa học phù hợp với nội dung và
đối tượng giảng dạy.
Theo tôi, nội dung sách giáo khoa mới phải dạy theo phương pháp mới,
học sinh đóng vai trò chủ động tìm tòi, tư duy, sáng tạo, giáo viên là người gợi
mở, kích thích tính chủ động sáng tạo của học sinh. Thực tế qua gần 9 năm thực
hiện chương trình sách giáo khoa mới theo phương pháp mới, tôi nhận thấy có
nhiều tiến bộ vượt bậc trong giảng dạy và khả năng lĩnh hội kiến thức của học
sinh. Có nhiều phương pháp và thủ thuật trong việc truyền đạt kiến thức. Ở đây
tôi chỉ xin đề cập đến môn học ngoại ngữ mà tôi đang đảm trách, cụ thể là môn
tiếng Anh.
Những năm trở lại đây môn tiếng Anh dần chiếm ưu thế . Nay, tiếng Anh
đã thực sự trở thành môn học chính thức trong trường phổ thông, tầm quan trọng
của nó không thua gì môn Toán, Lý, hay môn Hoá. Đặc biệt là trong thi tốt
nghiệp THPT và hơn thế nữa đa số các ngành thi vào đại học, cao đẳng đều bắt
buộc phải có môn tiếng Anh.
Sáng kiến kinh nghiệm dự thi GVDG huyện Đồng Hỷ năm 2010
1
Ngô Thị Tuyết Anh Trường THCS Chùa Hang 1
Đến nay việc dạy-học đã thực sự đi vào quỹ đạo theo chủ trương của Bộ


GD&ĐT về thực hiện cuộc vận động “Hai không”. Trong đó có nội dung học
thật, thi thật, chất lượng thật. Điều đó đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải
không ngừng miệt mài nghiên cứu tìm ra phương pháp dạy học tối ưu. Tuy
nhiên tình trạng dạy chay của một số giáo viên hiện nay đã và đang gây khó
khăn rất lớn trong việc truyền đạt kiến thức theo phương pháp mới, cũng như
quá trình lĩnh hội kiến thức của học sinh hay việc vận dụng kiến thức vào thực tế
cuộc sống. Chính vì vậy nhiều em học sinh cho rằng môn tiếng Anh thật là khó.
Thực tế cho thấy phần lớn học sinh còn lơ là trong việc học tiếng Anh vì
cảm thấy khó tiếp thu, khó nhớ. Qua tìm hiểu ở một số tiết dạy thậm chí có một
vài em không ghi bài, hay một số em không chú ý bài. Phải chăng do năng lực
giảng dạy hay ta đã bỏ qua một mảng rất quan trọng nào đó trong quá trình dạy
học. Vậy câu hỏi đặt ra là làm sao nâng cao hiệu quả giờ dạy? Làm sao để cho
các em cảm thấy môn tiếng Anh thật là đơn giản và hứng thú học.
Qua quá trình thực dạy, được dự giờ, rút kinh nghiệm ở nhiều thầy cô .
Đến nay tôi nhận thấy nguyên nhân chính không hẳn do năng lực giáo viên, mà
cũng không thể đỗ lổi hoàn toàn cho học sinh. Mà ở góc độ là người giáo dục
thế hệ tương lai, tôi nhận thấy rằng do ta chưa sử dụng và khai thác có hiệu quả
các phương tiện dạy học. Ở bài viết này một trong những phương tiện dạy học
tôi đề cập đến đó là thủ thuật sử dụng giáo cụ trực quan trong giờ dạy tiếng
Anh. Đây cũng là lý do tôi chọn đề tài này.
PHẦN HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lý luận:
Theo tôi sử dụng giáo cụ trực quan là khâu đóng vai trò hỗ trợ tích cực trong
dạy học tiếng Anh, giúp kích thích sự hứng thú và khắc sâu kiến thức của học
sinh.
Sáng kiến kinh nghiệm dự thi GVDG huyện Đồng Hỷ năm 2010
2
Ngô Thị Tuyết Anh Trường THCS Chùa Hang 1
Ở đây tôi xin nói thêm về sự hứng thú trong học tập của học sinh đó là
điều kiện tiên quyết vừa là phương tiện nghiên cứu giúp học sinh luôn luôn có

động cơ học tập để đạt chất lượng cao. Vì thế hứng thú là khâu không thể thiếu
được trong quá trình học tập của học sinh mà công cụ chủ yếu để gây sự hứng
thú đó chính là giáo cụ trực quan như tranh ảnh, hình vẽ, vật thật… Ta có thể sử
dụng đồ dùng trực quan trong suốt quá trình dạy học, từ khâu giới thiệu ngữ liệu
đến khâu thực hành. Vì giáo cụ trực quan giúp cho học sinh ghi nhớ một cách
nhanh chóng và vững chắc những kiến thức, kĩ năng, hiểu được những khái
niệm và những hiện tượng xã hội lạ với thực tế cuộc sống.
2. Nội dung cụ thể và biện pháp thực hiện:
Giáo cụ trực quan rất đa dạng, nếu biết khai thác sẽ trở nên rất đơn giản
dễ chuẩn bị nhưng lại có hiệu quả cao. Có nhiều loại đồ dùng trực quan. Ở bài
viết này tôi chỉ đề cấp đến những loại đồ dùng trực quan mà trong suốt quá trình
giảng dạy tôi đã sử dụng. Trước tiên tôi xin đề cập đến phương tiện trực quan
vốn có ở người thầy đó là lời nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt của giáo viên. Xét về
góc độ nào đó có người nói rằng người thầy chính là nhạc trưởng, bản nhạc có
du dương trầm bổng hay không đều tuỳ thuộc vào người nhạc trưởng đó. Thật
vậy cũng một câu nói như nhau, có người khi nói ra thì cảm thấy bình thường,
có người khi nói ra khiến cho người nghe cảm thấy thích thú, có ấn tượng.
Chính vì vậy, trong tiết dạy khi đứng trước học sinh lời nói của giáo viên phải rõ
ràng, mạch lạc, diễn cảm, dứt khoát, giáo viên phải đứng ở một vị trí nhất định
để cho cả lớp có thể nghe rõ lời nói của mình. Lời nói phải chuẩn mực, đơn giản
và hấp dẫn, tốc độ nói vừa phải phù hợp với từng cấp độ học sinh. Bên cạnh đó
người thầy cũng có những cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để diễn đạt nội dung ngôn
ngữ ví dụ như đưa bàn tay lên vành tai để diễn đạt nghĩa của từ listen hoặc đưa
bàn tay ra trước nâng lên, hạ xuống để diễn tả ý nghĩa của từ stand up, sit
down, … Ngoài ra ta cũng có thể sử dụng các vật thật có trong tự nhiên như sân
trường, phòng học, các dụng cụ đồ dùng trong và ngoài lớp: viết, bảng, … cũng
Sáng kiến kinh nghiệm dự thi GVDG huyện Đồng Hỷ năm 2010
3
Ngô Thị Tuyết Anh Trường THCS Chùa Hang 1
như các đồ vật ở gia đình như: cái chai, con dao, cái muỗng…. Ta cũng có thể

sử dụng những sơ đồ, biểu đồ để hệ thống hóa các phần ngữ liệu đã học như:
cách chia động từ, mẫu câu…Do đặc trưng môn học, đồ dùng phổ biến nhất hiện
nay là tranh vẽ, ta có thể phóng to hình có sẳn trong sách giáo khoa hay tự vẽ
theo tình huống. Đồ dùng trực quan loại này thì trường THCS Chùa Hang 1 hiện
không có đủ như các môn khác. Trên thực tế trên cấp về chỉ có khoảng 12 tranh
lớp 8, một số tranh lớp 6 nên hầu hết phải tự làm. Đây cũng là một thách thức
không nhỏ đối với tôi cũng như đồng nghiệp. Chính vì thế tôi phải tự tìm tòi và
suy nghĩ làm sao có đồ dùng trực quan để dạy. Lúc đầu tôi nghĩ rằng làm đồ
dùng trực quan là một việc thật là khó và cần có sự hoa mỹ, khéo tay vì chủ yếu
là tranh vẽ, muốn vẽ được tranh ảnh đòi hỏi phải có hoa tay và mất nhiều thời
gian. Nên lúc đầu tôi đinh ninh sẽ không làm được. Nhưng qua nhiều lần làm và
sử dụng tôi mới cảm thấy một họa sĩ chưa từng cầm bút vẽ như tôi cũng có
những bức tranh đơn giản để dạy.
Tôi làm công việc này bằng nhiều hình thức như phóng to tranh ảnh bằng
cách phô tô hay tự vẽ lên giấy troki hoặc cắt từ họa báo những hình ảnh vừa đủ
lớn, phù hợp dễ hiểu và có liên quan đến bài học. Thực tế tôi đã vẽ nhiều tranh
và đạt hiệu quả giáo dục khả quan. Cụ thể qua các năm tôi áp dụng giảng dạy
theo phương pháp mới kết hợp với sử dụng giáo cụ trực quan cuối năm tôi đều
đạt chỉ tiêu nhà trường đề ra. Sau đây tôi xin trình bày một số thủ thuật cũng như
những kinh nghiệm mà tôi tích lũy được trong quá trình giảng dạy về việc sử
dụng đồ dùng trực quan.
Ví dụ như khi tôi dạy đến bài giới thiệu các đồ vật có trong nhà (Part A,
unit 3, English 6), tôi đã vẽ phóng to những đồ dùng đó, hay khi dạy cách nói
giờ (Part C, unit 4, English 6) Tôi đã vẽ một đồng hồ lớn trên giấy troki và có
gắn kim có thể xoay được để hiệu chỉnh giờ kết hợp với việc vấn đáp học sinh…
Sáng kiến kinh nghiệm dự thi GVDG huyện Đồng Hỷ năm 2010
4
Ngô Thị Tuyết Anh Trường THCS Chùa Hang 1
Thực tế tôi luôn học hỏi, tìm tòi, sáng tạo ra những giáo cụ trực quan mới
nhằm giúp cho công việc giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn, và tôi cũng đã gặt hái

được nhiều khả quan.
Một ví dụ cụ thể nữa là khi tôi dạy từ về màu sắc (Unit 11, English 6) nếu
chỉ dạy lý thuyết đơn thuần thì học sinh dễ dịch nghĩa nhầm lẫn giữa các màu và
mau quên. Nhưng khi dạy có đồ dùng bằng cách vẽ các đồ vật có đủ các màu sắc
lên giấy troki để dạy thì kết quả cho thấy: học sinh phấn khởi, lớp học trở nên
sôi động, các em hăng hái phát biểu, và khả năng nhớ kiến thức lâu hơn. Ngoài
ra ta cũng có thể sử dụng các đồ vật có màu sắc thực tế ở trong lớp như: viết,
thước, bảng, … để hỏi các em.
Và khi tôi dạy đến phần Liz, Ba, và gia đình của Ba có chuyến du lịch về
miền quê (Unit 3, English 9) Dựa theo nội dung bài học tôi đã tự vẽ thành một
bức tranh có nội dung miêu tả chuyến về quê của họ. Qua tranh vẽ giúp cho học
sinh dễ hiểu hơn và giúp cho tôi dễ dàng hơn từ khâu giới thiệu tình huống, dạy
từ vựng và hơn nữa qua bài học, học sinh có thể tự tóm tắc lại nội dung bài dựa
trên tranh vẽ đó. Tiết dạy này có các giáo viên trong tổ dự rút kinh nghiệm và
được đánh giá cao.
Ta cũng có thể mang vào lớp những đồ vật thật để dạy, đồ dùng trực quan
loại này cũng rất gây sự hứng thú ở các em. Tất nhiên không tranh vẽ nào có
hiệu quả giáo dục bằng cho các em tiếp cận với những đồ vật có thật. Nhưng
chúng ta không thể đem vào lớp những đồ vật quá cồng kềnh để dạy như: TV,
máy tính,
bếp…Mà chỉ hạn chế là những đồ vật gọn, nhẹ và có tính giáo dục.
Ví dụ như khi tôi dạy đến bài với tình huống mua bán giữa Vui và người
bán hàng (Unit 11, English 6) Tôi đã mang vào dạy một số thực phẩm mang
tính chất mua bán như: 1 chai nước suối, 1 cục xà bông, 1 tuýt kem đánh răng,
trái cây... và qua bài học giáo viên yêu cầu các em luyện tập một em đóng vai là
Sáng kiến kinh nghiệm dự thi GVDG huyện Đồng Hỷ năm 2010
5

×