Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO TỈNH HẢI DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.56 KB, 38 trang )

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ NHẰM TĂNG CƯỜNG
THU HÚT FDI VÀO TỈNH HẢI DƯƠNG
1. Vài nét về tỉnh Hải Dương
Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lý: Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm Vùng đồng bằng Sông Hồng, thuộc
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, giữa Hà Nội - Hải Phòng – Quảng Ninh, có ranh giới
tiếp giáp với các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên và
thành phố cảng Hải Phòng.
Địa hình: nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Đông của tỉnh có
một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng của thuỷ triều và bị úng ngập vào mùa mưa.
Toàn tỉnh được chia làm 2 vùng chính: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi
nằm ở phía Bắc tỉnh, chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí
Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn, chủ yếu là đồi, núi thấp phù hợp với xây dựng
các cơ sở công nghiệp, du lịch và trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và các loại cây công
nghiệp. Vùng đồng bằng gồm các huyện, xã còn lại, có độ cao trung bình 3-4m, đất đai
bằng phẳng màu mỡ phù hợp với việc trồng cây lương thực, cây thực phẩm và cây công
nghiệp ngắn ngày. Với địa hình này, Hải Dương có khả năng phát triển mạnh mẽ và đa
dạng các ngành sản xuất, nhất là sản phẩm nông, lâm nghiệp.
Khí hậu: Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ
rệt. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.500 – 1.700 mm, phân bố không đều, tập trung
vào tháng 6, 7, 8, dễ gây úng lụt, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và dân sinh. Nhiệt
độ trung bình 23,3oC, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng; số giờ nắng trong năm 1.524
giờ; độ ẩm tương đối trung bình 85-87%. Nhìn chung, khí hậu thời tiết của tỉnh thuận
lợi cho sự phát triển hệ sinh thái động thực vật cũng như các hoạt động sản xuất, dịch
vụ và du lịch. Đặc biệt, điều kiện khí hậu vào mùa đông rất thuận lợi cho việc phát triển
cây rau, màu, thực phẩm, nhất là khả năng trồng rau xuất khẩu.
Hải Dương có 12 đơn vị hành chính: thành phố Hải Dương là đô thị loại 3 và 11
huyện gồm Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn, Kim Thành, Thanh Hà, Ninh Giang, Gia
Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Cẩm Giàng, Bình Giang.
Vị trí địa lý kinh tế - chính trị của tỉnh Hải Dương
Thành phố Hải Dương là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá khoa học kỹ thuật của


tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 5 cách Hải Phòng 45 km về phía đông, cách Hà Nội
57 km về phía tây và cách Thành phố Hạ Long 80 km. Phía Bắc tỉnh có hơn 20 km
quốc lộ 18 chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra cảng Cái Lân tỉnh Quảng Ninh.
Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, Kép – Bãi Cháy qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô
và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển.
Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí
có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng, Hải Dương có vai trò quan trọng làm cầu
nối thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du lịch Hạ Long; cung cấp
sản phẩm hàng hoá quan trọng và là địa bàn tham gia quá trình trung chuyển hàng hoá
giữa hệ thống cảng biển và các thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước, do vậy, vừa
có cơ hội đóng vai trò là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các
thách thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế.
Trong triển vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển
công nghiệp, dịch vụ, thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố
lớn và trở thành một trong các đô thị lơn của vùng.
Tài nguyên thiên nhiên
- Tài nguyên khoáng sản:
Hải Dương có nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho phát triển ngành công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như đá vôi với trữ lượng khoảng 200 triệu tấn, đất sét
để sản xuất vật liệu chịu lửa 8 triệu tấn; cao lanh là nguyên liệu chính để sản xuất gốm
sứ 400.000 tấn; quặng bô xít để sản xuất đá mài và bột mài công nghiệp trữ lượng
200.000 tấn, tập trung chủ yếu ở hai huyện Chí Linh và Kinh Môn.
Tài nguyên khoáng sản của Hải Dương không đa dạng về chủng loại, nhưng có một
số trữ lượng lớn, chất lượng tốt, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu phát triển công
nghiệp; đặc biệt là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
+ Đá vôi xi măng ở huyện Kinh Môn, trữ lượng 200 triệu tấn, chất lượng tốt, CaCO
3
đạt 90 - 97%. Đủ sản xuất 5 đến 6 triệu tấn xi măng/ năm.
+ Cao lanh ở huyện Kinh Môn, Chí Linh trữ lượng 40 vạn tấn, tỷ lệ Fe
2

O
3
: 0,8 -
1,7%; Al
2
O
3
: 17 - 19% cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất sành sứ.
+ Sét chịu lửa ở huyện Chí Linh, trữ lượng 8 triệu tấn, chất lượng tốt; tỷ lệ Al
2
O
3
từ
23,5 - 28%, Fe
2
O
3
từ 1,2 - 1,9% cung cấp nguyên liệu sản xuất gạch chịu lửa.
+ Bô xít ở huyện Kinh Môn, trữ lượng 200.000 tấn; hàm lượng Al
2
O
3
từ 46,9 -
52,4%, Fe
2
O
3
từ 21 - 26,6%; SiO
2
từ 6,4 - 8,9%.

- Tài nguyên đất:
Hải Dương có tổng diện tích tự nhiên là 1.662 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm
63,3%; đất lâm nghiệp chiếm 6,08%; đất canh tác 46,2%; đất ở 6,87%; đất chưa sử
dụng 7,47%. Toàn tỉnh được chia làm hai vùng chính: vùng đối núi chiếm khoảng 11%,
còn lại là đồng bằng.
- Tài nguyên nước:
Hệ thống sông ngòi khá dầy đặc, bao gồm hệ thống sông Thái Bình, Sông Luộc, các
sông trục Bắc Hưng Hải và An Kim Hải, có khả năng bồi đắp phù sa cho đồng ruộng,
cung cấp nguồn nước cho nhu cầu sản xuất của các ngành, đồng thời cũng là những
tuyến giao thông thuỷ, tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá trong tỉnh, cũng như
giữa tỉnh Hải Dương với các tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sông ngòi nhiều thường
gây nên úng lụt, rất khó khăn trong việc phòng chống lụt bão và ảnh hưởng không nhỏ
đến sản xuất, đời sống dân sinh.
- Tài nguyên du lịch:
Tài nguyên du lịch trên địa bàn tỉnh khá phong phú, nhất là trên hai huyện miền núi
phía Đông Bắc tỉnh là Chí Linh và Kinh Môn. Chí Linh có nhiều cảnh quan đẹp, nhiều
hồ nước tự nhiên, nhiều di tích, di chỉ văn hoá: Khu danh thắng Phượng Hoàng - Kỳ
Lân, Khu du lịch danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc…Kinh Môn thuộc vùng núi đá vôi
với nhiều hang động kỳ thú: Núi An Phụ, Hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi
Dương Nham.
Các huyện thuộc vùng đồng bằng cũng có tiềm năng du lịch phong phú nhờ có cảnh
quan thiên nhiên hấp dẫn, làng quê trù phú, mang đậm nét đặc trưng của văn hoá Bắc
Bộ: khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà, Làng Cò (Chi Lăng Nam) Thanh Miện, Văn
miếu (Mao Điền), gốm Chu Đậu…
Trên địa bàn tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hoá cách mạng, các làng nghề, các lễ
hội truyền thống, ẩm thực, các giá trị truyền thống và hiện tại khác làm phong phú thêm
nguồn tài nguyên du lịch của Hải Dương, tạo tiền đề phát triển ngành du lịch thành một
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong tương lai.
Dân số và lao động
Tổng dân số hiện nay của tỉnh vào khoảng 1,7 triệu người, trong đó trên 60% là

trong độ tuổi lao động. Dân số nông thôn chiếm tỷ trọng cao (84,5% tổng dân số), chủ
yếu làm nông nghiệp, lao động trong độ tuổi từ 18-30 chiếm trên 40% tổng số lao động.
Nguồn lao động dồi dào nhưng phần lớn là lao động phổ thông chiếm 60- 65%, tỷ lệ lao
động qua đào tạo thấp chiếm 23%, năng suất lao động không cao: Năm 2004 bình quân
giá trị GDP thực tế trên một lao động (LĐ) chung toàn nền kinh tế là 12934 ngàn
đồng/LĐ (cả nước khoảng 14300 ngàn đồng/LĐ). Như vậy, năng suất lao động chung,
theo sơ bộ tính toán, là tương đối thấp so với cả nước.
Thời gian sử dụng lao động trong nông nghiệp chiếm 78% (năm 2004). Cơ hội kiếm
việc làm có thu nhập cao và điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc còn hạn chế.
Chất lượng lao động nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu phát triển: tỷ lệ được đào tạo
thấp, thể lực, trí lực, tính kỷ luật, tác phong công nghiệp còn hạn chế. Lao động có việc
làm và đang làm việc ở các ngành trong nền kinh tế quốc dân tăng khá, song cơ cấu còn
bất hợp lý.
Hệ thống cơ sở hạ tầng
Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho
kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.
- Hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt; phân bố hợp lý,
giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh.
Đường bộ: có 4 tuyến đường quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I, cho 4
làn xe đi lại thuận tiện:
Quốc lộ 5 từ Hà Nội đi thành phố cảng Hải Phòng, chạy ngang qua tỉnh 44 km, đây
là đường giao thông chiến lược; vận chuyển toàn bộ hàng hoá xuất nhập khẩu qua cảng
Hải Phòng và nội địa.
Quốc lộ 18 từ Nội Bài qua Bắc Ninh đến tỉnh Quảng Ninh. Đoạn chạy qua huyện
Chí Linh tỉnh Hải Dương dài 20 km.
Quốc lộ 183, nối quốc lộ 5 với quốc lộ 18, quy mô cấp I đồng bằng
Quốc lộ 37 dài 12,4 km, đây là đường vành đai chiến lược quốc gia, phục vụ trực
tiếp cho khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc.
Quốc lộ 38 dài 14 km là đường cấp III đồng bằng.
Đường tỉnh: có 13 tuyến dài 258 km là đường nhựa tiêu chuẩn cấp III đồng bằng

Đường huyện: có 352,4 km và 1448 km đường xã đảm bảo cho xe ôtô đến tất cả các
vùng trong mọi mùa.
Đường sắt: Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5, đáp ứng vận
chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh.
Tuyến Kép – Bãi Cháy chạy qua huyện Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng
lâm nông thổ sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân, cũng
như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh.
Đường thuỷ: với 400 km đường sông cho tầu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng. Cảng
Cống Câu công suất 300.000 tấn/năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hóa
bằng đường thuỷ một cách thuận lợi.
Hệ thống giao thông trên đảm bảo cho việc giao lưu kinh tế từ Hải Dương đi cả
nước và nước ngoài rất thuận lợi.
- Hệ thống điện:
Trên địa bàn tỉnh có Nhà máy nhiệt điện Phả Lại công suất 1040 Mw; hệ thống điện
lưới khá hoàn chỉnh, đảm bảo cung cấp điện an toàn và chất lượng ổn định; trên địa bàn
tỉnh có 5 trạm biến áp 110/35 Kv tổng dung lượng 197 MWA và 11 trạm 35/10 kV, các
trạm phân bố đều trên địa bàn tỉnh. Lưới điện 110, 35 kV đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật,
phục vụ tốt cho nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt.

×