Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

thỰc trạng quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.48 KB, 52 trang )

thỰc trạng quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng
vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
I. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình:
Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2001 - 2005 tỉnh Ninh Bình đạt
11,9% thì vốn đầu tư tăng 41,7% tức là để tăng thêm 1% GDP thì cần tốc độ
tăng vốn đầu tư là 3,5% và hiện là thấp so với mức trung bình của cả nước.
Nhìn chung thì chuyển đổi cơ cấu kinh tế vẫn chưa tiến bộ kịp thời được
cơ cấu kinh tế của cả nước nói chung cũng như của các tỉnh vùng đồng bằng
sông Hồng nói riêng. Tỉ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu ngành cao, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa ổn định vì chưa phát huy đầy đủ được
tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Tổng sản phẩm xã hội bình quân tăng hàng năm xấp xỉ 11,9%, tăng 1,24
lần so với giai đoạn 1996 - 2000. Bình quân GDP/người năm 2007 gấp 3,1 lần
năm 2000, đạt 7,8% triệu đồng. Tuy nhiên GDP/người hiện nay mới đạt khoảng
55% so với mức trung bình của cả nước và bằng gần 80% của vùng đồng bằng
sông Hồng.
Chênh lệch giữa thu và chi ngân sách khá lớn: Trung bình giai đoạn
2001-2005 chỉ gấp khoảng 2 lần thu, năm 2007 thu: 1370 tỷ VND/chi: 2365,6 tỷ
VND, là một trong những tỉnh có mức chênh lệch lớn giữa thu và chi trong cả
nước, thuộc diện đơn vị hành chính nghèo so với các tỉnh khác trong vùng đồng
bằng sông Hồng, quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, cơ cấu kinh tế lạc hậu và
GDP/người thấp.
Đối với Ninh Bình, lao động đóng góp vào tăng trưởng kinh tế là 82%.
Điều này chứng tỏ tốc độ tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào lao động, công
nghệ còn đang kém (cả nước mức đóng góp của lao động trong tăng trưởng kinh
tế khoảng 68%)
Mặc dù có các mặt hàng, đặc biệt là hàng hoá nông nghiệp (nông nghiệp
theo nghĩa rộng) rất phong phú nhưng quy mô nhỏ bé, nhiều loại mới sơ chế,
chưa theo tiêu chuẩn quốc tế và chưa xuất khẩu được trực tiếp.
Trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật và trình độ chuyên
môn, quản lý còn hạn chế so với mặt bằng cả nước cũng như so với ngay vùng


đồng bằng sông Hồng.
Trong các ngành du lịch, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp do nguồn
nhân lực còn hạn chế - chủ yếu là lao động nông nghiệp trình độ thấp.
Điều kiện kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông gồm cả các
điểm nút còn hạn chế, thiếu đồng bọ gây trở ngại trong phát triển kinh tế của
ngành chủ yếu như du lịch và công nông nghiệp.
Khả năng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài cũng như huy động các
nguồn lực trong nước còn hạn chế, năng suất lao động thấp mà để có một nền
kinh tế phát triển thì yêu cầu đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ cao luôn là
vấn đề quan trọng hàng đầu.
Đối với một nền kinh tế đang ở điểm xuất phát thấp như Ninh bình, dự
án đầu tư phát triển sử dụng vốn NSNN là một công cụ đắc lực. Thông qua hình
thức đầu tư này, Nhà nước thực hiện mục tiêu chính là tạo tiền đề và điều kiện
thuận lợi nhằm thúc đẩy sự phát triển hài hòa về KT - XH, đảm bảo ổn định,
công bằng, bền vững, cải thiện thu nhập và nâng cao chất lượng của cuộc sống
của các tầng lớp dân cư. Tạo ra điều kiện kết cấu hạ tầng hiện đại cho tỉnh nâng
cao khả năng thu hút đầu tư từ những thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên giai
đoạn vừa qua, tỉnh vẫn là một trong những tỉnh có mức chênh lệch khá lớn giữa
thu và chi ngân sách so với cả nước: chi ngân sách gấp khoảng gần 2 lần thu
ngân sách (năm 2007 thu là 1370 tỷ VND, chi là 2365.6 tỷ VND) nền cho cho
XDCB từ ngân sách địa phương vẫn là một con số rất ít hạn chế. Vốn NSNN có
hạn mà nhu cầu đầu tư phát triển ngày càng lớn, bởi vậy vấn đề hiệu quả quản
lý đầu tư mà trực tiếp là hiệu quả quản lý dự án cần được quan tâm hơn nữa.
Trên cơ sở phân tích những ưu điểm, tồn tại thời gian qua nhằm đưa ra cái nhìn
toàn diện về thực trạng công tác quản lý và có hướng giải pháp hoàn thiện quản
lý dự án sử dụng vốn NSNN với tiêu chí tiết kiệm, chất lượng, hiệu quả, đảm
bảo thực hiện tốt các mục tiêu phục vụ phát triển KT - XH tỉnh trong tương lai.
II. Thực trạng quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình thời gian qua:
1. Tổng quan về dự án và nguồn vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh

Ninh Bình:
1.1. Số lượng dự án và nguồn vốn ngân sách nhà nước cân đối cho dự
án đầu tư:
Tổng vốn đầu tư từ ngân sách ngày một tăng tuy nhiên số lượng dự án
được cân đối vốn trong năm ngày càng giảm: Từ đỉnh cao 195 dự án năm 2005
đã giảm dần còn 88 dự án năm 2007. Nguyên tắc thực hiện đầu tư có trọng
điểm, hiệu quả, chống giàn trải đã được triển khai rất tích cực đẩy nhanh tiến độ
xây dựng, giảm ứ đọng nợ, góp phần đưa lại hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng
cơ bản khá cao. Hơn nữa năm 2006, 2007 sự gia tăng số lượng các dự án tầm
cỡ, quy mô lớn (dự án nhóm A) càng thể hiện rõ quyết tâm đầu tư xây dựng
phát huy cao tính trọng điểm và hiệu quả; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hiện
đại, quy mô nhằm nhanh chóng đưa nền kinh tế Ninh Bình lên một tầm cao mới.
Bảng: Dự án sử dụng vốn NSNN và tổng vốn ngân sách cân đối cho dự án
giai đoạn 2003 - 2007.
Năm 2003 2004 2005 2006 2007
Số dự án 120 195 188 141 88
Vốn NSNN (tỷ đồng) 441,5 450,3 798,176 1056,898 1982,71
Nguồn: Sở kế hoạch và Đầu tư Ninh Bình
Thời gian qua, cơ sở vật chất được tăng cường. Nhiều công trình hoàn
thành đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển,
giao lưu hàng hoá thông suốt, các mặt xã hội về giáo dục, văn hoá, thể thao có
nhiều tiến bộ.
Nhiều dự án lớn do địa phương quản lý đã đưa vào sử dụng như: Xây
dựng nhà thi đấu 4.300 chỗ ngồi; kiên cố hoá kênh Cánh Diều; kênh tưới đường
12B; sửa chữa, nâng cấp hồ Yên Thắng; xây dựng đê bao gạt lũ 5 xã huyện Nho
Quan; đường chống lũ quyết thị xã Tam Điệp; sân vận động tỉnh; xây dựng
vùng nuôi tôm công nghiệp 70 ha Kim Trung; đường chống lũ thượng nguồn thị
xã Tam Điệp;VV..Một số dự án lớn đang triển khai xây dựng như: Xây dựng
CSHT vùng phân lũ, chậm lũ 2 huyện Nho Quan, Gia Viễn; Xây dựng CSHT
khu du lịch Tam Cốc - Bích Động; xây dựng khu du lịch hang động Tràng

An,vv.. Năng lực mới tăng thêm: công suất bơm 23.00m
3
/giờ, diện tích được
tưới 5.900ha, tiêu 1.200ha, kiên cố hoá được: 15.500m kênh tưới; nạo vét:
11.850 m kênh tiêu, cải tạo và làm mới 50 km đường; xây dựng 927 m cống
thải, 04 cầu; 26 cống; đưa vào sử dụng 30.577m
2
sàn công trình dân dụng và
488 phòng học; nâng cấp 50ha trại giống lúa, hoàn thành 01 sân vận động 1,55
vạn chỗ ngồi...
Một số công trình lớn của trung ương trên địa bàn được xây dựng và đưa
vào sử dụng phát huy hiệu quả như: Cầu Non Nước, cầu Vượt Thanh Bình, cầu
Lim, Quốc lộ 10 qua thị xã Ninh Bình; cầu tàu Clinke cảng Ninh Phúc; 192 km
đường, 5 cầu thuộc dự án giao thông nông thôn WB2; vv...

1.2. Cơ cấu dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước
a. Theo phân loại A, B, C:
Nếu phân loại theo dự án A, B, C có thể thấy một xu hướng phân bố rõ
nét trong thời kỳ này: Đa số các dự án đầu tưphát triển từ vốn ngân sách Nhà
nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình là dự án thuộc nhóm C (quy mô vốn đầu tư/dự
án nhỏ, thời hạn hoàn thành ngắn: dưới 2 năm) trung bình chiếm khoảng 75%
tổng số dự án. Những dự án đầu tư với quy mô lớn, có ảnh hưởng kinh tế chính
trị xã hội sâu rộng chiếm tỉ lệ nhỏ: năm 2003 số dự án loại A là 6 dự án, và tăng
đến con số 10 dự án năm 2007. Dự án nhóm, A thuộc quốc phóng an ninh, hạ
tầng cơ sở du lịch, cơ sở hạ tầng KCN nhóm B phần nhiều là công trình thuỷ lợi
cầu đường trường trạm.
b, Theo nghành kinh tế:
Cơ cấu dự án cân dối cho các nghành, lĩnh vực: Do hiện trạng nhu cầu
đâù tư quá lớn mà nguồn ngân sách thì có hạn nên để đảm bảo phát triển cân đối
KT - XH trên địa bàn toàn tỉnh, thời kỳ này tập trung đầu tư cho xây dựng và

hoàn thành dự án một số nghành trọng điểm như nông nghiệp, thương mại -m
du lịch, giao thông vận tải, y tế, giáo dục. Bên cạnh đó cũng thể hiện sự phân
cấp mạnh cho cấp huyện tự phân bổ cho các công trình, dự án và triển khai thực
hiện. Đối với nguồn ngân sách tập trung chỉ đầu tư cho tu bổ đê điều, kiên cố
kênh mương, các công trình xây dựng CSHT từ nguồn thu đấu giá quyền sử
dụng đất được được thực hiện cùng với kết quả thực hiện đấu giá quyền sử dụng
của các huyện, thành phố, thị xã.
Ngành nông - lâm - thuỷ sản tuy tỉ trọng vốn đầu tư có xu hướng giảm
dần nhưng vẫn là nghành chiếm khối lượng vốn đầu tư cao nhất. Số dự án vẫn
chiếm mức cao nhất bởi trong điều kiện các ngành kinh tế khác đang đem lại
một mức lợi nhuận hấp dẫn, thu hút đầu tư lớn từ các khu vực thì ngân sách nhà
nước thực hiện vai trò đảm bảo phát triển cân đối là nguồn đầu tư chính cho sự
nghiệp hiện đai hoá công nghiệp hoá nông thôn, ổn định sản xuất, đảm bảo tự
chủ nông sản, cân đối sản phẩm giữa ba nghành kinh tế.
Ngành công nghiệp do điều kiện kinh tế nhà nước còn nhiều khó khăn
nên vốn Ngân sách phân bổ cho ngành mặc dù có tăng trong những năm gần
đây nhưng vẫn còn khá khiêm tốn. Vốn ngân sách chỉ tập trung xây dựng cơ sở
vật chất ban đầu, khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư vào.
Bảng : Phân loại dự án đầu tư phát triển theo ngành
KT - XH thời kỳ 2003 - 2007
(đơn vị: %)
2003 2004 2005 2006 2007
Tổng số 100 100 100 100 100
Nông, lâm, thuỷ sản 40.31 34.19 25.41 17.96 14.92
Giao thông vận tải 6.27 20.63 12.92 14.06 9.18
Thương mại, du lịch 13.43 8.72 31.3 12.46 14.01
Y tế, văn hoá, giáo dục 7.77 17.44 15.75 13.97 9.94
CN, điện, nước 8.49 3.4 2.73 10.91 3.03
Quản lý nhà nước 3.4 5.91 3.97 2.86 7.73
Công công 2.18 2.37 1.49 1.72 1.56

ANQP 1.42 1.05 0.99 0.82 0.31
Khác 16.73 6.57 5.44 25.24 39.32
Nguồn: Sở kế hoạch và Đầu tư Ninh Bình
Nông nghiệp: Tập trung các công trình hạ tầng phục vụ nông nghiệp
nông thôn như: giao thông thôn, kiên cố hoá kênh mương, các công trình thuỷ
lợi đầu mối và các công trình cơ sở hạ tầng vùng phân lũ, chậmlũ... nhằm ổn
định sản xuất và áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp.
Việc chú trọng đầu tư này là rất cần thiết bởi tỉnh có đến 68% lao động, phổ
thông và trình độ thủ công khả năng áp dụng khoa hoạ công nghệ còn hạn chế.
Hơn nữa trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn không thể coi nhẹ vai trò tạo
giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp. Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn để
nâng cao khả năng chống trọi với thiên tai, dịch bệnh mang lại cho sản xuất
nông nghiệp mức năng sất cao hơn cũng như cắt giảm nhân lực phục vụ ngành
để chuyển dần lao động sang các khu vực khác.
- Giao thông vận tải: Một nền kinh tế không thể phát triển cao trên nền
tảng một hệ thống giao thông sậm sệ, cũ nát và không đảm bảo tải trọng bởi vậy
các công trình được luôn đầu tư xây dựng, nâng cấp và đẩy nhanh tiến độ. Đã
hoàn thành đương ĐT477, đường Khánh Cư - Chợ Ngò, sửa chữa 22 km đường
481, mở rộng đường 10 và đường phía Bắc, phía Nam thành phố Ninh Bình ....
góp phần làm cho sản xuất công nghiệp xây dựng duy trì mức tăng trưởng khá,
phục vụ tốt cho phát triển KT - XH và việc đi lại của nhân dân.
Hoạt động du lịch đã có chuyển biến tích cực, vai trò quản lý nhà nước
từng bước được đề cao. Tiến độ đầu tư các khu du lịch trọng điểm tràng An,
Tam Cốc - Bích Động: Sân golf Hồ Đồng Thái, khu biệt thự thung lũng Thái
Vi, đất ngập nước Vân Long được đẩy nhanh đã từng bước tạo ra diện mạo mới
cho du lịch Ninh Bình.
c. Theo vùng miền , lãnh thổ:
Việc bố trí vốn cho các công trình đầu tư XDCB trong thời kỳ 2003 -
2007 về cơ bản là ưu tiên cho các công trình trọng điểm, KCN, các vùng kinh tế
tổng hợp (vùng kinh tế ven biển Kim Sơn, thị xã Ninh Bình, thị xã Tam Điệp,

vùng du lịch Hoa Lư, vùng phân lũ); các dự án cơ sở hạ tầng và phát triển sản
xuất có lợi thế cạnh tranh và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,phát triển xã
hội. Theo đó, cơ cấu dự án cũng được phân chia cho cả ba vùng biển tuy nhien
có sự chênh lệch khá lớn.
Giai đoạn này, tỉnh vẫn tập trung chủ yếu việc xây dựngcơ bản ở các
huyện thị trong vùng đồng bằng: đầu tư xây dựng hạ tầng KCN, phát triển điểm
du lịch, mạng lưới thuỷ lợi tưới tiêu, ANQP.
Các công trình XDCB miền núi vẫn chỉ là mang tính chất hiện đại hoá
nông thôn, nâng cao phúc lợi xã hội (đường xá, cầu cống, vùng phân lũ các
huyện Nho Quan, Gia Viễn) hay các công trình cơ cở hạ tầng trương học, y tế,
thể dục thể thao.
Vùng kinh tế biển kim Sơn: tuy bờ biển của tỉnh Ninh Bình không dài
nhưng hàng năm đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn to lớn, là một trong những
nghành kinh tế mũi nhọn nên việc đầu tư phát triển kinh tế biển cũng chú trọng
đặc biệt là những năm gần đây
1.3. Các dự án đầu tư XDCB với tác động phát triển KT –XH:
* Trong thời kỳ 2003 - 2007 tỉnh Ninh Bình đã có những biến chuyển
quan trọng trong hạ tầng KT - XH, thúc đẩy cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực,
làm thay đổi cục diện kinh tế tỉnh, cải thiện đời sống nhân dân. Hàng chục công
trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành đang đi vào khai thác, sử dụng, trong đó có
nhiều công trình lớn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của địa phương: Xây
dựng nhà thi đấu 4.300 chỗ ngồi; kien cố hoá kênh Cánh Diều; kênh tưới đường
12B; sửa chữa, nâng cấp hồ Yên Thắng xây dựng tuyến đê bao gạt lũ 5 xã
huyện Nho Quan; đương chống lũ quét thị xã Tam Điêp; sân vận động tỉnh; xây
dựng vung nuôi tôm công nghiệp 70 ha Kim Trung, Nhà máy xi măng Tam
Điệp; Cầu Non Nước, cầu vượt Thanh Bình, cầu Lim, Quốc lộ 10 qua thị xã
Ninh Bình, cầu tàu Clinke cảng Ninh Phúc....
Các công trình, dự án hoàn thành đã phát huy hiệu quả, tạo điều kiện
phát triển kinh tế, giao lưu hàng hoá thông suốt, các mặt xã hội về giáo mdục,
thể thao, y tế có nhiều tiến bộ vượt bậc. Năng lực sản xuất của các nghành tăng

lên đáng kể:
Nghành nông nghiệp trên cơ sở các dự án đầu tư thuỷ lợi, kiên cố kênh
mương; hiện đại hoá sản xuất nông thôn; đầu tư cho công tác giống cây trồng
vật nuôi.... đã gặt hái được nhiều kết quả tốt ngay cả trong điều kiện bị ảnh
hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh. Điển hình như kết quả sản xuất nông nghiệp năm
2007 giá trị sản phẩm trên 1 ha đất canh tác /năm đạt 4,5 triệu đồng (đạt mức
cao nhất từ trước đến nay)
Giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng khá, tỷ trọng trong cơ cấu
kinh tế tăng khá mạnh: 21,6% năm 2000 đến năm 2006 là 38,5% năm 2007 đạt
40%.
Dịch vụ cũng có chuyển biến tích cực. Thời gian tới khi hạ tầng các
điểm du lịch lớn hoàn thành hứa hẹn đưa lại một diện mạo mới cho ngành dịch
vụ.
*Tốc độ tăng trưởng GDP luôn là hai con số và chênh lệch khá lớn với tốc độ
tăng trưởng GDP cả nước: bình quân gấp 1,8 lần. Mức sống nhân dân toàn tỉnh
cao gấpnhiều lần so với giai đoạn 1996-2000: giai đoạn 1996 - 2000 tổng GDP
chi xấp sỉ 442 tỷ đồng bằng 1/8 lần tổng GDP thời kỳ này (giá so sánh). Tuy
nhiên để đuổi kịp mức GDP/người của cả nước cũng như của vùng đồng bằng
sông Hồng, Ninh Bình còn phải nỗ lực rất nhiều.
*Hiệu quả tổng hợp của việc đưa các công trình XDCB vào phục vụ đời sống
của nhân dân đã trực tiếp và gián tiếp tạo ra bình quân một năm khoảng 10.000
việc làm mà trước tiên phải kể đến là các công trình được tài trợ bởi nguồn vốn
ngân sách. Việc xúc tiến đầu tư cơ sở hạ tầng các khu, cụm sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nâng cấp kiên cố hạ tầng sản xuất nông nghiệp, hệ
thống giao thông đường bộ, cầu, cảng những năm qua đã chỉ ra sự đổi mới rõ rệt
của bộ mặt tỉnh không những tạo ra một khối lượng lớn việc làm mới hàng năm
mà chất lượng môi trường lao động, sinh hoạt của người lao động đang ngày
càng được chú trọng. Hiện nay, với qui mô đầu tư vốn ngân sách cho xây dựng
cơ sở hạ tầng KCN, điểm du lịch lớn, tập trung hứa hẹn tạo thêm hàng nghìn
việc làm mới trong một tương lai rất gần. Đó là con số có ý nghĩa xã hội rất lớn.

Bảng : Số việc làm tăng thêm
TT
Chỉ tiêu ĐVT
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
BQ
1 Tổng số lao động Ngư
ời
433
004
443
014
449
623
460
439
473
214
45185
9
Phân theo ngành
CN – XD Ngư

ời
56.300 59.700 63.800 66.300 81.300 64.480
Nông, lâm
nghiệp, thủy sản
Ngư
ời
313.80
0
311.90
0
314.50
0
315.40
0
291.60
0
309.44
0
Thương mại, dịch
vụ, du lịch
Ngư
ời
62.904 71.414 71.323 78.739 100.31
4
76.939
2 Số lao động tăng
thêm
Ngư
ời
8.284 10.010 6.609 10.816 12.775 9699

Nguồn: Niên giảm thống kê Ninh Bình
*Công tác đấu thầu, thẩm định hàng năm đã tiết kiệm được cho Nhà
nước hàng chục tỷ động. Năm 2006, tổ chức đấu thầu 45 gói thầu, với tổng giá
gói thầu là là 805,464 tỷ đồng. Qua đấu thầu đã thực hiện tiết kiệm được cho
Nhà nước 2.740,4 triệu đồng, tỉ lệ giảm giá là 0,34% so với tổng giá gói
thầu. Điển hình như công trình Trụ sở làm việc Sở Công nghiệp tỉnh Ninh
Bình, biến động qua đấu thầu tiết kiệm được 538 triệu đồng, bằng 13,3% so
với dự toán được duyệt.
Cũng năm 2006, thẩm định 52 dự án vốn ngân sách, tổng mức đầu tư do
chủ đầu tư trình là 1.481,5 tỷ đồng, kết quả thẩm định là 1.418,3 tỷ đồng, cắt
giảm 63,2tỷ đồng, tỷ lệ giảm là 4,3%. Điển hình như công trình xây dựng
trường THPT Nho Quan B phân hiệu II (giai đoạn I), tổng mức đầu tư là 7,680
tỷ đồng, qua thẩm định giảm được 2,181 tỷ, bằng 28% so với tổng mức đầu tư
do chủ đầu tư trình.
2. Quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn từ ngân sách:
2.1.Các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước:
- Các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế –xã hội, quốc phòng,an ninh không
có khả năng thu hồi vốn.
- Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có
sự tham gia của nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Chi cho công tác điều tra khảo sát lập các dự án quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế kỹ thuật vùng ,lãnh thổ ,quy hoạch xây dung đô thị.
- Cho vay của chính phủ để đầu tư phát triển.
- Vốn khấu hao cơ bản và các khoản thu của nhà nước đẻ lại cho doanh
nghiệp nhà nước để đầu tư.
2.2. Công tác lập và thẩm định dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng
dự toán:
a) Lập dự án đầu tư:
Chủ đầu tư có trách nhiệm lập (hoặc thuê tổ chức tư vấn) báo cáo nghiên
cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc báo cáo đầu tư để trình cơ

quan có thẩm quyền phê duyệt, phần lớn các chủ đầu tư của Tỉnh không đủ
khả năng lập dự án nên đều phải thuê tư vấn, điểm hạn chế ở đây là, chủ đầu
tư đã chọn nhà tư vấn trước khi có trình do đó không có tính cạnh tranh,
chất lượng tư vấn thấp.
Tư vấn lập tự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, tổng
dự toán ở một số công trình chất lượng còn thấp, chưa đưa ra nhiều phương án
để lựa chọn, chưa tuân thủ theo tiêu chuẩn, qui phạm (có một số công trình tư
vấn làm theo yêu cầu của chủ đầu tư, nâng qui mô càng lớn càng tốt), số liệu
điều tra, khảo sát chưa chính xác. Trong thiết kế thường tính thiên về an toàn
quá lớn, trong tính toán dự toán áp dụng đơn giá, định mức và các chế độ tài
chính trong XDCB chưa chính xác hoặc sót khối lượng công việc.
- Chủ đầu tư có trách nhiệm trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thiết
kế kỹ thuật, tổng dự toán, trước khi trình, chủ đầu tư phải tổ chức nghiệm thu
sản phẩm do nhà tư vấn thực hiện, chủ đầu tư của tỉnh nói chung chưa thực hiện
được việc này.
- Tư vấn lập dự toán đầu tư: Chất lượng một dự án phụ thuộc vào rất
nhiều vào trình độ của tư vấn, theo Quy chế đấu thầu phải xem xét nhiều nhà
nhiều nhà tư vấn để chọn một tư vấn có năng lực nhất.
Thực tế trong thời gian qua, mặc dù tỉnh đã có qui định ít nhất phải có 3
nhà tư vấn, nhưng chủ đầu tư mới chỉ trình UBND tỉnh có một nhà tư vấn để xin
chỉ định lập dự án.
Do không được lựa chọn, so sánh điểm mạnh, điểm yếu của một nhà tư
vấn để lựa chọn nhà tư vấn tốt nhất nên một số nhà tư vấn được lựa chọn rất
yếu, thậm chí có nhà tư vấn thiếu kinh nghiệm trong việc lập dự án, nên dự án
lập ra thiếu sức thuyết phục, có nhà thầu tư vấn trong quá trình lập dự án bỏ qua
các qui định của Nhà nước, không áp dụng Quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn, qui
phạm thiết kế, không có khảo sát địa hình, địa chất công trình, không quan tâm
đến hướng gió hoặc có nhà tư vấn bỏ sót các hạng mục quan trọng như cấp thoát
nước, phòng chống chảy, nổ, ví dụ: Dự án xây dựng trụ sở Hội Cựu chiến binh
tỉnh, dự án xây dựng Trụ sở Sở thương mại.

Một trong những nguyên tắc quan trọng của việc lập dự án đầu tư là nhà
tư vấn phải đưa ra được nhiều phương án, phân tích lựa chọn phương án tối
ưu để chủ đầu tư và cơ quan thẩm định xem xét hoặc nếu có thêm một số
phương án thì các phương án đó, nhà tư vấn chỉ tính toán một cách chiếu lệ,
ít giá trị so sánh.
Do trình độ tư vấn hạn chế (chủ yếu là các đơn vị tư vấn ngoại tỉnh), do
đó trong số 248 dự án được duyệt trong 4 năm (2002 -2006) đã có 52 dự án
phải phê duyệt lại do phải điều chỉnh, bổ sung qui mô, khối lượng hoặc tính
toán sai, thiếu. Một số các dự án phải trả hồ sơ rất nhiều lần vì chất lượng
hồ sơ dự án quá thấp.
b) Thẩm định dự án đầu tư :
Thẩm định dự án có vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho chủ đầu
tư, tổ chức tài trợ vốn đánh giá một cách khách quan tính hợp l, tính hiệu quả,
tính khả thi của dự án giúp cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư được đúng đắn.
Thăm định dự án là một chức năng chủ yếu trong quản lý Nhà nước về đầu tư,
thẩm định dự án phải được xem xét toàn diện về quy hoạch xây dựng, các
phương án cấu trúc công nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên hiệu quả kinh tế xã
hội, bảo vệ môi trường sinh thái phương diện tài chính và các khía cạnh xã hội
khác đảm bảo dự án có tính khả thi giúp cho người có thẩm quyền quyết định
đầu tư. Thời gian qua ở Ninh Bình việc thẩm định do Sở Kế Hoạch và Đầu tư
chủ trì tham khảo ý kiến của một số Sở, ngành liên quan...
Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư đã tuân thủ theo qui hoạch phát
triển kinh tế, qui hoạch vùng, ngành lãnh thổ, áp dụng đúng chế độ chính sách
của nhà nước hiện hành, cắt giảm các thủ tục phiền hà, thực hiện theo chế độ
một cửa.
Các dự án đã thẩm định cơ bản đã được bố trí kế hoạch thực hiện đầu tư.
Mọt số dự án đã đưa vào sử dụng đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, công tác thẩm định còn bộ lộ những yếu điểm sau:
- Chủ đầu tư là chủ thể trực tiếp sử dụng công trình nhưng không phải là
chủ thực sự của đồng vốn nên ý thức tiết kiệm chưa được đề cao. Thiết kế cơ sở

dự án là do chủ đầu tư lập nên có tư tưởng thiết kế qui mô dự án lớn hơn mức
cần thiết. Công tác thẩm định qui mô dự án hầu hết bị vô hiệu hoá.
Độ chính xác của công tác thẩm định chưa cao do chất lượng hồ sơ dự
án cũng như thiết kế kỹ thuật chưa đề cập hết các nội dung của một dự án như
qui định (Ví dụ: số liệu khảo sát, nghiên cứu hiện trạng và dự báo không chính
xác)
- Thời gian thẩm định của một số dự án kéo dài so với qui định do việc
phối hợp giữa các cơ quan có liên quan thiếu chặt chẽ.
Mỗi một nội dung thẩm định do một cơ quan chịu trách nhiệm, thời gian
thẩm định dự án nhanh hay chậm không chỉ so một cơ quan mà phụ thuộc vào
thời gian giải quyết các vấn đề cụ thể của các cơ quan có liên quan. Nghị định
52/1999/NĐ - CP qui định thời gian thẩm định cho từng loại dự án như sau:
- Dự án nhóm A: Không quá 60 ngày
- Dự án nhóm B: Không quá 30 ngày
- Dự án nhóm C: Không quá 20 ngày
Thời gian qua thực tế có cơ quan được lấy ý kiến đã không trả lời hoặc
kéo dài thời gian so với qui định.
c) Công tác lập, thẩm định, tổng dự toán:
*Về tồn tại của tổ chức tư vấn lập TKKT, tổng dự toán
- Một số tổ chức tư vấn có xu hướng chạy theo doanh thu và quá giữ
mình nên đã đẩy hệ số an toàn lên cao, dẫn đến tổng dự toán cao. Ví dụ: Dự án
đầu tư xây dựng Trụ sở làm việc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Ninh Bình, do
Công ty Cổ phần kiến trúc AC khảo sát, lập dự án đầu tư, có thiết kiế kết cấu
móng quá an toàn, cụ thể là chọn số lượng cọc quá thừa so với yêu cầu (có đài
cọc chọn tới 7 cọc trong khi yêu cầu chỉ cần 4 cọc), kích thước dài móng quá
lớn .... dẫn đến tổng dự toán lớn, gây lãng phí; cụ thể sau khi thẩm định, chi phí
xây dựng của phần cọc ép đã giảm từ 1.510 triệu đồng xuống còn 870 triệu
đồng (giảm 42,3%), tổng chi phí xây dựng giảm từ 10.233 triệu đồng xuống còn
9.412 triệu đồng (giảm 8,1%)
- Một số tổ chức tư vấn yếu kém về chuyên môn nên đã bỏ sót nhiều yếu

tố, bỏ sót hạng mục của công trình hoặc thiết kế công trình không theo đúng qui
định của Nhà nước. Ví dụ: Công ty CP tư vấn xây dựng Hoàng Mai khảo sát,
lập dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Khu dân đường Vòng, thị xã Tam Điệp
khi tính toán khối lượng san nền không chính xác, sử dụng hệ số đầm nén của
vật liệu không qua thí nghiệm; sau khi thẩm định, khối lượng của công tác san
nền đã giảm 183.000m
3
xuống còn 135.210m
3
(giảm 21,1%),đơn giá của đất
đắp giảm từ 45.772 đồng/m
3
xuống còn 38.007đồng/m
3
. Trách nhiệm tư vấn
chưa cao, năng lực hạn chế do đó trong quá trình lập dự án, một số thiết kế kĩ
thuật chưa đưa ra được giải pháp tốt nhất.
- Tổ chức thiết kế chưa thực hiện công tác giám sát tác giả trong suốt
quá trình thi công, xây lắp, hoàn thiện và nghiệm thu công trình.
*Trong thẩm định thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công - tổng dự
toán còn có một số tồn tại:
- Chủ đầu tư hầu như không tổ chức nghiệm thu sản phẩm thiết kế kỹ
thuật, thiết kế bản vẽ thi công, tổng dự toán do cơ quan tư vấn lập trước khi
trình thẩm định.
- Có cơ quan thẩm định quá tin tưởng ở đơn vị tư vấn nên việc thẩm
định không thật sát sao.
- Thời gian thẩm định kéo dài
Kết quả thẩm định các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách:
TT Ngành kinh tế 2004 2005 2005 2006
1 Tổng số dự án 75 49 53 62

2 Tổng mức đầu tư
- Chủ đầu tư trình 1.621.12 1.360.000 1.481.436 1.452.433
- Kết quả them định 1.573.43 1.318.050 1.418.307 1.451.241,3
Giảm cắt
- Tổng số 21.286 34.737,6 41.998,3 63.222
- Tỷ lệ 3,7% 2,18% 3,09% 3,09%
Nguồn: Sở kế hoạch và Đầu tư Ninh Bình.
d) Công tác đấu thầu: Đấu thầu là một công cụ giúp cho việc sử dụng
đồng tiền của Nhà nước có hiệu quả.
+Thông qua đấu thầu chúng ta lựa chọn được nhà thầu đủ kinh nghiệm
và năng lực để thực hiện công việc theo yêu cầu. Nhà thầu phải có giải pháp khả
thi để thực hiện công việc được giao và đảm bảo trúng thầu không được vượt
giá gói thầu và giá dự toán được duyệt.
+Hiệuq ủa của đấu thầu chính là tạo ra sự cạnh tranh để làm động lực
cho sự phát triển, đã tạo ra cơ hội lựa chọn được nhiều công ty mạnh có đủ năng
lực thiết bị, con người và tiền vốn đảm đương được công trình phức tạp và vốn
lớn, thời gian thi công ngắn, đặt được chất lượng cao như công trình Nhà máy xi
măng Tam Điệp, nhà thi đấu thể dục thể thao Tỉnh, Cơ sở hạ tầng du lịch khu
Tam Cốc, Bích động, hang động Tràng An ...
Kết quả thực hiện công tác đấu thầu giai đoạn 2001 -2006
Đơn vị triệu đồng
TT Nội dung 2003 2004 2005 2006
1 Tổng số gói thầu 23 86 103 45
2 Tổng giá gói thầu 220.190 608.655,5 408.502 805.464,1
Tổng giá trúng thầu 218.219 607.046,5 407.354 802.723,7
Tiết kiệm trong đấu
thầu
1890 1.609 698 2.740,4
Tỷ lệ giảm giá 0,9% 0,276% 0,171% 0,34%
Nguồn: Sở kế hoạch và Đầu tư Ninh Bình

Tuy nhiên, trong những năm qua, quản lý công tác đấu thầu còn bộc lộ
một vài hạn chế.
- Sự hiểu biết về trình tự và các qui định về đấu thầu của một số các cơ
quan quản lý và các nhà thầu còn hạn chế.
- Hầu hết các dự án chủ đầu tư đều trình xin chủ trương UBND tỉnh cho
đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu . UBND tỉnh thiếu kiên quyết dẫn đến hầu
hết các dự án phải tổ chức thầu rộng rãi nhưng không thực hiện. Có một số dự
án phải đấu thầu nhưng vẫn chỉ định thầu, mặc dù giá trị gói thầu tư vấn ≥500
triệu đồng - theo qui chế đấu thầu phải tổ chức đấu thầu.
- Nhiều gói thầu tiến hành tổ chức đấu thầu còn mang tính hình thức,
không có sự cạnh tranh bình đẳng do áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế. Tỷ lệ
giảm giá thấp, giá trúng thầu của hầu hết các gói thầu xấp xỉ bằng giá gói thầu
(giá dự toán).
Tỷ lệ áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu
Năm
Rộng
rãi
Hạn chế
Chỉ định thầu và các
hình thức còn lại
Tổng số
2003 0 23 0 23
Tỷ lệ (%) 100 100
2004 7 28 51 86
Tỷ lệ (%) 8,1 32,6 59,3 100
2005 18 21 63 103
Tỷ lệ (%) 17,6 20,6 61,8 100
2006 23 22 0 45
Tỷ lệ (%) 51,1 48,9 0 100
Nguồn: Sở kế hoạch và Đầu tư Ninh Bình

Việc lập hồ sơ mời thầu của một số gói thầu chưa đảm bảo yêu cầu,
chưa bám sát yêu cầu kỹ thuật của thiết kế nên phải điều chỉnh, sửa chữa nhiều
lần.
- Việc lựa chọn năng lực các Nhà thầu tham gia đấu thầu còn hạn chế,
nhiều Nhà thầu năng lực kém không phù hợp với yêu cầu gói thầu mà vẫn
được Chủ đầu tư mới tham gia dự thầu, dẫn đến có Nhà thầu tham gia dự
thầu nhiều các gói thầu nhưng không trúng thầu. Chất lượng hồ sơ dự thầu
của các nhà thầu không trúng thầu rất thấp, mang tính chất hình thức, không
bám sát hồ sơ mời thầu.
2.3. Quản lý thực hiện dự án:
a. Quản lý lập kế hoạch tổng thể hoạt động của dự án:
Lập kế hoạch chi tiết hoạt động của dự án được bắt đầu sớm sau khi các
nhà thầu hoàn thành mọi thủ tục nhận thầu, đặc biệt là kế hoạch vốn cho từng
giai đoạn triển khai dự án. Tuy nhiên nhiều công trình với lượng vốn bố trí quá
ít nên việc thực hiện không đủ đáp ứng vốn cho một hạng mục. Việc bố trí vốn
cho xây lắp, thiết bị và kiến thiết cơ bản khác trong một dự án còn chia theo tỉ
lệ, trong khi chi trả cho tư vấn cần thực hiện trước vì tư vấn đã hoàn thành hợp
đồng, đủ điều kiện thanh toán. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến kế
hoạch hoạt động của nhà thầu. Trong một số trường hợp dự án cấp bách còn có
tình trạng chủ đầu tư phải vay tiền của nhà thầu để giải phóng mặt bằng.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là việc bố trí vốn vẫn còn tình trạng dàn
trải, phân đều cho các huyện thị. Tình trạng bố trí vốn dàn trải, phân tán đã giảm
ở cấp tỉnh nhưng lại diễn ra ở cấp Huyện, thị xã., lượng nợ đọng vốn xây dựng
cơ bản từ nguồn ngân sách hàng năm cân đối vốn. Khả năng cân đối nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách hàng năm cho đầu tư xây dựng còn hạn hẹp, chỉ đáp ứng
được từ 50 - 60% nhu cầu, trong khi đó số lượng dự án đầu tư do các đơn vị
trình duyệt và đề xuất nhiều, số lượng dự án đượng duyệt chưa phù hợp với khả
năng cân đối.
Ví dụ: Công trình nạo vét kênh tiêu trạm bơm Khánh Công là công trình
khởi công mới năm 2003, có tổng mức đầu tư là 3.387 triệu đồng, bó tí kế

hoạch năm 2003 là 300 triệu đồng, Công trình chuyển tiếp xây dựng trường
Chính trị tỉnh có tổng mức đầu tưu là 10.200 triệu đồng, đã bố trí kế hoạch năm
2020 là 1.300 triệu đồng và kế hoạch 2003 là 1.000 triệu đồng ....
Trong năm 2004 bổ sung 4 công trình giao thông phát sinh do 6 xã của
huyện Hoa Lư nhập về thị xã Ninh Bình, năm 2006,, bố trí vốn cho 26 công
trình xử lý đột xuất: Xử lý sự số sạt lở kè tả, hữ sông Vạc, hệ thống cấp điện
chiếu sáng di tích đền thờ vua Đinh - Lê ...
Kế hoạch vật liệu cũng được triển khai rất sớm và có được lợ thế chủ
động về nguồn cung cật liệu do những loại vật liệu chíh là sản phẩm chủ đạo
của nền sản xuất công nghiệp vật liệu chính là sản phẩm chủ đạo cảu nền sản
xuất công nghiệp vật liệu xây dựng Ninh Bình như đá vôi, xi măng, sắt thép....
b. Quản lý phạm vi dự án:
Một dự án đầu tư phát triển được lập với mục tiêu cụ thể tuy nhiên lại
liên quan đến nhiều cấp, ngành và có tác động đến nhiều đối tượng trong quá
trình triển khai. Việc xác định phạm vi dự án tức là xác địng danh sách tất cả
những gì dự án phải làm (và cũng có thẻ là một danh sách tất cả những điều mà
dự án phải làm). Bất kỳ một dự án nào cũng phải có một phạm vi rõ ràng.
Đối với dự án XDCB trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, việc quản lý phạm vi
dự án là quản lý của các sở, ngành liên quan trong quá trình tác động của dự án
tới những đối tượng thuộc phạm vi sở, ngành quản lý.
Ví dụ như dự án nạo vét sông Sào Khê thuộc huyệ Hoa Lư. Sông Sào
Khê không chỉ có giá trị trong phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp mà còn có giá
trịnh phục vụ du lịch đồng thời cũng là di tích văn hoá lịch sử thời nhà Lê. Bởi
vậy trong quá trình thực hiện dự án không chỉ là giám sát, đánh giá thực hiện
của sở Nông nghiẹp mà còn có sự phân phối giám sát của sở Văn hoá, sỏ Du
lịch đối với những hạng mục tu sửa nâng cấp ảnh hưởng đến giá trị khai thác
thuộc phạm vi sở, ngành quản lý. Mọi sửa đổi gây ảnh hưởng đến cảnh quan tự
nhiên phục vụ du lịch hay làm thay đổi tính chất di tích văn hoá của sông Sào
Khê đều phải có được sự chấp thuận của Sở Văn hoá, Sở du lịch.
Thời gian qua, việc phối hợp quản lý phạm vi dự án XDCB trên địa bàn

tỉnh Ninh Bình được các ngành, sở triển khai rất chặt chẽ, sát sao ngay từ những
buổi đầu thực hiện dự án. Các sở chuyên trách thay mặt chính quyền địa phương
trực tiệp quản lý, giám sát việc thực hiện các dự án trong phạm vi ngành mình.
Đối với những trường hợp sai sót hoặc dự án triển khai vượt quá phạm vi hoạt
động cho phép được yêu cầu thu hẹp phạm vi hoạt động theo đúng nhiệm vụ,
giới hạn cho phép hoạt động của dự án. Việc phối kết hợp chặt chẽ trong quản
lý phạm vi dự án đã giúp giảm thiểu những phát sinh tiêu cực đối với môi
trường cũng như các đối tượng hữu quan khác. Hạn chế tình trạng dự án làm rồi
lại phải huỷ hoặc chỉnh sửa do không phù hợp qui chuẩn của các khía cạnh liên
quan.
c. Quản lý tiến độ dự án:
Tiến độ dự án là một trong những yếu tố quyết định việc trúng thầu của
nhà thầu. Trong hồ sơ dự thầu, nhà thầu không chỉ có nhiệm vụ chứng minh năng
lực triển khai dự án đúng qui chuẩn, đảm bảo chất lượng với mức giá trúng thầu
thấp nhất mà còn phải đưa ra được phương án tiến độ tối ưu nhất.
Trên cơ sở tài liệu hồ sơ trúng thầu, công tác kiểm tra để chỉ đạo tiến độ
được HĐND và UBND tỉnh, các cấp, các ngành, các chủ đầu tư ngày càng quan
tâm hơn. Hàng tháng, hàng quý chủ thầu, BQLDA có trách nhiệm gửi báo cáo
về Sở Kế hoạch tỉnh và chủ đầu tư báo cáo tiến độ thực hiện dự án. Sở thường
xuyên tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra về tiến độ và chất lượng xây
dựng các công trình, nhất là công trình trọng điểm. Qua thanh tra và kiểm
tra đã phát hhiện và bổ sung những sai sót kịp thời để đẩy nhanh tiến độ thi
công.
Qua thực tế các dự án triển khai thời gian qua trên địa bàn tỉnh có thể
nhận thấy việc thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng đã được
thực hiện có kinh nghiệm hơn, đạt kết quả tốt hơn, tạo điều kiện để các dự án
đẩy nhanh tiến độ và đưa vào hoàn thành sử dụng.
Hình thức đấu thầu, chia nhỏ dự án thành các gói thầu tư vấn, gói thầu
xây lắp ... cũng góp phần đẩy nhanh tiến độ dự án, sớm đưa vào sử dụng và phát
huy được hiệu quả.

Tuy nhiên vẫn còn khoảng 25% dự án không đảm bảo được tiến độ,
thậm chí có dự án hết thời hạn thực hiện vẫn chưa khởi công xây dựng. Theo
qui chế quản lý đầu tư đã qui định: đối với các dự án nhóm C, cơ quan quyết
định đầu tư phải bảo đảm cân đối đầu tư để thực hiện dự án không quá 2 năm;
nhóm B không quá 4 năm, nhưng trên thực tế một số dự án nhóm C kéo dài quá
2 năm, nhóm B quá 4 năm. Nguyên nhân đến từ:
- Thủ tục phê duyệt dự án phải qua nhiều Sở ngành.
- Công tác thẩm định kéo dài thời gian so với qui định do liên quan đến
nhiều cơ quan, việc giải quyết các vấn đề cụ thể của các cơ quan có liên quan
không phải là một sớm một chiều.
- Chậm đưa công trình vào hoàn thành.
- Và phần lớn tình trạng chậm tiến độ là vì chậm bố trí vốn, khả năng
cân đối vốn của tỉnh thấp.
Một số dự án điển hình khác như dự án trung tâm y tế huyện Yên Mô,
dự án trường Chính trị Tỉnh, dự án nước sạch sinh hoạt xã Gia Lập.
Kéo dài thời gian đầu tư không những ảnh hưởng đến hiệu quả dự án mà
còn gây ảnh hưởng lớn đối với các mặt khác của đời sống KT - XH như vấn đề
ô nhiễm, giao thông ...
d. Quản lý chi phí dự án:
Nhìn chung chi phí dự án đã được chủ đầu tư quản lý khá chặt chẽ trên
cơ sở hướng dẫn của Nghị định số 99/2007/NĐ - CP ngày 13 tháng 6 năm 2007
về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình trong quá trình lập tổng mức đầu
tư. Sau đấu thầu, các khoản chi phí xây dựng đều được xã hội hoá giao cho các
nhà thầu trực tiếp quản lý. Chủ đầu tư chi quản lý chi phí theo dự toán chứ
không đi sâu giám sát từng hạng mục chi phí trong quá trình thực hiện dự án.
Tuy chủ sở hữu các nguồn vốn đầu và tài sản mới hình thành là Nhà
nước, các chủ đầu tư là người chủ sử dụng công trình nhưng không phải là
người chủ thực sự của đồng vốn nên chưa đề cao ý thức tiết kiệm trong chi tiêu,
thậm chí còn có tư tưởng xin được càng nhiều vốn của Nhà nước càng tốt. Ví dụ
dự án xây dựng đường liên huyện cấp II thì qui chuẩn một lần đượng rộng 7,5m

là phù hợp với qui mô nền kinh tế tỉnh. Nhưng cơ quan chuyên ngành là chủ đầu
tư lại bác bỏ hệ thống qui phạm này với lý do qui phạm đã lỗi thời và lạc hậu,
không đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân tỉnh trong tương lai và lập dự
án đầu tư với qui mô lớn hơn. Việc tính toán đến khả năng đáp ứng nhu cầu
tương lai của đời sống xã hội là rất cần thiết đối với các dự án đầu tư công cộng
tuy nhiên điều này lại dẫn đến tình trạng không cân đối với nguồn lực địa
phương.
Chi phí cho các hạng mục xây dựng của công trình được tính trên cơ sở
định mức xây dựng nên có sự chênh lệch giữa chi phí xây dựng thực tế và tổng
dự toán, trong một vài trường hợp cụ thể mức chênh lệch này là khá lớn mà chi
phí xây dựng chiếm tới 80 -85% tổng chi phí dự án. Đây là một khe hở rất phổ
biến trong xây dựng, lợi dụng điểm này mà tiêu cực, tham nhũng vốn đầu tư của
Nhà nước vẫn còn tồn tại và có xu hướn gia tăng với nhiều cách thức khác nhau.
Về việc quản lý giá vật liệu xây dựng:
- Còn duyệt đơn giá vật liệu riêng cho nhiều công trình, mặc dù các công
trình bên cạnh đang áp dụng đơn giá chung cho cùng loại vật liệu, đây Cũng là
một trong những điểm sơ hở cho việc ăn chia, tham ô của công nhờ việc áp
dụng đơn giá thiếu minh bạch.
Hệ số đơn giá vật liệu khu vực theo quyết định: 1837/QĐ-UB ngày
22/12/1998 của UBND tỉnh mới phù hợp áp dụng cho các trung tâm các huyện
thị chưa phù hợp với công trình nằm xa trung tâm dẫn đến chủ đầu tư phải xin
thông báo giá riêng cho từng công trình, điều này gây ra hiện tượng giá vật liệu
xây dựng không có tính thống nhất. Một số giá vật liệu chưa sát giá thị trường.
Chi phí giải phóng mặt bằng: Định mức đền bù giải phóng mặt bằng do
tỉnh ban hành. Hầu hết các dự án xây dựng thuộc phạm vi vốn NSNN trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình thời gian vừa qua không gặp khó khăn trong công tác giải
phóng mặt bằng. Tuy nhiên theo đánh giá chung thì định mức chi trả hiện nay
của tỉnh là còn thấp.
e. Quản lý chất lượng dự án:
Chất lượng dự án phải được giám sát, quản lý trong suốt cả vòng đời của

dự án sao cho đảm baỏi quy chuẩn xây dựng của Nhà nước. Chất lượng xây
dựng công trình phụ thuộc vào các đối tượng sau:
+. Chủ đầu tư: Chủ đầu tư chịu trách nhiệm quản lý chất lượng công
trình xây dựng ngay từ khi chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư cho đến khi kết
thúc xây dựng, đưa công trình vào khai thác sử dụng. Trách nhiệm quản lý chất
lượng công trình xây dựng gồm:
- Thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước về lập, thẩm định, trình
duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, tổ chức đấu
thầu hoặc lựa chọn nhà thầu.
- Tuyển chọn tổ chức tư vấn, cung ứng vật tư, thiết bị, xây lắp có đủ tư
cách pháp nhân, có đủ năng lực để đảm nhận các công việc trong quá trình đầu
tư.
- Kiểm tra chất lượng các loại vật tư, cấu kiện xây dựng, thiết bị lắp đặt
đúng theo yêu cầu thiết kế và tiêu chuẩn kỹ thuật được duỵêt.
- Được quyền yêu cầu các tổ chức tư vấn, cung ứng, tổ chức nhận thầu
xây lắp giải trình về chất lượng vật liệu, thiết bị và công việc do các tổ chức này
thực hiện nếu thấy không đạt yêu cầu quy định có quyền yêu cầu sửa chữa, thay
thế hoặc từ chối nghiệm thu.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên đòi hỏi chủ đầu tư phải có đủ năng lực để
quản lý dự án hoặc thành lập Ban quản lý dự án để giúp chủ đầu tư quản lý dự án.
+. Trách nhiệm của nhà thầu:
- Chỉ được phép nhận thầu thi công những công trình thực hiện đúng thủ
tục đầu tư và xây dựng, phù hợp với năng lực của mình; thi công đúng thiết kế
được duyệt; áp dụng đúng các tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng đã được quy định
và chịu sự giám sát, kiểm tra thường xuyên về chất lượng công trình của chủ
đầu tư tổ chức thiết kế và cơ quan giám định Nhà nước theo phân cấp quản lý
chắt lượng công trình xây dựng.
- Chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư và trước pháp luật về chất lượng thi
công xây lắp công trình kể cả những phần việc do nhà thầu phụ thực hiện theo
quy định của hợp đồng giao nhận thầu xây lắp.

- Vật liệu cấu kiện xây dựng sử dụng vào công trình phải có chứng nhận
về chất lượng gửi cho chủ đầu tư để kiểm soát trước khi sử dụng theo quy định.
Trên thực tế, công tác quản lý chất lượng dự án của tỉnh Ninh Bình vẫn
còn tồn tại một số vấn đề sau.
Trong lựa chọn nhà đầu tư vấn lập dự án, chủ đầu tư có xu hướng chọn
nhà tư vấn trước khi trình bày dự định đầu tư nên không có tính cạnh tranh.
Thậm chí một số đơn vị tư vấn được lựa chọn thiếu kinh nghiệm trong việc lập
dự án dẫn đến tình trạng dự án lập ra thiếu sức thuyết phục, không đáp ứng
đúng quy chuẩn xây dựng, không khảo sát địa hình địa chất hay bỏ xót những
hạng mục quan trọng như cấp thoát nước, phòng chống cháy nổ... chất lượng tư
vấn thấp. Ví dụ như dự án đầu tư xây dựng xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư
đường vòng thị xã Tam Điệp do công ty cổ phần xây dựng Hoàng Mai là đơn vị
tư vấn khi tính toán khối lượng san nền không chính xác, sử dụng hệ số đầm
nén của vật liệu không qua thí nghiệm.
Chủ đầu tư tỉnh nói chung nhìn chung chưa thực hiện nghiệm thu do nhà
tư vấn thực hiện trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thiết kế kĩ
thuật, tổng dự toán.
Thời gian qua đối với dự án trên địa bàn tỉnh Ninh Bình việc nhà thầu
thay đổi chủng loại nguyên vật liệu so với đấu thầu hầu như là không có. Nhưng
tình trạng tham ô lại diễn ra theo cách thức cắt giảm, ăn bớt nguyên vật liệu này
gây giảm sụt chất lượng công trình.
Công tác giám sát thi công nghiệm thu từng phần và nghiệm thu toàn
phần không có cán bộ nên chủ yếu dựa vào báo cáo của nhà thầu. Có công
trình không đảm bảo chất lượng nhưng vãn nghiệm thu. Ví dụ: Kênh Cánh
Diều mỗi lần vận hành là nước lại ngấm qua kênh tràn về phía đường quốc
lộ 10.
Các cấp chính quyền thực hiện theo dõi đảm bảo chất lượng dự án thông
qua chế độ báo cáo giám sát đánh giá đầu tư định kỳ của BQLDA. Đối với
những trường hợp nghi vấn trực tiếp đoàn thanh tra sẽ xuống giám sát công
trường dự án.

Việc chấp hành quy định về chế độ báo cáo tình hình thực hiện các công trình
XDCB, báo cáo giám sát đánh giá đầu tư của các Huyện, thị, các chủ đầu tư với
các cơ quan quản lý nhà nước còn thiếu và chậm. Đa số các ban quản lý và chủ
đầu tư thực hiệm công việc giám sát đánh giá đầu tư chỉ mang tính hình thức
chưa phản ánh được tình hình thực hiện dự án , còn tư tưởng nể nang, chiếu lệ.
Giai đoạn 2003 - 2008 công tác giám sát đánh giá công đồng đã được
triển khaithực hiện trên tất cả các đơn vị huyện thị và đạt được những thành quả
tốt, góp phần nâng cao chất lượng công trình đầu tư xây dựng. Đây là một
phương pháp giám sát mới rất và rất khoa học lại đề cao tinh thần trách nhiệm
của mọi tầng lớp nhân dân trong quản lý nguồn lực kinh tế. Trong thời gian tới,
cần phát huy hơn nữa công tác giám sát công cộng ở mọi khâu, mọi giai đoạn
của quá trình quản lý để phát huy cao độ trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân
trong quản lý tài sản chung của xã hội, hạn chế những lãng phí không cần thiết.
g. Quản lý nhân lực:
+. Năng lực chủ đầu tư:
- Chủ đầu tư thiếu năng lực chuyên môn và kinh nghiệm về lĩnh vực đầu
tư của dự án: Không nắm được các quy định về quản lý một dự án, lúng túng
trong tổ chức thực hiện, từ lập dự án, trình duyệt, thẩm định, tổ chức đấu thầu,
giám sát thi công xây lắp và nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng. Dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng khu phòng học trường phổ thông trung học chuyên Lương
Văn Tuỵ là một trưởng hợp điển hình, chủ đầu tư là Sở Giáo dục và Đào tạo
tỉnh được giao trọng trách chủ đầu tư, BQLDA thành lập theo cách thức
kiêm nhiệm bao gồm thành viên ban quản lý là các thầy cô giáo nên không
có kinh nghiệm, chuyên môn về quản lý xây dựng, khi điều hành dự án đã
gặp phải không ít khó khăn.
- Ban quản lý dự án: ở tỉnh Ninh Bình, chỉ trử Sở Giao thông và sở Nông
nghiệp là có BQLDA chuyên trách, còn lại dự án của các sở ngành khác hầu hết
là thành lập BQLDA kiêm nhiệm. Các thành viên BQLDA kiêm nhiệm là các
cán bộ, chuyên viên đến từ các sở ngành khác nhau nên việc am hiểu những vấn
đề chuyên môn về đầu tư xây dựng chưa thực sự toàn diện và sâi sắc, vẫn gặp

khó khăn, bỡ ngỡ trong quản lý dự án. Nói chúng, đa số chủ đầu tư, ban quản lý
thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu kinh nghiệm, yếu về chuyên môn và khả năng
quản lý XDCB thậm chí là chính, dẫn đến chưa phát huy hết hiệu quả của đồng
vốn bỏ ra, chất lượng công trình còn chưa đảm bảo.
Trình độ chuyên môn về quản lý đầu tư của các đơn vị được phân cấp
chưa đáp ứng được yêu cầu, đội ngũ cán bộ còn thiếu. đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý đầu tư và xây dựng ở các Huyện, thị xã, các xã, phường, thị
trấn vừa thiếu vừa yếu kém về trình độ; một số phòng hạ tâng kinh tế ở cấp
huyện không có cán bộ có trình độ Đại học quản lý đầu tư xây dựng chuyên
ngành.
+. Nguồn nhân lực thực hiện dự án:
Ngoài chủ đầu tư, thành viên BQLDA thì tiến trình dự án còn có sự
tham gia của các thành viên khác như: Giám sát thi công xây dựng, cán bộ kỹ
thuật, kỹ sư, kiến trúc sư, kế toán... và lực lượng lao động phổ thông.
Trong hồ sơ dự thầu, nhà thầu cũng phải đưa ra được danh sách nhân sự
tham gia quá trình thực hiện dự án đáp ứng được những yêu cầu của chủ đầu tư
như về trình độ chuyên môn, số năm kinh nghiệm, giới tính, độ tuổi, công việc
đã làm tương tự, dự kiến vị trí được giao...
Chủ đầu tư có quyền can thiệp điều chỉnh về số lượng, chất lượng nhân
sự (chủ yếu chỉ tham gia điều chỉnh nhân sự cao cấp)
Trường hợp có sự thay đổi nhân sự trong quá trình thực hiện dự án, nhà
thầu phải lập báo cáo và chứng minh năng lực nhân sự thay thế với chủ đầu tư;
được sự chấp thuận từ phía chủ đầu tư. Ví dụ như dự án kiên cố hoá kênh tưới
Cánh Diều, chủ đầu tư không chấp nhận một số nhân sự thay thế nhân sự đăng
ký trong hồ sư dự thầy vì lý do không đủ năng lực thực hiện gói thầu. Tuy nhiên
hầu hết do tư tưởng nể nang và các mối quan hệ xã hộ chi phối, các dự án chưa
áp dụng triệt để việc tuyển chọn nhân sự công khai, nhiều kỹ sư, kỹ thuật viên
chưa đáp ứng đủ yêu cầu đề ra.

×