Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.25 KB, 24 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng Ngân hàng thương mại
* Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, phản
ánh mối quan hệ vay và trả nợ giữa một bên là ngân hàng và một bên là các chủ thể
kinh tế khác nhau trong xã hội. Ngân hàng chuyển giao tiền hoặc tài sản cho khách
hàng sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định thông qua các nghiệp vụ như cho
vay, chiết khấu, bảo lãnh,… Khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi
đúng hạn theo cam kết trong hợp đồng tín dụng.
* Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
- Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng là trung gian tài chính, đứng giữa thực hiện
nhiệm vụ huy động vốn từ chủ thể có vốn nhàn rỗi và cho vay các chủ thể khác đang có
nhu cầu về vốn.
- Đối tượng cho vay của tín dụng ngân hàng là tiền tệ. Vốn được cho vay ở các
quy mô khác nhau với thời hạn tín dụng mang tính linh hoạt cao gồm ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn.
- Tín dụng ngân hàng với các hình thức đa dạng từ cho vay, bảo lãnh, chiết khấu,
… đã hỗ trợ và khắc phục nhiều hạn chế của tín dụng thương mại.
1.1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
1.1.2.1. Tín dụng phân theo hình thức tài trợ
 Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng ngắn hạn, theo đó ngân hàng ứng
trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập
của ngân hàng để sở hữu thương phiếu chưa đến hạn.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa
ngân hàng và người ký tên trên thương phiếu. Ngân hàng thường ký với khách hàng
hợp đồng chiết khấu, khi cần chiết khấu, khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân
hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng thương phiếu và thực hiện chiết
khấu. Ngoài ra, ngân hàng có thể tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu


cầu thanh khoản với chi phí thấp.
 Cho vay
Cho vay là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng giao cho khách hàng một
khoản tiền với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian
xác định.
Nghiệp vụ cho vay bao gồm các hình thức:
- Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là
hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có đảm bảo,…
thường được sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều, kỳ thu nhập
ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều
kiện để cấp hạn mức thấu chi. Đây là nghiệp vụ cho vay tương đối đơn giản, ngân hàng
có thể kiểm soát từng món vay tách biệt, tiền cho vay dựa vào giá trị của TSĐB.
- Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng thoả thuận cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng, có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Hạn mức tín dụng
được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và vay vốn của
khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện đối với những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia nhiều vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Cho vay luân chuyển: là hình thức tín dụng dựa trên sự luân chuyển của hàng
hoá. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng khi thiếu vốn để mua hàng và ngân hàng
sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Việc cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng
hoá nên cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng
hoá, để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Cho vay luân chuyển thường áp
dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp, sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày,
có quan hệ vay mượn thường xuyên với khách hàng.
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng
trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận, được áp dụng đối với các

khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định, hàng lâu bền hoặc cho vay
tiêu dùng. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá
mua trả góp nên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất cho vay
của ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian và
thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, xa
ngân hàng để có thể giảm bớt rủi ro, tiết kiệm chi phí cho vay.
 Cho thuê tài sản
Trong nhiều trường hợp, khách hàng không đủ điều kiện vay vốn, để mở rộng tín
dụng, ngân hàng đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng
thuê. Trong nghiệp vụ cho thuê, ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng
và sau một thời gian nhất định phải thu đủ gốc và lãi. Tài sản cho thuê thường là tài sản
cố định. Cho thuê được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. Khách hàng phải trả gốc và
lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kỳ.
 Bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng trong trường hợp
khách hàng không thực hiện được đúng nghĩa vụ như cam kết. Khách hàng phải nhận
nợ và hoàn trả cho ngân hàng số nợ đã được trả thay. Đây là hình thức tài trợ của ngân
hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua hàng hoá
hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín và được coi là tài sản ngoại bảng
do ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, mà chỉ đảm bảo bằng uy tín cho
bên được bảo lãnh và nhận một khoản phí bảo lãnh. Chỉ khi khách hàng không thực
hiện được cam kết, ngân hàng mới phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba.
Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá
hạn. Do vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng rủi ro như các khoản cho vay và đòi hỏi ngân
hàng phân tích khách hàng như khi cho vay.
1.1.2.2. Tín dụng phân theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, vì thời gian

liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả
của khách hàng.
Theo thời gian, tín dụng được chia thành:
Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động.
Tín dụng trung hạn: từ 1 đến 5 năm, tài trợ cho tài sản cố định.
Tín dụng dài hạn: trên 5 năm, tài trợ cho những công trình xây dựng, máy móc
có thời gian sử dụng lâu.
1.1.2.3. Tín dụng phân theo hình thức đảm bảo
Phân theo hình thức đảm bảo thì tín dụng được chia thành:
Tín dụng không có đảm bảo: tín dụng không cần TSĐB có thể được cấp cho các
khách hàng có uy tín, tình hình tài chính vững mạnh hoặc có món vay tương đối nhỏ so
với vốn của người vay.
Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố: ngân hàng và khách hàng
phải ký hợp đồng đảm bảo và ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của
TSĐB.
Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo nhưng ngân
hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ
khi khách hàng không trả được nợ. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín
dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu, sử dụng hoặc khả năng trả nợ của
người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
1.1.2.4. Tín dụng phân theo rủi ro
Ngân hàng cần nghiên cứu mức độ, căn cứ để chia loại rủi ro và phân loại rủi ro,
giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại các khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các
khoản tín dụng có rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ- NHNN, nợ được chia thành 5 nhóm:
Tín dụng lành mạnh: nợ đủ tiêu chuẩn
Tín dụng có vấn đề: các khoản nợ cần chú ý
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: nợ dưới tiêu chuẩn
Nợ quá hạn khó đòi: nợ nghi ngờ
Nợ không thể thu hồi được: nợ có khả năng mất vốn.

1.2. Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại
1.2.1. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại
Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế của các nước trên thế giới
đang diễn ra không ngừng, các quốc gia vận động trong mối tương quan chặt chẽ, vì
vậy, XNK trở thành hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản, là phương tiện để phát triển
kinh tế. Thị trường thương mại thế giới mở rộng, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng
hoá, thị trường đầu tư đang trở nên cấp bách đối với các doanh nghiệp XNK. Do khả
năng tài chính có hạn, không phải lúc nào các doanh nghiệp XNK cũng có đủ tiền để
thanh toán hàng NK hoặc có đủ vốn để thu mua, chế biến hàng XK, từ đó nảy sinh quan
hệ vay mượn và tài trợ của ngân hàng. Xuất phát từ nhu cầu được tài trợ về tài chính
của các doanh nghiệp XNK mà tín dụng tài trợ XNK ra đời. Có thể nói sự ra đời của tín
dụng tài trợ XNK là một yêu cầu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với nhau.
* Khái niệm
Tín dụng tài trợ XNK của NHTM là hình thức tài trợ thương mại của ngân hàng
nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính và uy tín của các doanh nghiệp XNK trong quá trình
giao dịch ngoại thương.
Khi thực hiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK, các NHTM sẽ cấp vốn cho người
đi vay là các doanh nghiệp XNK và sau một thời gian nhất định, người đi vay phải hoàn
trả cho ngân hàng cả gốc và lãi. Hoạt động này có kỳ hạn gắn liền với thời hạn thực
hiện thương vụ và giá trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn.
Tín dụng tài trợ XNK tại các NHTM dựa vào 3 nguyên tắc cơ bản:
- Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo.
1.2.2. Vai trò của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Tín dụng tài trợ XNK đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của hoạt động ngoại thương nói riêng và sự phát triển kinh tế đất nước nói chung.
a) Đối với ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng tài trợ XNK của các NHTM là hoạt động tín dụng mang

lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn
nhanh vì:
- Thời gian tài trợ ngắn hạn do gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ của
các doanh nghiệp XNK. Đối với nhà XK, thời gian thực hiện thương vụ là kể từ lúc
gom hàng, xuất hàng đi cho đến lúc nhận được tiền thanh toán của người mua. Còn đối
với nhà NK, thời gian này tính từ lúc nhận hàng tại cảng đến khi bán hết hàng và thu
tiền về. Kỳ hạn tài trợ ngắn phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các NHTM, do đó
giúp ngân hàng tránh được rủi ro về thanh khoản.
- Tài trợ XNK nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu
các nguồn thanh toán. Đối với nhà XK, khi ngân hàng chuyển bộ chứng từ giao hàng để
đòi tiền nhà NK đã chỉ định việc thanh toán tiền hàng phải thông qua tài khoản mở tại
ngân hàng. Đối với nhà NK, trong trường hợp có tài trợ, ngân hàng sẽ buộc nhà NK
phải tập trung tiền hàng vào tài khoản mở tại ngân hàng. Vì vậy, nguồn thu để trả các
khoản tài trợ được ngân hàng quản lý chặt chẽ, tránh tình trạng quay vòng vốn của
doanh nghiệp trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy ra rủi ro.
- Ngân hàng sẽ đảm bảo vốn tài trợ được sử dụng đúng mục đích do đồng vốn
tài trợ gắn liền với thương vụ. Trong nhiều trường hợp, vốn tài trợ được thanh toán trực
tiếp cho bên thứ ba mà không qua bên xin tài trợ như thanh toán tiền nguyên vật liệu
cho các đại lý gom hàng, thanh toán tiền hàng NK,…nên tránh được tình trạng người
yêu cầu tài trợ sử dụng vốn sai mục đích, giúp ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng.
- Hoạt động tín dụng tài trợ XNK mang lại nguồn thu lớn từ lãi và phí dịch vụ
cho ngân hàng do các khoản vay thường có giá trị ở mức vừa và lớn. Ngoài ra, thông
qua tài trợ XNK, các NHTM còn mở rộng được quan hệ với các doanh nghiệp và ngân
hàng nước ngoài, nâng cao uy tín trên trường quốc tế.
b) Đối với doanh nghiệp
- Tín dụng tài trợ XNK giúp doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ đòi
hỏi nguồn vốn lớn khi mà doanh nghiệp không đủ khả năng về mặt tài chính để thực
hiện.
- Tài trợ XNK làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp
đồng. Đối với doanh nghiệp XK, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời

vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Còn đối với doanh nghiệp NK, vốn
tài trợ sẽ giúp doanh nghiệp có thể mua được những lô hàng lớn.
- Nhờ có sự tài trợ của ngân hàng, các doanh nghiệp có thể NK máy móc, thiết bị
hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, dây chuyền sản xuất, chế biến hàng XK với
công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, hạ giá thành sản
phẩm, tạo khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập và kinh doanh có lãi.
- Tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên thị
trường quốc tế, tạo niềm tin về năng lực thực hiện hợp đồng đối với các đối tác do có
sự hỗ trợ vốn từ phía các ngân hàng.
c) Đối với nền kinh tế
- Tín dụng tài trợ XNK của NHTM tạo điều kiện cho hàng hoá XNK theo yêu
cầu của thị trường được lưu thông thuận tiện, liên tục góp phần tăng tính năng động của
nền kinh tế, ổn định thị trường.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở
rộng quy mô, từ đó tạo việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho nền
kinh tế, đồng thời hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước.
- Tín dụng tài trợ XNK góp phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế cả về mặt
lượng và chất. Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng XNK nói riêng tác động trực
tiếp đến quan hệ tích luỹ- tiêu dùng, đầu tư- tiết kiệm, từ đó tác động đến tăng trưởng
kinh tế. Thông qua hoạt động huy động vốn và cho vay, tín dụng XNK đã tạo vai trò
quan trọng trong việc khai thác các nguồn lực xã hội một cách hiệu quả nhất.
1.2.3. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
1.2.3.1 Cho vay trên cơ sở hối phiếu
a) Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu
Khi thoả thuận giữa các bên tham gia XNK chấp nhận có các hối phiếu kỳ hạn
không huỷ ngang, khi chưa đến hạn thanh toán, nhà XK có thể mang hối phiếu đến
ngân hàng xin chiết khấu. Bản chất của nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ
tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển quyền sở hữu hối
phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu trừ
đi lãi chiết khấu và hoa hồng chiết khấu.

Thông qua loại hình tín dụng này, ngân hàng đã tạo điều kiện cho nhà XK có thể
nhận được tiền trước khi hối phiếu đến hạn thanh toán, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ
cho quá trình tái sản xuất. Đây chính là khoản vốn nhà XK cần bù đắp vì trước đó đã
cung ứng một khoản tín dụng thương mại cho nhà NK.
Đặc trưng của nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu là ngân hàng sẽ khấu trừ tiền lãi
ngay khi chiết khấu và chỉ chuyển cho khách hàng số tiền còn lại. Khối lượng tín dụng
cấp cho nhà XK (giá trị chiết khấu) được ngân hàng xác định theo công thức:
T
CK
= M ( 1- L
CK
/ 3600 x t ) – P
Trong đó:
T
CK
: giá trị chiết khấu
M: mệnh giá hối phiếu
L
CK
: lãi suất chiết khấu (theo năm)
t: thời gian chiết khấu (theo ngày)
P: lệ phí
Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ tiến hành đòi tiền người có nghĩa
vụ trả tiền hối phiếu.
b) Chấp nhận hối phiếu
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận
thanh toán hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này là nhà NK và tín dụng chấp nhận
hối phiếu sử dụng trong trường hợp bên XK thiếu tin tưởng vào khả năng thanh toán
của bên NK và cần một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu. Nếu ngân hàng
đồng ý có nghĩa ngân hàng đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho bên NK để thanh

toán tiền hàng cho bên XK khi hối phiếu đến hạn.
Nếu đến hạn thanh toán hối phiếu, bên NK có đủ tiền thì ngân hàng không phải
ứng tiền ra, như vậy khoản tín dụng này chỉ là hình thức, là sự đảm bảo về tài chính cho
bên NK và ngân hàng chỉ nhận được một khoản lệ phí. Tuy nhiên, nếu đến hạn thanh
toán mà bên NK không đủ khả năng thanh toán thì ngân hàng chấp nhận hối phiếu phải
trả nợ thay.
Hối phiếu với sự chấp nhận của ngân hàng đã có sự đảm bảo chắc chắn về khả
năng thanh toán có thể được bán trên thị trường hoặc chiết khấu tại các ngân hàng. Khi
đó, khả năng thương mại của hối phiếu lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà XK được
hưởng tỷ lệ chiết khấu ưu đãi.
1.2.3.2 Cho vay theo phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C - Letter of
credit)
Phương thức thanh toán L/C là phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng
rộng rãi nhất và ưu việt hơn cả trong thanh toán quốc tế, đảm bảo quyền lợi một cách
tương đối cho cả người mua và người bán.
Được hình thành trên cơ sở của hợp đồng ngoại thương, song thư tín dụng lại
hoàn toàn độc lập với hợp đồng ngoại thương. Tính chất độc lập của thư tín dụng được
thể hiện ở chỗ nghĩa vụ của ngân hàng đối với người hưởng lợi L/C không phụ thuộc
vào mối quan hệ giữa người mua và người bán. Ngân hàng mở L/C chỉ căn cứ vào bộ
chứng từ mà nhà XK trình và nội dung L/C đã được mở để trả tiền người xuất.
* Đối với doanh nghiệp xuất khẩu
- Cho vay thực hiện hàng XK theo L/C đã mở:
Khi nhận L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà NK, nhà
XK sẽ được đảm bảo thanh toán sau khi giao hàng nếu xuất trình bộ chứng từ hợp lý,
phù hợp với điều kiện đã ghi trong L/C. Nhà XK có thể dựa vào L/C nhận được để nhờ
ngân hàng phục vụ mình cấp một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo L/C quy
định. Trên cơ sở L/C được chấp nhận, ngân hàng có thể cấp tín dụng cho nhà XK để
tiếp tục sản xuất tức sẵn sàng chấp nhận chiết khấu các hối phiếu của L/C.
- Cho vay chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước chứng từ hàng XK:
Để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ tái sản xuất kinh doanh, nhà XK sau khi giao

hàng có thể thương lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng
trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán.
+ Cho vay chiết khấu chứng từ hàng XK là hình thức tín dụng của ngân hàng
cho nhà XK trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với nghiệp
vụ này, ngân hàng tạo điều kiện cho nhà XK có thể thu hồi vốn với khoản tín dụng mà
ngân hàng cung ứng. Tỷ lệ chiết khấu được áp dụng dựa theo phương thức chiết khấu.
Có 2 phương thức chiết khấu:
1- Chiết khấu miễn truy đòi: Ngân hàng thực hiện mua lại bộ chứng từ XK hoàn
hảo của nhà XK với giá mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ, do ngân hàng tính trừ phí
chiết khấu và thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà NK nước ngoài. Khi ngân
hàng thực hiện chiết khấu miễn truy đòi nghĩa là nhà XK đã bán bộ chứng từ cho ngân
hàng và nhận tiền, không còn trách nhiệm liên quan đến bộ chứng từ. Ngân hàng sẽ
phải chịu hoàn toàn rủi ro nếu phía đối tác không thanh toán khi đến hạn. Hình thức tín
dụng này tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng nên lãi suất áp dụng cao và ít được sử
dụng.
2- Chiết khấu được phép truy đòi: Ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ
chứng từ cho nhà XK sẽ truy đòi nhà XK nếu đến hạn thanh toán bị phía đối tác từ chối
thanh toán, ngân hàng không thu được tiền. Lãi suất được áp dụng trong hình thức này
thấp hơn trường hợp chiết khấu miễn truy đòi do nhà XK vẫn phải chịu trách nhiệm cho
đến khi ngân hàng đòi được tiền từ nhà NK nên rủi ro ngân hàng phải chịu thấp hơn.
+ Tín dụng ứng tiền trước khi bộ chứng từ được thanh toán: Đây là việc ngân
hàng tạm ứng cho nhà XK quyền hưởng thanh toán trong khuôn khổ thanh toán tín
dụng chứng từ. Do thời gian chờ thanh toán khá dài nên nhà XK cũng cần một khoản tài
trợ của ngân hàng, đó là khoản tín dụng ứng trước. Đối với tín dụng ứng trước loại này,
những giấy tờ có giá theo lệnh hoặc những giấy tờ chính như vận đơn, hoá đơn thương
mại,… đều là những vật thế chấp cho ngân hàng.
+ Tín dụng ứng trước dưới hình thức mua lại bộ chứng từ thanh toán: Sau khi
hoàn tất nghĩa vụ xuất hàng cho bên NK, bên XK lập bộ chứng từ thanh toán. Đồng
thời bên XK lại có nhu cầu bù đắp vốn để tiếp tục quá trình kinh doanh trong khoảng
thời gian xuất hàng, chờ nhà NK chấp nhận bộ chứng từ và thanh toán. Khi đó, nhà XK

có thể đem bán bộ chứng từ thanh toán cho ngân hàng. Việc ngân hàng mua bộ chứng
từ thanh toán tức đã chấp nhận cấp tín dụng cho người XK.
* Đối với doanh nghiệp nhập khẩu
- Cho vay mở L/C: Mọi thư tín dụng đều được mở theo đề nghị của nhà NK. Khi
ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà NK, có nghĩa ngân hàng cam kết thanh toán cho
người hưởng lợi L/C nếu bộ chứng từ hợp lý. Như vây, khoản tín dụng mà ngân hàng
cấp cho nhà NK được đảm bảo bằng bộ chứng từ hàng hoá. Việc mở L/C đã thể hiện sự
tài trợ của ngân hàng cho nhà NK. Ngân hàng sẽ phải gánh chịu rủi ro nếu nhà NK
không có khả năng thanh toán cho nhà XK. Do đó, trước khi mở L/C ngân hàng cần
phải kiểm tra tình hình tài chính, khả năng thanh toán và hoạt động của nhà NK.
- Cho vay ký quỹ L/C: Trong thanh toán quốc tế, khách hàng được yêu cầu phải
thực hiện ký quỹ khi đề nghị ngân hàng phát hành L/C, xác nhận L/C hoặc bảo lãnh cho
doanh nghiệp vay vốn nước ngoài. Việc xin mở thư tín dụng có những quy định cụ thể,
tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng mà ngân hàng yêu cầu phải có ký quỹ
hay không và mức ký quỹ là bao nhiêu. Đối với doanh nghiệp không đáp ứng được
hoặc chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu ký quỹ của ngân hàng, căn cứ trên uy tín của
doanh nghiệp, hiệu quả của thương vụ hoặc trên TSĐB mà ngân hàng có thể cho vay ký
quỹ. Sự tài trợ này của ngân hàng vừa giúp giải quyết khó khăn về vốn lưu động cho
doanh nghiệp, vừa tăng tính an toàn, mang lại hiệu quả cho ngân hàng và đảm bảo tuân
thủ những quy định pháp lý của ngân hàng về ký quỹ.

×