Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

DỰ ÁN ĐẦU TƯ MỞ RỘNG BÃI BẰNG GIAI ĐOẠN 2 VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.46 KB, 13 trang )

DỰ ÁN ĐẦU TƯ MỞ RỘNG BÃI BẰNG GIAI ĐOẠN 2
VÀ GIẢI PHÁP
2.1 Dự án đầu tư mở rộng Bãi Bằng giai đoạn 2
2.1.1 Tổng quan về dự án
Được soạn thảo Dự án tiền khả thi năm 2001 đến năm 2004 được phê
duyệt chính thức. Dự án khả thi được thực hiện trong vòng 4 năm, chính thức
được phê duyệt năm 2008; triển khai dự án theo phương thức tổng thầu EPC.
*Chủ đầu tư: Tổng công ty giấy Việt Nam
*Mục tiêu: lắp đặt hoàn chỉnh một dây chuyền sản xuất bột hóa tẩy trắng
(công nghệ ECF) năng lực 250.000 tấn/năm. Bột giấy sẽ cung cấp cho dây
chuyền sản xuất hiện tại của Bãi bằng và một số đơn vị sản xuất khác trong
nước như Tissue Sông Đuống, Công ty cổ phần giấy Bãi bằng - Phong Châu...
Còn dư sẽ xuất khẩu. Ngoài ra theo quy hoạch, trong tương lai sẽ có thêm một
máy xeo giấy thứ 3 được lắp đặt tại Bãi Bằng
-Triển khai đồng thời vùng trồng nguyên liệu tạo ra 160.000 ha bột gỗ
cứng
-Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm ISo 2000
-Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000
*Tổng mức và nguồn vốn đầu tư mở rộng giai đoạn 2
(số liệu theo quyết định số 240/QĐ-GVN.HN ngày 20.4/2007 của hội
đồng quản trị-gần nhất)
Hạng mục Số tiền Ghi chú Dự kiến nguồn
A. Tổng mức
I. Vốn cố định
1. Thiết bị
2. Xây lắp
3. XDCB khác
4. Lãi vay t/gian xây
dựng
5. Bảo hiểm vốn vay
TDXK


6. Dự phòng
II. Vốn lưu động
B. Nguồn vốn
1. Vay nước ngoài
2. Vay thương mại
trong nước
3. Vốn tự có
5.992.354.293.
000
5.166.814.643.
000
3.510.048.000.
000
582.060.513.00
0
235.950.000.00
0
258.629.073.00
0
170.663.000.00
0
409.464.057.00
0
825.539.650.00
0
5.992.354.293.
000
4.172.146.646.
000
700.261.940.00

0
1.119.945.707.
000
18,69%
255.635.941
219.378.000
10.666.438
25.591.504
BTC giúp lựa chọn thu
xếp
Bốn ngân hàng thương
mại cam kết và NHPT
việt nam
Vay nước
ngoài
Vay TM trong
nước
Tự có
Vay nước
ngoài
Vay nước
ngoài, tự có
Vay thương
mại trong
nước, tự có
Tổng mức đầu tư được phê duyệt sau khi được điều chỉnh tháng 7 năm 2008
là 8.446 tỷ đồng chưa bao gồm vốn lưu động.
IRR sau thuế =12,9%.
Tiến độ xây dựng dự kiến là 36 tháng kể từ khi Hợp đồng thương mại
được chính thức ký kết giữa Tổng Công ty Giấy Việt nam và Tổng thầu EPC.

Đến thời điểm tháng 15/4/2009, đã tổ chức xong việc đấu thầu EPC và đang
chấm thầu. Dự kiến, tháng 9 năm 2009 sẽ hoàn tất xong việc ký kết hợp đồng
chính thức với đơn vị trúng thầu EPC.
Để có nguồn nguyên liệu cung cấp đủ cho dây chuyền sản xuất bột giấy,
Tổng Công ty Giấy Việt nam phải thực hiện song song Dự án nguyên liệu giấy
với diện tích quy hoạch trên 164.000 ha (hiện đang có trên 79.000 ha rừng
trồng). Tổng vốn đầu tư trên 2500 tỷ đồng. Vùng nguyên liệu được mở rộng
thêm ở các tỉnh cũ như Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc và phát
triển thêm tại Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình.
Ban Quản lý dự án Bãi bằng giai đoạn 2 chính thức thành lập tháng 4
năm 2008, cho đến hiện nay tổng số nhân viên là 26 người.
Trưởng ban Quản lý Dự án là Thạc sĩ Văn Khắc
Dự kiến, năm 2010 dự án mở rộng giai đoạn 2 sẽ triển khai xong và khi
đi vào họat động thì giá trị sản xuất công nghiệp của Công ty mẽ sẽ nâng lên
nhiều lần so với hiện nay, ước tính khoảng 3.600 tỷ đồng mỗi năm.
2.1.2. Sự cần thiết của dự án
Xuất phát từ nhu cầu cấp bách của thị trường và nền kinh tế có nhiều biến
động về giá cả và cung nguyên liệu. Dự án đầu tư mở rộng giấy Bãi Bằng 2 sẽ
khắc phục được những khó khăn này và giúp ngành giấy vững mạnh.
Hiện tại chúng ta phải nhập khẩu bột giấy từ nước ngoài với diễn biến giá
thay đổi từng ngày. Sản xuất bột hóa ở trong nước chỉ đáp ứng 37% nhu cầu.
Trước đây chúng ta chỉ nhập bột hóa tẩy trắng, nay bột hóa không tẩy nhập
ngày càng tăng vì các cơ sở phải ngừng sản xuất do không có khả năng xử lý
nước thải vì quy mô nhỏ và công nghệ lạc hậu. Kinh tế thế giới càng ổn định và
phát triển thì giá bột ngày càng cao và càng có nhiều biến động. Điều này dẫn
tới hiệu quả sản xuất ngành giấy mong manh, dễ bị tổn thương, vì vậy khả năng
cạnh tranh càng trở nên mong manh hơn.
Với tài nguyên rừng không giầu có nhưng cũng đủ để phát triển sản xuất
bột giấy dư thừa cho nhu cầu nội địa, nhưng trong 10 năm qua năng lực mới chỉ
tăng thêm 10.000 tấn, trong khi ở cạnh chúng ra, đảo Hải Nam (Trung Quốc)

một dây chuyền sản xuất bột hóa công suất 1 triệu tấn/năm đã đi vào hoạt động
từ 11-2004. Rõ ràng phương thức phân bổ nguồn lực cho phát triển trong ngành
giấy kém hiệu quả, không tạo điều kiện cho những bước phát triển tiếp theo của
ngành giấy. Trong khi trong tất cả các khâu sản xuất giấy thì khâu sản xuất bột
giấy chiếm tới 70 %công đoạn và chiếm nhiều lao động thủ công nhất. Chúng
ta lại sẵn lao động rẻ và dư thừa nhất là thời điểm hiện tại, dự án đi vào hoạt
động sẽ giải quyết một số lượng việc làm lớn. Số lượng này sẽ phân bổ cả ở
khâu nguyên liệu thô, chặt, băm, mảnh cũng như nấu bột. Phần cán giấy (xeo)
chỉ chiếm 30% phần còn lại với yêu cầu rất cao về độ chính xác và kỹ sư có tay
nghề cũng như trình độ. Nghịch lý diễn ra như thế này, bột giấy chúng ta nhập
về trong khi vùng trồng nguyên liệu của ta rộng lớn và lao động phổ thông rẻ
mạt hơn hẳn giá cho lao động tương đương ở các nước mà chúng ta đang nhập
khẩu bột giấy, phần xeo giấy, máy móc của chúng ta cũng không thể hiện đại và
chính xác cao như các nước đó. Vậy chúng ta sẽ cạnh tranh bằng cách nào. Hiện
cả nước có khoảng trên 300.000 ha rừng nguyên liệu, mỗi năm trồng mới
khoảng 7.000 ha nhưng mới chỉ có rất ít nhà máy sản xuất bột giấy. Để giải
quyết lượng gỗ tồn đọng, nhiều năm nay, Việt Nam phải xuất khẩu một lượng
gỗ dưới dạng thô (dăm mảnh) tương đối lớn. Trong đó, riêng Tổng công ty Giấy
Việt Nam đã xuất khẩu trên 183.000 tấn dăm mảnh/năm. Dăm mảnh đó lại được
xuất khẩu sang những nước có ngành công nghiệp sản xuất bột giấy tốt, và chu
trình vòng luẩn quẩn bắt đầu. Nếu sản xuất giấy từ nguyên liệu thô như tre, nứa,
gỗ thì chi phí nguyên liệu chiếm khoảng 15% tổng chi phí, nhưng nếu sản xuất
giấy từ bột nhập khẩu thì chi phí nguyên liệu chiếm từ 29 đến 35% tổng chi phí.
Như vậy, mỗi tấn bột giấy sản xuất trong nước có giá thành thấp hơn bột giấy
nhập khẩu từ 2 đến 2,5 triệu đồng. Giá thành giấy nếu nhập khẩu bột giấy về và
chỉ tiến hành mỗi công đoạn cán giấy như hầu hết các doanh nghiệp sản xuất
giấy đang làm thì không thể nào cạnh tranh nổi với giấy ngoại sau lộ trình
AFTA. Giá thành cao do 2 nguyên nhân: phụ thuộc vào giá bột giấy và nhập lẻ
tẻ nên giá cao. Sức cạnh tranh kém còn do các doanh nghiệp lại không thể hợp
tác được với nhau. Chuyện nhập khẩu bột giấy là một ví dụ. Hiệp hội Giấy Việt

Nam cho biết, bảy tháng đầu năm nay 29 công ty giấy trong nước nhập khẩu
78.000 tấn bột giấy, với 172 hợp đồng của 29 doanh nghiệp qua 14 cửa khẩu.
Tính bình quân mỗi đơn đặt hàng chỉ có 453 tấn. Ai cũng biết, nếu hợp tác để
ký những hợp đồng nhập khẩu lớn thì được giá rẻ hơn, nhưng các doanh nghiệp
lại không thể bắt tay với nhau
Với đơn hàng cao nhất là 2.000 tấn và thấp nhất là 1 tấn thì giá nhập cao
và bị động là điều không tránh khỏi. Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan,
năm 2008 Việt Nam nhập khẩu trên 166 ngàn tấn bột giấy các loại đạt kim
ngạch 117,1 triệu USD, tăng 26,19% về lượng và tăng 37,97% về trị giá.
Hiện tại là thời điểm thích hợp nhất để thực hiện dự án. Có 2 lý do có thể
khẳng định điều đó
Thứ nhất: Do tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu mà tình hình đầu
tư và sản xuất không mấy sáng sủa, thời buổi suy thoái cũng khiến cho doanh
nghiệp trên thế giới sản xuất ra hàng hóa nhưng lại không tiêu thụ được số hàng
hóa đó. Lượng hàng tồn kho lớn bắt đầu tìm cách đổ sang những thị trường dễ
chịu hơn và đặc biệt đúng thời điểm lộ trình AFTA được triển khai. Giá bột giấy
trên thế giới đều giảm một cách nhanh chóng và giảm mạnh về giá. Khi chưa tự
chủ được lượng bột thì đây là điều kiện tốt để nhập khẩu bột giấy số lượng lớn

×