Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Đánh giá thị trường Chứng Khoán Việt Nam 2001 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.32 KB, 77 trang )

Đánh giá thị trường Chứng Khoán Việt Nam
2001 – 2010

1. Chứng khoán và thị trường chứng khoán
1.1. Khái quát về chứng khoán
Trong đời sống kinh tế, thuật ngữ chứng khoán được tìm hiểu theo những
yêu cầu, mục đích khác nhau. Đây là khái niệm phức tạp vì bản thân nó đã hàm
chứa một loại quan hệ kinh tế phức tạp phát sinh giữa người cần vốn và người có
vốn. Chứng khoán rất đa dạng về chủng loại và phong phú về cách thức biểu hiện
do đó mà pháp luật nhiều quốc gia không đưa ra một định nghĩa cụ thể về chứng
khoán.
a) Theo quan điểm truyền thống :
Chứng khoán là phương tiện xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Hình thức tồn
tại của chứng khoán rất đa dạng, phụ thuộc vào thực tế phát triển của nền kinh tế.
Chứng khoán có thể có hình thức chứng chỉ, hình thức bút toán ghi sổ dần phát
triển do yêu cầu của nhà phát hành và sở hữu chứng khoán. Khi công nghệ phát
triển, hình thức điện tử cũng được nghi nhận như một dạng tồn tại của chứng
khoán.
b) Theo quan điểm hiện đại :
Chứng khoán là mọi sản phẩm tài chính có thể chuyển nhượng được.Với
cách hiểu này, đối tượng được coi là chứng khoán thực sự đa dạng: cổ phiếu, trái
phiếu, các công cụ tại thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng
và các loại thương phiếu. Chứng khoán xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu,
điều đó cũng có nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét theo
phương diện pháp lý.Nhưng cho dù chứng khoán có hình thức có hình thái biểu
hiện cụ thể như thế nào thì đều có chung đặc trưng là xác nhận quyền chủ nợ hoặc
quyền sở hữu đối với chủ thể phát hành ra nó.
c) Để nhận diện chứng khoán với các đối tượng khác, thường phải dựa trên
đặc điểm của chúng:
• Đặc điểm quan trọng đầu tiên của chứng khoán là tính sinh lời :


Tính sinh lời thể hiện ở việc người phát hành ra chúng phải trả cho người sở hữu
chứng khoán một khoản lợi tức trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng
vốn. Tính sinh lời của chứng khoán là động lực thúc đẩy người đầu tư mua chứng
khoán và cũng là tiền đề xuất hiện chứng khoán. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở tính
sinh lời thì cơ hội đầu tư cũng như hiệu quả đầu tư chưa đạt được.
• Tính thanh khoản :
Tính thanh khoản tức là khả năng chuyển đổi được thành tiền. Tính thanh khoản
tạo cho người sở hữu chứng khoán chuyển đổi dạng tài sản từ chứng khoán sang
tiền thông qua một giao dịch tại thị trường thứ cấp hoặc thông qua nghiệp vụ ngân
hàng. Tính thanh khoản tạo ra sự hấp hẫn đối với người đầu tư, thoả mãn nhu cầu
của họ đồng thời cũng hạn chế rủi ro làm giảm sút giá trị tiền tệ của chứng khoán.
Có thể nói rằng, khả năng thanh khoản của mỗi chứng khoán là khác nhau, điều đó
cũng có ý nghĩa trong việc xác định hiệu suất vốn đầu tư của nền kinh tế, đồng thời
tạo ra sức cạnh tranh cho các chủ thể phát hành. Tính thanh khoản của một loại
chứng khoán phụ thuộc vào uy tín của chủ thể phát hành, vào chi phí chuyển đổi và
sự biến động của thị trường.
• Tính rủi ro :
Cuối cùng, nói tới chứng khoán, cũng đồng thời phải nói tới tính rủi ro của chứng
khoán, thể hiện ngay ở bản chất của hoạt động đầu tư vốn. Cũng như bất kỳ hoạt
động đầu tư, kinh doanh nào khác, việc kinh doanh chứng khoán là “đầu tư một
lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi trong tương lai”, do vậy cả quãng
thời gian đó cũng chính là thời gian chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro tiềm tàng đến
đâu còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn
cùng các cam kết khác chính là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới độ rủi ro. Mức
độ rủi ro của chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và tính thanh
khoán của chứng khoán.
1.2. Khái niệm Thị trường chứng khoán
a) Khái niệm
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động giao dịch, mua bán các loại
chứng khoán được tiến hành bởi những đối tượng khác nhau theo quy định của

pháp luật. Đây là nơi chắp nối quan hệ cung – cầu vốn đầu tư trung, dài hạn của
nền kinh tế quốc dân và quốc tế; là nơi gặp gỡ, giao dịch giữa những người cần
huy động vốn đầu tư (người phát hành chứng khoán) với những người có vốn nhàn
rỗi muốn đầu tư (người mua chứng khoán) cũng như giữa các nhà kinh doanh
chứng khoán với nhau.
Thị trường chứng khoán là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường. Cũng như các thị trường khác, thị trường
chứng khoán cũng qua những bước phát triển sơ khai ban đầu, sau đó ngày càng đa
dạng, phức tạp dần theo sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội. Đây là thị
trường đặc biệt, lưu hành các loại hàng hoá đặc biệt là chứng khoán. Sự khác biệt
cơ bản đó làm cho nguyên tắc, tổ chức, quản lý thị trường chứng khoán cũng có sự
khác biệt so với các thị trường thông thường.Vậy thị trường chứng khoán có từ bao
giờ?
Thị trường chứng khoán được hình thành, phát triển trong những điều kiện
hoàn cảnh cụ thể. Đó là nền kinh tế thị trường với những quy luật vốn có của nó.
Tại đó cơ hội kinh doanh, khả năng chuyển đổi mới hình thành và tồn tại. Đối với
nền kinh tế tập trung không thực hiện được những hoạt động này. Trên thế giới,
thị trường chứng khoán ra đời cách đây hơn 400 năm. Hình thức và địa điểm ban
đầu rất thô sơ, bột phát, tản mạn, khó xác minh. Mốc thời gian đánh dấu thị trường
hoạt động đồng bộ, với đủ loại hình giao dịch như ngày nay được ghi vào đầu thế
kỷ 17 tại Amsterdam (Hà Lan). Công ty cổ phần đầu tiên thành lập, phát hành cổ
phiếu vào ngày 20 tháng 3 năm 1602. ít lâu sau người ra phát kiến ra trái phiếu
quốc gia và các loại trái khoán, giấy ghi nợ rất phong phú. Thị trường chứng khoán
Pari “ non trẻ ” hơn, ra đời năm 1801. Sau London, nó là “chợ” lớn nhất châu Âu,
một lục địa sang đầu thế kỷ 21 đã có hơn 30 thị trường quốc gia, 12 hệ thống buôn
bán và 20 hệ thống thi hành lệnh, triển khai quy trình thanh toán bù trừ. Theo thời
gian các thị trường biến hình liên tục.
Nếu trong thời kỳ đầu, thị trường chứng khoán chỉ xuất hiện ở các nước có
nền kinh tế tự do phát triển như Hà Lan, Anh, Đức, Hoa Kỳ … thì hiện nay mô
hình thị trường này đã lan rộng và trở thành hiện tượng phổ biến của các quốc gia

có nền kinh tế thị trường. Mặc dầu vậy, để phù hợp với trình độ phát triển nền kinh
tế, thực lực nền kinh tế mà mức độ phức tạp, đa dạng cũng như mức độ sôi động
của thị trường chứng khoán tại các quốc gia khác nhau. Sự khác biệt ấy không chỉ
dừng lại giữa các quốc gia, ngay ở những khu vực phát triển kinh tế khác nhau
trong một quốc gia, mức độ lưu hoạt vốn của các bộ phận thị trường (mang tính địa
phương) cũng khác nhau rõ rệt. Cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt
động của thị trường chứng khoán các quốc gia ngày càng trở nên gần nhau hơn,
thông qua các liên kết giao dịch, nhu cầu kinh doanh, đầu tư của tất cả các đối
tượng ở Việt Nam nếu không tính đến những năm chuẩn bị thì thời điểm khai
trương chính thức trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hòo Chí Minh là
vào tháng 6 năm 2000. Phiên giao dịch đàu tiền diễn ra ngày 20-7-2000.
b) Phân loại thị trường chứng khoán
• Xét theo tiêu chí lưu thông chứng khoán có thể phân ra thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp.
Tại thị trường sơ cấp, các chứng khoán lần đầu tiên được bán cho các nhà đầu tư
nên còn được gọi là thị trường phát hành. Điều đó cũng có nghĩa, thông qua thị
trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới thực sự được chuyển cho nhà phát hành.
Thị trường thứ cấp diễn ra các giao dịch chứng khoán chưa được thanh toá. Bộ
phận thị trường này không làm tăng nguồn vốn mới cho nền kinh tế, nhưng có thể
hoạt động liên tục, tạo ra khẳ năng thanh khoản cho chứng khoán đã phát hành.
“ Thị trường thứ cấp phục vụ cho hai mục đích chính: thúc đẩy sự tạo vốn cho các
doanh nghiệp, chính phủ và tạo ra các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cho các
nhà đầu tư ”. Thông qua thị trường thứ cấp, các bên tham gia đều mong muốn đạt
tới hiệu ích kinh tế của mình. Hai bộ phận thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp có
mối quan hệ nội tại, mật thiết: thị trường sơ cấp là sơ sở, tiền đề; thị trường thứ cấp
là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để vận hành
thị trường thứ cấp; ngược lại nếu không có thị trường thứ cấp sẽ khó khăn trong
việc phát hành vì chứng khoán hầu như không có khả năng thanh khoản vì chưa
đến hạn thanh toán.
• Xét theo phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán bao

gồm thị trường tập trung và không tập trung.
Thị trường chứng khoán tập trung diễn ra các hoạt động mua hoặc bán chứng
khoán, hoặc tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán, được tồn tại dưới
hình thức phổ biến là Sở Giao dịch chứng khoán hạc các sàn giao dịch chứng
khoán.
Thị trường không tập trung diễn ra hoạt động giao dịch chứng khoán không có đủ
điều kiện giao dịch tại thị trường tập trung, có thể tiến hành thông qua những hình
thức đa dạng khác nhau như hệ thống giao dịch nối mạng hoặc là giao dịch chứng
khoán riêng lẻ.
Thị trường chứng khoán tập trung có giá trị như “bộ mặt” thị trường chứng khoán
quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa dạng của các giao dịch có thể
lựa chọn. Hàng hoá của thị trường tập trung cũng là những hàng hoá có thể đánh
giá có chất lượng hơn so với hàng hoá của thị trường khác, do tính có tổ chức của
nó; điều đó cũng có nghĩa sự an toàn hay rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong
các giao dịch trên thị trường.
1.3 Những điều kiện xã hội để hình thành thị trường chứng khoán và vai trò
của nó
a) Điều kiện xã hội
Nếu chỉ xem xét thị trường chứng khoán với những biểu hiện đơn giản nhất
là có giao dịch mua bán chứng khoán thì đó là cách nhìn không đầy đủ. Thực tế đã
chỉ ra rằng, thị trường chứng khoán bao giờ cũng có những biểu hiện bề nổi, mang
tính “bộ mặt”, đó là các giao dịch tại thị trường chứng khoán tập trung, các giao
dịch nội bộ chưa phản ánh đầy đủ tính chất của thị trường chứng khoán . Nhưng để
thị trường tập trung có thể vận hành ổn định và bình thường được, cần phải hội đủ
những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Thứ nhất, nền kinh tế của quốc gia có thị trường phải phát triển đến mức độ
nhất định. Xuất phát từ nguồn gốc ra đời của chứng khoán, đó là nhu cầu về vốn
giữa người cần vốn và người có vốn. Mặc dù vậy, nguồn vốn có thể cung và nguồn
vốn cần thiết cho nền kinh tế phải đạt đến giới hạn nhất định. Nếu không đạt đến
các giới hạn đó, các nhà kinh doanh (và kể cả các nhà đầu tư) sẽ không lựa chọn

vốn qua thị trường chứng khoán mà sẽ lựa chọn vốn qua thị trường khác đơn giản
và an toàn hơn (như thị trường tín dụng, thị trường ngoại hội, thị trường bất động
sản). Trong thực tế, đánh giá về tốc độ phát triển nền kinh tế được xem xét ở
những khía cạnh cụ thể khác nhau. Trước hết, thông qua các chỉ sổ phát triển kinh
tế (GDP, GNP); cơ cấu ngành, miền. Chỉ số này phải phản ánh được đó là nền kinh
tế phát triển thực (tức phải xem xét trong mối tương quan với chỉ số giá cả). Các
chuyên gia kinh tế cho rằng, để ra đời thị trường chứng khoán ở các nước đang
phát triển, vấn đề hoạch định nền kinh tế và xem xét tình hình phát triển kinh tế là
rất cần thiết cho sự ổn định thị trường. Thực tế đã cho thấy, đối với thị trường các
nước đang phát triển, vấn đề hoạch định nền kinh tế và xem xét tình hình phát triển
kinh tế là rất cần thiết cho sự ổn định thị trường. Thực tế đã cho thấy rằng, đối với
thị trường các nước đang phát triển, sự biến động về phát triển kinh tế sẽ ảnh
hưởng tức thì đến giao dịch tại thị trường và không loại trừ trường hợp làm vỡ thị
trường. Liên quan đến yêu cầu kinh tế, sự tham gia của các tổ chức kinh tế vào thị
trường là hết sức quan trọng. Các tổ chức kinh tế được xem là những nhà đầu tư có
tổ chức và nhiều tiềm năng hơn là nhà đầu tư riêng lẻ, là đối tượng có nhu cầu
vốn thường xuyên. Sự tham gia của họ vào thị trường sẽ làm cho nguồn vốn giao
dịch tăng, đây chính là yếu tố kích ứng mức sôi động của thị trường mặt khác, tổ
chức kinh tế cũng đồng thời là người có khả năng sử dụng vốn với hiệu suất cao
nhất, là nhà kinh doanh lành nghề. Vì vậy, cần phải có những biện pháp phù hợp
tạo điều kiện cho họ có cơ hội tham gia thị trường. Các tổ chức kinh tế được xem
xét ở đây có thể là doanh nghiệp thông thường, các tổ chức tài chính… Quy mô
vốn, năng lực thực tế của các tổ chức kinh tế quyết định sức thanh khoản và lành
mạnh của thị trường.
Thứ hai, phải có sự ổn định chính trị – xã hội. Thị trường chứng khoán có
độ nhạy cảm cao đối với bất kỳ sự biến đổi hay bất ổn định nào về chính trị, xã hội.
Sự ổn định chính trị- xã hội là tiền đề cho sự ổn định đầu tư; người đứng đầu bộ
máy nhà nước có thể ảnh hưởng tới luồng chu chuyển vốn giữa các ngành và khu
vực kinh tế .Thực tế đời sống chính trị của Hoa Kỳ, Nhật Bản, khu vực Trung Cận
Động, trong những năm qua cho chúng ta rất nhiều bài học về ổn định chính trị và

vai trò của người đứng đầu tổ chức bộ máy nhà nước đối với thị trường chứng
khoán. Sự ổn định không chỉ dừng lại trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn là
sự ổn định về chính trị của quốc gia đó trên trường quốc tế. Sự can thiệp của Tổng
Thống Bush và ngành thép Hoa Kỳ không chỉ gây ra mối quan ngại trong giao dịch
thương mại quốc tế với các quốc gia có xuất khẩu thép vào thị trường Mỹ mà còn
ảnh hưởng rõ nét tời giá chứng khoán ngành thép Hoa Kỳ. Thị trường chứng khoán
ở các quốc gia hình thành từ nhu cầu nội tại. Nếu dùng ngôn ngữ triết học, có thể
nói, nó hình thành theo con đường tiến hoá dần và có nhu cầu hợp lại với nhau, dần
hoàn thiện. Đối với Việt Nam, thị trường chứng khoán được hình thành phụ thuộc
rất nhiều yếu tố từ bên ngoài. Mặc dù có một số yết tố nội tại trong đó, song nó
không hoàn toàn mang yếu tố hình thành tự thân. Đây cũng là yếu tố chi phối tới
pháp luật thị trường chứng khoán Việt Nam và cũng phán ánh vai trò của pháp luật
đối với thị trường chứng khoán nước ta.
b) Vai trò của Thị Trường Chứng Khoán
Chứng khoán và thị trường chứng khoán tồn tại như một tất yếu khách quan
của nền kinh tế thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, xuất phát từ nguồn gốc ra đời của chứng khoán và thị trường
chứng khoán, có thể khẳng định, thị trường chứng khoán là công cụ quan trọng
trong việc huy động vốn trung và dài hạn. Với chi phí thấp, khả năng chủ động
trong việc lựa chọn đối tượng, lượng vốn cần thiết cũng như hình thức huy động
vốn, thị trường chứng khoán có vai trò rất lớn trong việc trợ giúp cho các doanh
nghiệp thu hút, huy động vốn cho hoạt động sản xuất – kinh doanh một cách dễ
dàng. Thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán các quốc gia đã chỉ ra rằng,
thị trường chứng khoán tạo ra sự cạnh tranh với các bộ phận thị trường truyền
thống mà đại diện là thị trường tín dụng. Nếu như trước đây các tổ chức tín dụng là
chỗ dựa tiềm tàng về vốn cho các doanh nghiệp, từ nguồn vốn nhỏ nhất trong thời
gian dài nhất theo nhu cầu, thì đến nay khi nền kinh tế phát triển, thị trường chứng
khoán đã mở ra cơ hội huy động vốn mới cho các doanh nghiệp. Nội dung, hình
thức huy động vốn của doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán rất đa
dạng, không đơn thuần là nguồn vốn vay; bản thân các nguồn vốn kèm theo cam

kết của doanh nghiệp phát hành cũng thể hiện nhu cầu và tính cạnh tranh to lớn.
Không chỉ đóng vai trò là công cụ huy động vốn, thị trường chứng khoán còn là
môi trường đầu tư thuận lợi của công chúng. Thị trường chứng khoán là môi
trường đầu tư lành mạnh với cơ hội lựa chọn phong phú. Những nguồn tiền tiết
kiệm của dân cư được sử dụng với hiệu suất cao nhất thông qua việc lựa chọn các
loại chứng khoán với mức độ an toàn và lưu hoạt khác nhau khiến cho các nhà đầu
tư có thể lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với khả năng và sở thích của mình.
Cũng chính vì sự lựa chọn đó mà bản thân các nhà phát hành cũng được “tính đến”
trong quyết định của nhà đầu tư. Có thể nói, thị trường chứng khoán là một trong
những cơ sở đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của nền kinh tế một cách tổng
hợp (kể cả giá trị hữu hình và giá trị vô hình) thông qua các chỉ số giá chứng khoán
trên thị trường là kết quả của quá trình cạnh tranh, đảm bảo cho hiệu suất sử dụng
vốn của doanh nghiệp nói riêng và của cá nhân nền kinh tế nói chung đạt hiệu quả
cao nhất. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc đánh giá nền kinh tế thông qua thị
trường chỉ thực sự phát huy hiệu quả đối với những thị trường phát triển, hoạt động
ổn định. Đối với những thị trường mới hình thành, mức độ giao dịch còn nhỏ, các
giao dịch vốn truyền thống vẫn còn phổ biến thì vai trò này của thị trường chứng
khoán chưa thực sự phát huy, Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Thứ hai, trường chứng khoán còn là công cụ thực hiện chính sách tài chính
tiền tệ quốc gia và các chính sách vĩ mô khác. Thị trường chứng khoán phản ánh
các giá cả chứng khoán của các doanh nghiệp và các ngành kinh tế. Mức độ giao
động giá chứng khoán cho thấy dấu hiệu tiêu cực. Chính vì vậy, có thể nói rằng thị
trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ hữu hiệu
để Chính phủ điều hành việc thực hiện các chính sách vĩ mô. Thông qua thị trường
chứng khoán, Chính phủ thực hiện “cân đối lại” ngân sách nhà nước bằng việc
phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Đây chính là nội dung quan trọng nhằm
thực hiện chính sách tài chính quốc gia. Việc thực hiện tốt chính sách tài chính
quốc gia tạo căn cứ chắc chắn cho việc ổn định giá trị đồng tiền, là nội dung cơ bản
và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ quốc gia. Chính vì thế, thị trường chứng
khoán tạo môi trường thuận lợi cho Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ quốc

gia. Đối với các quốc gia nền kinh tế thì thị trường chứng khoán còn là nhân tố
thúc đẩy tiến trình đa hình thức sở hữu nền kinh tế. Quá trình cổ phần hoá các
doanh nghiêp nhà nước ở Trung Quốc trong giai đoạn 1993 đến nay đã chỉ ra rằng,
thị trường chứng khoán giúp Chính phủ thực hiện tốt công cuộc cải tổ nền kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khoán đóng vai trò tạo khả năng thanh khoản cho
các chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán của họ thành tiền mặt
hoặc các loại chứng khoán mà họ mong muốn khác tại thị trường. Chính tính thanh
khoan của chứng khoán giúp cho thị trường sôi động, đồng thời cũng là một trong
những yếu tố quyết định mức hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Vì
vậy, bản thân tính thanh khoản và hoạt động của thị trường có mối quan hệ nội tại,
bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả.
Bất kỳ quốc gia nào có thị trường chứng khoán đều phải tính toán sự ảnh hưởng
của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế trong nước. Có thể nói, thị trường chứng
khoán thu hút đầu tư nước ngoài với độ nhậy lớn. Đối với những hình thức đầu tư
tài chính thông qua thị trường có vai trò quan trọng đối với quốc gia đang phát
triển. Vì vậy, nếu thị trường có tính ổn định, môi trường đầu tư thuận lợi, cơ hội
nhận vốn đầu tư nước ngoài sẽ lớn hơn. Điều này lại được phản ánh trong tính
thanh khoản của chứng khoán và những giới hạn đầu tư chứng khoán đối với nhà
đầu tư nước ngoài (kể car nhà đầu tư có tổ chức và đầu tư cá thể). Đối với việc thu
hút đầu tư trực tiếp cũng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa doanh
nghiệp chứng khoán trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh
nghiệm của nhà kinh doanh chứng khoán nước ngoài là những bài học không thể
định giá cho các nhà kinh doanh chứng khoán non trẻ của quốc gia mới có thị
trường. Tuy nhiên, đi đôi với việc xem xét những mặt tích cực của chính sách thu
hút đầu tư nước ngoài, bản thân nó cũng có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế trong
nước nếu có sự lệ thuộc quá lớn vào nguồn vốn nước ngoài. Vì vậy, đối với những
thị trường mới mở, Chính phủ thường có những hạn chế đối với đầu tư nước ngoài
(kể cả đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp).
Thứ tư, thị trường chứng khoán Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với quá
trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp

nhà nước đã tạo điều kiện hết sức quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển của thị
trường sơ cấp cũng như hình thành thị trường thứ cấp ở Việt Nam. Việc phát hành
cổ phiếu của các doanh nghiệp được cổ phần hoá làm sôi động hơn thị trường phát
hành, chuyển hoá phần vốn tiết kiệm trong dân chúng thành vốn kinh doanh. Việc
niêm yết cổ phiếu trên thị trường tập trung làm tăng thêm và sôi động thêm lượng
hàng hoá tại thị trường thứ cấp. Thực tế cho thấy, các cổ phiếu niêm yết tại thị
trường tập trung hiện nay đều là cổ phiếu của các công ty cổ phần hình thành từ
con đường cổ phần hoá. Ngược lại, thị trường chứng khoán cũng có ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, từ giai đoạn cổ phần
hoá đến giai đoạn niêm yết chứng khoán và khi có nhu cầu phát hành chứng khoán
để tăng vốn doanh nghiệp.
Thứ năm , ta sẽ phân tích các yếu tố tác động qua lại của thị trường chứng
khoán trong thị trường tài chính. Hệ thống pháp luật phản ánh chính sách tiền tệ
quốc gia, gây ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tiền của toàn xã hội. Chính sách lãi
suất của Chính phủ làm thay đổi cơ cấu tiền trong lưu thông, làm ảnh hưởng trực
tiếp đến luồng tiền và mức độ giao dịch của các nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán. Lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước đối với
Việt Nam) có ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất thị trường tín dụng (bao gồm cả lãi
suất tiền gửi, lãi suất cho vay, lãi suất tái chiết khấu), đồng thời, kích ứng mức độ
sôi động thị trường chứng khoán (thông qua biến động các chỉ số giá chứng
khoán). Những biến động về lãi suất như vậy sẽ ảnh hưởng tới nguồn cung cấp vốn
cho các nhà kinh doanh trong mở rộng đầu tư và hình thành vốn, làm cho nguồn
vốn được đưa vào đầu tư có chi phí thấp nhất, các bộ phận thị trường tài chính có
mức độ tự cạnh tranh cao nhất. Ngoài ra, thị trường ngoại hối cũng như cán cân
thương mại cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Đối với đồng nội tệ có sức mua ổn định, chỉ số giá chứng khoán có mức độ cân
bằng tương đối so với thị trường nước ngoài sẽ không xảy ra tình trạng luồng tiền
được chuyển ra đầu tư nước khác. Sức mua đối ngoại của đồng tiền ổn định cũng
tạo cho nhà đầu tư chứng khoán an tâm, không có sự chuyển dịch đầu tư từ bộ
phận thị trường này sang bộ phận thị trường khác, xa lánh thị trường chứng khoán

(chẳng hạn từ thị trường chưng skhoán chuyển sang thị trường ngoại hối, thị
trường bất động sản…). Những yếu tố kinh tế như tốc độ tăng trưởn, chính sách
đầu tư của Nhà nước, thay đổi cơ cấu tổ chức hoặc người đứng đầu bộ máy nhà
nước, tác động của các tổ chức tiền tệ quốc tế đều có thể làm biến động thị trường
chứng khoán. Từ những phân tích trên, điều dễ nhận thấy là thị trường chứng
khoán rất nhạy cảm với các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội; việc ổn định và phát
triển các yếu tố đó chính là cơ sở quan trọng để thị trường chứng khoán ổn định và
phát triển. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: “Thúc đẩy sự hình thành, phát
triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện nay chưa có hoặc còn sơ
khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị
trường khoa học và công nghệ”; trong đó xây dựng và phát triển thị trường chứng
khoán – một hình thức chủ yếu trong việc huy động vốn trung, dài hạn nhằm phát
triển nhanh chóng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Do đó, thị trường chứng khoán, nói cách khác, là thị trường vốn trung, dài hạn trực
tiếp; nơi giao dịch, mua bán có tổ chức các chứng khoán trung, dài hạn, do các
công ty, doanh nghiệp và chính phủ phát hành để huy động vốn của công chúng,
phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân.
1.4 Chủ thể của thị trường
Trong thị trường chứng khoán, dù ở giai đoạn phát triển nào và ở bộ phận
nào của thị trường thì cũng tồn tại hai loại chủ thể chủ yếu là nhà phát hành và nhà
đầu tư chứng khoán.
Nhà phát hành là tất cả chủ thể huy động vốn bằng cách bán chứng khoán
cho người đầu tư. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, pháp luật mỗi nước quy định rõ những
đối tượng nào là “nhà phát hành”. ở thị trường, thường là các doanh nghiệp (bao
hàm cả các tổ chức tín dụng) và Chính phủ (bao gồm cả chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương).
Nhà đầu tư chứng khoán những chủ thể có nhu cầu đầu tư bằng cách mua
các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Loại chủ thể đầu tư này rất đa
dạng và đông đảo, mục đích của các nhà đầu cũng không giống nhau. Thường thì,

người ta chia nhà đầu tư thành hai nhóm cơ bản: nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu
tư cá thể. Nhà đầu tư có tổ chức có thể chỉ chiếm số lượng nhỏ so với nhà đầu tư cá
thể nhưng đối tượng này lại có tiềm năng lớn, khả năng phân tích đánh giá chứng
khoán tốt. Nhà đầu tư các thể chiếm tỷ trọng đông đảo về số lượng nhưng lại là đối
tượng thường được quan tâm của nhà quản lý với mục đích bảo về quyền lợi cho
họ. Để tạo ra tính thanh khoản của chứng khoán, hiệu suất sử dụng vốn của nền
kinh tế, các giao dịch thứ cấp được rất nhiều nhà kinh doanh quan tâm và coi đây
là nghiệp vụ kinh doanh chính của mình. Hành vi kinh doanh chứng khoán cũng
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận như hành vi kinh doanh khác, nhưng do đặc
điểm của chứng khoán rất phức tạp và rủi ro lớn mang tính dây truyền, nên chủ thể
thực hiện kinh doanh chứng khoán thường phải đạt những tiêu chuẩn nhất định,
cho dù mỗi quốc gia có thể cho phép tổ chức và cá nhân cùng kinh doanh hoặc chỉ
cho phép tổ chức và cá nhân cùng kinh doanh hoặc chỉ cho phép tổ chức kinh
doanh. Chủ thể kinh doanh chứng khoán thường tồn tại dưới hình thức công ty
chứng khoán hoặc những hình thức cá biệt khác.
Ngoài những chủ thể chủ yếu trên còn có thể có một số đối tượng khác như
các ngân hàng thương mại (tham gia với tư cách là trung gian thanh toán), các đại
lý phát hành chứng khoán….
2. Tiến trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Tại Việt Nam, vấn đề thành lập thị trường chứng khoán từ lâu đã được nhiều
học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Ở miền Nam Việt Nam, từ
tháng 7 năm 1963, bản phúc trình về vấn đề thiết lập thị trường chứng khoán tại
Sài gòn do giáo sư Vũ Quốc Thúc, trưởng khoa Luật, Viện đại học Sài gòn trình
bày đã chỉ rõ sự cần thiết và khả năng hình thành một thị trường chứng khoán ở Sài
gòn. Theo bản phúc trình này, mô hình thị trường chứng khoán của Việt Nam lúc
đầu chỉ cần 10 nhà môi giới với 10 công ty ngoại quốc đang hoạt động ở Việt Nam
như hãng BGI, Công ty kỹ nghệ tơ sợi, Công ty Vĩnh hảo, Công thương ngân
hàng.... Mô hình này sẽ được phát triển và mở rộng dần theo tốc độ phát triển của
nền kinh tế. Đáng tiếc là đề án này bị hoãn lại và bị rơi vào quyên lãng do chính
quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ.Tiếp theo các nỗ lực của chính quyền Ngô Đình

Diệm nhằm hình thành thị trường chứng khoán, ngày 16 tháng 2 năm 1973, Thủ
tướng chính phủ của chính quyền Sài gòn đã ký sắc lệnh số 027 SL/ThT/PC2 về thị
trường chứng khoán và các quy định có liên quan đến ngành môi giới chứng
khoán. Theo sắc lệnh, một Uỷ ban chứng khoán quốc gia sẽ được thiết lập để “điều
chỉnh các thủ tục có liên quan đến hoạt động mua ban, phân phối và bao tiêu chứng
khoán, kiểm soát các hoạt động này trong khuôn khổ bảo vệ các khoản tiền tiết
kiệm của công chúng đầu tư ”. Cơ cấu của Uỷ ban chứng khoán quốc gia bao
gồm: Bộ trưởng Tài chính (Chủ tịch), Thống đốc ngân hàng quốc gia và bốn
chuyên gia kinh tế, tài chính, ngân hàng. Đến tháng 2 năm 1974, các ý tưởng về
vấn đề thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam của ngân hàng quốc gia Việt
Nam. Cũng trong năm này, một công trình nghiên cứu nghiêm túc và tương đối dài
hơi của Tiến sỹ Sidney N. Robbins, giáo sư tài chính học, Đại học Columbia với sự
cộng tác của ông Nguyễn Bích Huệ, trợ lý đặc biệt của Thống Đốc Ngân hàng
quốc gia Việt Nam và ông Charles C. Munroe III, cựu chuyên viên môi giới của
Công ty chứng khoán Sutro & Co đã được công bố. Công việc chuẩn bị triển khai
xây dựng thị trường chứng khoán tại Việt Nam đang được tiến hành khoản trương
thì đến 30/4/1975, Chính quyền Sài gòn sụp đổ. Một lần nữa, đề án thành lập thị
trường chứng khoán phải bị khép lại vì đó là một định chế xa lạ với nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung thời bấy giờ của Việt Nam. Kể từ khi đoạn tuyệt với nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông
Âu, xuất phát từ tầm quan trọng nhiều mặt của thị trường chứng khoán đối với nền
kinh tế thị trường. Chính phủ đã bắt đầu hoạch định chiến lược thiết lập một thị
trường chứng khoán ở Việt Nam. Ngay từ đầu của những năm 1990, nhiều đoàn
công tác của Chính phủ đã được cử đi nghiên cứu, học tập kinh nghiệm xây dựng
thị trường chứng khoán ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Cũng trong
thời gian này, cùng một lúc, chính phủ đã giao cho Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam nghiên cứu, xây dựng đề án hình thành thị trường chứng khoán và
trình chínhphủ xem xét. Trên cơ sở các khuyến nghị của hai đề án của hai ngành
này, vào năm 1994, chính phủ đã thành lập ban chỉ đạo soạn thảo Pháp lệnh về thị
trường chứng khoán gồm đại diện cuả Bộ tài chính, Bộ tư pháp, Ngân hàng Nhà

nước.... để soạn thảo một số văn bản pháp quy có liên quan đến hoạt động giao
dịch chứng khoán trên thị trường. Một năm sau, năm 1995, Chính phủ quyết định
thành lập Ban chuẩn bị tổ chức thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng cho thị trường chứng khoán chỉ
được đẩy nhanh khi vào năm 1996, Chính phủ ban hành nghị định 75/1996/NĐ-CP
thành lập SSC, một tổ chức độc lập, chịu trách nhiệm xây dựng các tiền đề cần
thiết để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Mặc dù, cho
trước thời điểm khai trương, vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau về thời điểm thích
hợp cho sự ra đời của thị trường chứng khoán vì “từ góc độ bảo đảm an toàn và sự
thành công của cuộc thử nghiệm...chưa thể nói các điều kiện đã được chuẩn bị là
hoàn chỉnh và đầy đủ”, ngày 20 tháng 7 năm 2000, Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSTC) – mô hình thủ nghiệm, bước đệm cho Sở
giao dịch chứng khoán Việt Nam (VSE) trong tương lai - đã được chính thức khai
trương, đánh dấu một bước khởi đầu quan trọng trong tiến trình hình thành và phát
triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
a) Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường chứng
khoán
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc
đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời
điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM)
với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào
năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng
chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã
mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001
xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001.Trong 4 tháng “hoảng loạn”
này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường với lời nguyền không bao
giờ quay lại thì một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và
tiếp tục kiếm được lợi nhuận. thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có

300 điểm, mức thấp nhất xuống đến130 điểm. Lý do chính là ít hàng hoá, các
doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà đầu tư trong
nước, trong khi "room"cũng hết.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN)
chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ
lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực
ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự
quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa
tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế
cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005,
tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69%
tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 4.500 tỷ
đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng trái phiếu
chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao dịch.
Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp đôi so
với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so với GDP
của cả nước đạt gần 1%.
b) Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với
hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung
tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường
chứng khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế
giới, chỉ sau Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày
càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Không thể phủ nhận năm 2006
vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam non trẻ này đã có “màn trình diễn” tuyệt
vời và có thể sẽ không bao giờ có lại được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần

trong vòng 1 năm. Năm 2006 ,TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số
Vn-Index tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại
sàn giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng 152,4%
Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so
đầu năm Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP)
giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD,
chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường.
Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ
phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị trường phi tập
trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên
Hastc.
Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193
công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với
6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300
điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở
nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những
người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện
tượng “bong bóng” là có thật.
Mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng
12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) Đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư
mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12-2006, có trên
120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản
của nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với
HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số
VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây
là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng.
Tính đến phiên 29/12/2006, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã có sự
góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm

yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Còn tại Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái
phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng. Xét
riêng về mức vốn hoá cổ phiếu, toàn bộ thị trường chứng khoán chính thức Việt
Nam với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, tương
đương với 13,8 tỷ USD.
c) Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị
trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế.
Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm
HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên
giao dịch có nhiều biến động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ giao
động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm, Hastc-
Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được
mức tăng trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào
cuối năm 2006.
Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên
giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương
với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng
và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2
triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng.
TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối
lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng
giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và
15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh
khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006
chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.
Các giai đoạn phát triển của thị trường :

Nhìn nhận khách quan từ góc độ thị trường, bên cạnh những thành công,
TTCK qua một năm hoạt động cũng ghi lại dấu ấn cho những giai đoạn thăng trầm
nhất định khi thị trường trải qua những biến động trồi sụt thất thường: giai đoạn thị
trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trường bắt đầu hạ nhiệt và điều chỉnh
mạnh vào 5 tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt phục hồi trước khi đi vào thoái
trào trong 4 tháng cuối năm .
• Giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007:
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn
giao dịch đều lập kỷ lục: chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7
năm hoạt động và Hastc – Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt
động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn
nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị
trường trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị vốn
hóa 492.900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã chiếm tỷ
trọng 4/5. Nhưng điều quan trọng góp phần gia tăng giá trị vốn hóa của thị trường
không phải do số lượng chứng khoán niêm yết gia tăng mà do yếu tố giá cổ phiếu
tăng mạnh.
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng
loạt các cổ phiếu từ Blue – chip, Penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên
sàn… tất cả đều đạt mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu
năm, trong đó có những cổ phiếu đạt mức tăng trưởng trên 100% như: STB
(113,57%), REE (122,66%), ACB (197%),…. Rất nhiều mã CP thiết lập mức giá
đỉnh kể từ khi lên sàn trong giai đoạn này như: SJS(728.000 đ/CP),FPT(665.000 đ/
CP),DHG(394.000đ/CP),REE(285.000đ/CP),SSI(255.000đ/CP),SAM(250.000đ/C
P),KDC(246.000đ/CP)VNM(212.000đ/CP),ACB(292.000đ/CP)…
Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này
phải kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch
trung bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn HCM, bình
quân mỗi phiên giá trị giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN cũng đạt con số

300 tỷ đồng.
• Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ Tháng 4/2007 đến đầu Tháng 9/2007
Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm
soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá
nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt điều chỉnh
rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong một khoảng thời
gian rất dài (từ cuối Tháng 3 đến đầu Tháng 9). Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận
sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và HASTC, tất cả các yếu tố của thị trường đều
giảm sút nghiêm trọng. VNIndex chỉ trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi xuống
mức 905,53 điểm (24/04/2007), giảm tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3.
Hastc – Index trở về mốc 321,44 điểm (24/04/2007), giảm 30% so với mức đỉnh.
Thị trường đã mất điểm quá nhanh trong 1 thời gian ngắn khiến giá giao dịch của
các cổ phiếu đã trở về gần mức giá thiết lập vào đầu năm.
Trong giai đoạn này, thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối
Tháng 5/2007 khi VNIndex quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23/05/2007). Nhưng
do tác động tâm lý quá mạnh của các chính sách kiềm chế thị trường trước đó như
Chỉ thị 03, Luật thuế thu nhập cá nhân,…., thị trường nhanh chóng trở lại trạng
thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn đầu Tháng 8, thị
trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VNIndex (6/8/2007) và 247,37 điểm của
Hastc - Index (23/08/2007).
Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu Tháng 8), sàn HCM có
những phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày
30/07/2007 chỉ có 3.296.340CP được giao dịch), sàn HN cũng chỉ có vẻn vẹn
600.000 CP được chuyển nhượng thành công (ngày 8/8/2007 khớp lệnh 603.100
CP).
Giai đoạn này, các NĐTNN cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của
khối này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình quân của
khối NĐTNN trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so
với giai đoạn đầu năm.

• Giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm
Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian
đầu tháng 9 đến cuối Tháng 10/2007. Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục
hồi nhanh chóng, đặc biệt là các mã cổ phiếu blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại
được những gì đã mất trong 6 tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu
không đủ mạnh để đưa các cổ phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3.
Trong giai đoạn này, VNIndex đã có những phiên giao dịch vượt lên trên
ngưỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào ngày 3/10/2007), Hastc – Index cũng gần
chạm trở lại ngưỡng 400 điểm (393,59 điểm ngày 01/10/2007).
Đà tăng giá của các cổ phiếu trong giai đoạn này thể hiện rõ nét nhất ở nhóm
các cổ phiếu blue – chip như DHG, FPT, VIC… tại HOSE và nhóm cổ phiếu Sông
Đà: S99, SDA, S91…. tại HASTC. Lượng giao dịch bình quân phiên tại HOSE
luôn ở trên mức 10 triệu CP (phiên giao dịch kỷ lục đạt 19.047.000 CP vào ngày
01/10/2008), sàn HASTC cũng đạt lượng giao dịch bằng 1/2 sàn HOSE với trung
bình phiên có 5 triệu CP được chuyển nhượng.
Tuy nhiên, Thị trường sau một đợt phục hồi đã nhanh chóng điều chỉnh giảm
vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng có các
đợt phục hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy nhiên sự phục
hồi này không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ sau 1 phiên
tăng điểm. Chính điều này đã dẫn tới việc các nhà đầu tư bị đọng vốn,. Trong khi
nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt, thì nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng. Tương quan
cung cầu mất cân bằng khiến thị trường ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối
lượng giao dịch và giá trị giao dịch. VNIndex giảm xuống dưỡi ngưỡng điểm
1.000 và chỉ xoay quanh mốc 900 điểm, với lượng chứng khoán chuyển nhượng rất
hạn chế.
d) Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt
Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh. Nhìn lại thị trường sau 01 năm
giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường
Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi
xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can

thiệp của các c ơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.Tính từ đầu
năm đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai đoạn chính.
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc
Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh
doanh hiệu quả và việc bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã CPH, chưa kể hàng
loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ
phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường CK có nguy cơ thừa
"hàng".
• Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác động
từ tác động của kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và
trở thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa
đầu năm 2008.
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu
xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính
sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp
từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều
hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:
(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) NHTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn
hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác
động tới tâm lý các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới
71 phiên VNIndex giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN Index giảm điểm
liên tiếp từ giữa tháng 04 đến đầu tháng 06/2008. Sau 103 phiên giao
dịch,VNIndex giảm mất 550,52 điểm- tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi
phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu CP&CCQ được chuyển nhượng, tương đương

khoảng 482 tỷ đồng.
Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là
nhóm cổ phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các
doanh nghiệp BĐS).
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can
thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng cộng
trong năm 2008, UBCKNN đ ã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả 2
sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm
mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19
giải pháp ứng cứu thị trường:
Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường,kêu gọi và tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ.... Sự tăng trưởng nóng trong
năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm đã đưa đến những dấu hiệu bất ổn
về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng băt đầu gia tăng với mức trung bình
2,07%/tháng trong 02 cuối năm 2007. Tiếp nối xu thế này, trong quý I/ 2008, chỉ
số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân 3,06%/tháng và đạt đỉnh vào tháng
05/200822 với mức tăng 3,91%. Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa
số thời điểm, lương thực được coi là yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính
đến tháng 06, giá lương thực đã tăng 57,22% so v ới tháng 12/2007.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến
động mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị tr ường hàng hóa và thị trường
tiền tệ Việt Nam tiếp tục có những biến động mạnh.
Trên thị trường hàng hóa, xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm
soát của Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ
NHNN và NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động sức ép từ
lạm phát, l ãi suất từ các NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao động từ 16 -
18% đối với huy động tiền gửi và 20-21% đối với các khoản vay. Đặc biệt các sản
phẩm huy động vốn với kỳ hạn ngắn, lãi suất cao là tiêu điểm của hệ thống NH
trong giai đoạn này. Sự căng thẳng về thanh khoản và sự xáo trộnvề dòng chảy của
tiền gửi huy động là nỗi lo của các NHTM trong giai đoạn này. Thâm hụt thương

mại cao nhất vào trong năm tháng đầu năm với mức trung bình là khoảng 2,6 tỷ
USD/tháng.
Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008
với mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm h ụt thương mại. Các chính sách chủ yếu
được thực hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ bản và thắt
chặt đầu tư công để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường.
• Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 - Phục hồi trong ngắn hạn
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…
và đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác n ước ngoài, cả hai sàn chứng khoán
đã có được những phi ên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này.
VNIndex và Hastc-Index liên ti ếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan
trọng và thường xuyên có đư ợc những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là giai
đoạn thị trư ờng hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao
dịch và giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. VNIndex tăng được 168,55
điểm, tương đương 45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16,9 triệu
CP&CCQ, tương đương 599,18 tỷ đồng/phiên.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu
dầu khí (tăng 80,33%), nguyên vật liệu v à công nghệ (tăng 89,78%). Các đại diện
tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu n ày bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT…
• Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm
do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy
thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này,
VNIndex m ất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình
đạt 15,82 triệu CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan
tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế giảm
điểm của TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HoSE và HaSTC liên tiếp
giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HoSE, 49 phiên VNIndex mất điểm.

×