Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đánh giá tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến VN INDEX trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------------

LÊ THANH TÙNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HCM NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------------

LÊ THANH TÙNG

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ
VĨ MÔ ĐẾN VN – INDEX TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS BÙI KIM YẾN

TP. HCM NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN


Đề tài nghiên cứu “Đánh giá tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến VN –
Index trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là đề tài nghiên cứu do chính tác giả

thực hiện.
Đề tài này thực hiện thông qua việc vận dụng các kiến thức đã học, qua tham
khảo nhiều tài liệu và sự tận tình hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, cùng
với sự góp ý của các cá nhân, tập thể khác.
Luận văn này không sao chép từ bất kỳ một nghiên cứu nào khác.
Tôi xin cam đoan những lời nêu trên đây là hoàn toàn đúng sự thật.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 10 năm 2013

LÊ THANH TÙNG


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu ........................................................................... 1
2. Mục đích .......................................................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 2
5. Điểm mới của đề tài ......................................................................................... 3
6. Tóm tắt nội dung luận văn................................................................................ 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ

VĨ MÔ ĐẾN CHỈ SỐ GIÁ CỔ PHIẾU TRÊN TTCK
1.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán .................................................................. 4
1.1.1 Khái niệm, phân loại về thị trường chứng khoán ......................................... 4
1.1.2 Các hàng hóa trên thị trường chứng khoán .................................................. 6
1.1.3 Chức năng của thị trường chứng khoán ........................................................ 7
1.2 Tổng quan về chỉ số giá cổ phiếu và tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến
chỉ số giá cổ phiếu ....................................................................................................... 9
1.2.1 Tổng quan về chỉ số giá cổ phiếu ................................................................. 9
1.2.2 Một số phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu .............................................. 9
1.2.3 Tác động của một số nhân tố kinh tế vĩ mô tác động lên chỉ số giá cổ
phiếu..................................................................................................................... 12
1.2.3.1 Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đây ..................................... 12
1.2.3.2 Tác động của một số nhân tố kinh tế vĩ mô lên chỉ số giá cổ phiếu .. 16
TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 23


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ TTCK VIỆT NAM VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC
ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ VĨ MÔ LÊN VN – INDEX
2.1 Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam ............................................. 24
2.1.1 Giai đoạn 2001-2005 .................................................................................. 24
2.1.2 Giai đoạn bùng nổ và tăng trưởng 2006-2007 ............................................ 26
2.1.3 Giai đoạn suy giảm và phục hồi 2008-2013 ............................................... 30
2.1.4 Một số hạn chế của chỉ số giá cổ phiếu VN – Index ................................. 37
2.2. Đánh giá tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên VN - Index ..................... 38
2.2.1 Mô hình nghiên cứu .................................................................................... 38
2.2.1.1 Cơ sở lựa chọn mô hình nghiên cứu .................................................. 38
2.2.1.2 Mẫu nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu .............................................. 39
2.2.1.3 Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 40
2.2.1.4 Mô hình nghiên cứu đề xuất ............................................................... 40
2.2.1.5 Mô hình toán nghiên cứu đề xuất ....................................................... 41

2.2.1.6 Mô tả và đo lường các biến ................................................................ 41
2.2.2 Phân tích dữ liệu và kết quả nghiên cứu ..................................................... 43
2.2.2.1 Phân tích thống kê mô tả .................................................................... 43
2.2.2.2 Kiểm tra tính dừng ............................................................................. 44
2.2.2.3 Xác định độ trễ và đồng liên kết ........................................................ 47
2.2.2.4 Xác định mô hình quan hệ dài hạn giữa các biến nghiên cứu............ 49
2.2.3 Kết quả nghiên cứu ..................................................................................... 51
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 55
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM
3.1 Đối với hoạt động đầu tư của nhà đầu tư ............................................................ 56
3.2 Đối với nhà điều hành chính sách, quản lý thị trường ........................................ 58
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADF (Augemented Dicky-Fuller): Kiểm định ADF (mở rộng của kiểm định DF)
CPI (Consume price index): Chỉ số giá tiêu dùng
DF (Dicky-Fuller): Kiểm định Dicky-Fuller
ECM (Error correction model): Mô hình hiệu chỉnh sai số
Eview (Econometric Views): Phần mềm thống kê Eview
EX (Exchange rate of USD): Tỷ giá đola Mỹ
HOSE (HoChiMinh Stock Exchange): Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh
HNX (Hanoi Stock Exchange): Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
HNX Index: Chỉ số giá chứng khoán sàn Hà nội
IP (Industrial output): Sản lượng công nghiệp
M2: cung tiền M2
OLS (Ordinary Least Square): Phương pháp bình phương bé nhất

OP (Oil price): Giá dầu
TTCK: Thị trường chứng khoán
VECM (Vector error correction model): Mô hình vecto hiệu chỉnh sai số
VN: Việt Nam
VN-INDEX (Việt Nam Stock Index): Chỉ số giá chứng khoán Việt Nam
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán nhà nước


DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ
Bảng biểu
Bảng 2.1 : Quy mô giao dịch VNIndex giai đoạn 2000-2005
Bảng 2.2: Thống kê giao dịch VN-Index nửa đầu năm 2013
Bảng 2.3. Bảng tóm tắt các biến trong mô hình
Bảng 2.4 Kết quả phân tích thống kê mô tả cho các chuỗi số liệu
Bảng 2.5 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị (Unit Root Test ) cho các chuỗi số liệu
trong nghiên cứu
Bảng 2.6. Xác định độ trễ của mô hình
Bảng 2.7. Kết quả kiểm định đồng liên kết
Biểu đồ
Biểu đồ 2.1. Diễn biến VN-Index giai đoạn 2000 – 2005
Biểu đồ 2.2. Diễn biến VN-Index năm 2006 – 2007
Biểu đồ 2.3. Diễn biến VN-Index năm 2008 – 2013
Sơ đồ
Sơ đồ 2.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.


Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Trong nền kinh tế hiện đại thị trường chứng khoán đóng một vai trò rất quan

trọng bởi nó là kênh huy động vốn lớn và hữu hiệu cho nền kinh tế, đồng thời nó
cung cấp một môi trường đầu tư cho các tổ chức, cá nhân cả trong nước lẫn ngoài
nước. Ngoài ra thị trường chứng khoán còn là thước đo đánh giá giá trị doanh
nghiệp và là hàn thử biểu của nền kinh tế.
Vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán thật sự có ý nghĩa đối với nền
kinh tế khi thị trường chứng khoán có mối quan hệ “ nhân quả” với các yếu tố kinh
tế vĩ mô. Thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả thì nền kinh tế tăng trưởng và
thịnh vượng. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng các yếu tố kinh tế vĩ mô
đang tác động nhiều lên chỉ số giá chứng khoán, tùy thuộc vào từng thị trường ứng
với những đặc điểm khác nhau của nền kinh tế, thậm chí có những kết quả nghiên
cứu trái chiều nhau về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên chỉ số giá chứng
khoán.
Nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế mới nổi, thuộc nhóm quốc gia đang
phát triển, với thị trường chứng khoán còn non trẻ, trải qua hơn 10 năm thành lập và
hoạt động, đã có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế, tuy nhiên vẫn còn cần
nhiều hơn nữa những nghiên cứu nhằm hoàn thiện thêm cho thị trường chứng
khoán, cả về phía chính sách quản lý điều hành, và cả về phía nhà đầu tư, kinh
doanh chứng khoán, đặc biệt là các tác động qua lại của các chính sách vĩ mô và thị
trường chứng khoán. Vì vậy trong nội dung bài nghiên cứu này, hy vọng có thể tìm
hiểu chi tiết hơn về tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế Việt
Nam lên chỉ số giá VN – Index trong giai đoạn từ khi thành lập thị trường đến nay.
2.

Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhắm tìm hiểu tác động của nhân tố kinh tế vĩ mô lên chỉ số giá


của thị trường chứng khoán Việt Nam (cụ thể là lên chỉ số giá VN – Index), nhằm
đánh giá mức độ tác động của các nhân tố này, từ đó có thể giúp các nhà đầu tư có
cái nhìn rõ ràng hơn đối với các tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô, giúp họ đưa


2

ra các quyết định đầu tư hợp lý hơn, kịp thời hơn khi có sự biến động của các nhân
tố kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế. Việc hoàn thiện, và định hướng cho nhà đầu tư
hoạt động đúng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến thị trường chứng khoán. Vì vậy nghiên
cứu này mong muốn góp một phần để nhà đầu tư có thêm những công cụ hoàn thiện
hơn nữa, phục vụ cho nhu cầu đầu tư một cách chuyên nghiệp của các mình.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các nhân tố kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam

và tác động của nó lên chỉ số giá VN – Index. Theo những nghiên cứu trước đây, có
rất nhiều những nhân tố kinh tế vĩ mô tác động lên chỉ số giá chứng khoán, tuy
nhiên, trong giới hạn của đề tài này, bài nghiên cứu chỉ xin tập trung vào ba nhân tố
kinh tế vĩ mô, mà đã được nhiều nghiên cứu khác trên thế giới chỉ ra rằng nó có tác
động đến thị trường chứng khoán là hoạt động kinh tế thực, cung tiền và giá dầu để
nghiên cứu cho thị trường chứng khoán Việt Nam, với mong muốn đánh giá kỹ hơn
về ba nhân tố này.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung vào nghiên cứu tác động của các nhân
tố kinh tế vĩ mô lên chỉ số VN-Index, vì quy mô niêm yết, lượng giao dịch, khả
năng thu hút đầu tư, cùng với hầu hết các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế Việt
Nam tham gia niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM, do đó nó có khả
năng đại diện tốt cho biến động của thị trường, và biến động của nền kinh tế hơn so
với chỉ số HNX-Index. Đồng thời nghiên cứu sẽ tập trung vào ba nhân tố là hoạt

động kinh tế thực, đại diện bằng giá trị sản lượng công nghiệp, cung tiền M2 và giá
dầu trong giai đoạn 2000 -2012 để đánh giá sự tác động của các biến này lên chỉ số
VN-Index.
4.

Phương pháp nghiên cứu
Thông qua các nghiên cứu trước đây về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ

mô lên chỉ số giá của thị trường chứng khoán ở các quốc gia và các nghiên cứu có
liên quan ở thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó lựa chọn các nhân tố kinh tế vĩ
mô tác động lên chỉ số giá thị trường chứng khoán, xây dựng mô hình nghiên cứu
cho đề tài.


3

Đồng thời áp dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng, thống kê, sử
dụng các dữ liệu về biến động của các nhân tố kinh tế vĩ mô bao gồm sản lượng
công nghiệp, cung tiền M2, giá dầu, và chỉ số giá thị trường chứng khoán trong giai
đoạn 2000 – 2012 để phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô này
lên chỉ số giá VNIndex.
Nghiên cứu sử dụng mô hình VECM để đánh giá mối quan hệ dài hạn giữa
các nhân tố này với biến động của VN - Index nhằm xây dựng mô hình phù hợp,
phục vụ cho hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán.
5.

Điểm mới của đề tài
Đề tài tiến hành nghiên cứu với một số nhân tố kinh tế vĩ mô chưa được

nghiên cứu nhiều về tác động của nó lên thị trường chứng khoán Việt Nam là sản

lượng công nghiệp, cung tiền M2, và giá dầu trên thế giới. Đồng thời nghiên cứu sẽ
chú trọng vào mục tiêu cung cấp những thông tin, công cụ phục vụ cho các nhà đầu
tư ở Việt Nam, thay vì đi sâu về hướng chính sách vĩ mô như các nghiên cứu trước
đó.
6.

Tóm tắt nội dung luận văn
Chương 1. Tổng quan về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số

giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Chương 2. Thực trạng về thị trường chứng khoán Việt Nam và đánh giá tác
động của các nhân tố kinh tế vĩ mô lên chỉ số giá VN – Index
Chương 3: Một số giải pháp đối với hoạt động đầu tư và quản lý thị trường
chứng khoán Việt Nam


4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ
VĨ MÔ ĐẾN CHỈ SỐ GIÁ CỔ PHIẾU TRÊN TTCK
1.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.1.1 Khái niệm, phân loại về thị trường chứng khoán
Khái niệm về thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán là một bộ
phận quan trọng của thị trường vốn, hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn
vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế
hay cho các dự án đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các
loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp,
do vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi.

Phân loại về thị trường chứng khoán
-

Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn:
Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành,

trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư được chuyển sang nhà phát hành thông qua
việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành
Vai trò của thị trường sơ cấp:
+ Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động, vốn được huy động thông qua
việc phát hành chứng khoán.
+ Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn
rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp
+ Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho
người phát hành.
+ Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là kho bạc,
NHNN, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành....
+ Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định và
thường được in ngay trên chứng khoán.


5

Thị trường thứ cấp: nơi diễn ra các giao dịch chứng khoán đã được phát hành
ở thị trường sơ cấp. Thị trường chứng khoán thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho
các chứng khoán đã phát hành.
Đặc điểm của thị trường thứ cấp
+ Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán
thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về

nhà phát hành.
+ Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá
chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
+ Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
-

Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường: thị trường chứng khoán

được phân thành thị trường tập trung và phi tập trung
+ Trên thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) các giao dịch được
tập trung tại một địa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào
quá trình ghép lệnh để hình thành giá giao dịch.
+ Trên thị trường phi tập trung (OTC): các giao dịch cả sơ cấp lẫn thứ cấp,
được tiến hành thông qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp
quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả trên thị trường này hình
thành theo phương thức thỏa thuận.
-

Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường: thị trường được chia thành thị trường

cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
+ Thị trường cổ phiếu: là thị trường mua bán và giao dịch các loại cổ phiếu,
bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
+ Thị trường trái phiếu: là thị trường mua bán các trái phiếu đã được phát
hành, bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
+ Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và
mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh đã được phát hành. Đây là loại thị trường



6

cao cấp chuyên giao dịch những công cụ tài chính cao cấp, do đó thị trường này chỉ
xuất hiện ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển mạnh.
1.1.2

Các hàng hóa trên thị trường chứng khoán

Chứng khoán là hàng hóa trên thị trường chứng khoán. Theo Luật chứng
khoán, chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể
hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các
loại sau:
+ Cổ phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Theo tính chất của các
quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu
phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
+ Trái phiếu: là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát
hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một
khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn
trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
+ Chứng chỉ quỹ đầu tư: là dạng chứng chỉ được phát hành ra công chúng
bởi các công ty quản lý quỹ, người mua chứng chỉ không được tham gia vào quá
trình ra quyết định đầu tư của quỹ mà sẽ ủy thác việc quản lý quỹ cho công ty. Công
ty quản lý quỹ sẽ đảm nhận cả hai khâu huy động vốn và đầu tư vốn vào các chứng
khoán. Dựa trên hình thái vận động của vốn, có thể phân loại thành quỹ đóng và
quỹ mở. Trong quỹ đóng các chứng chỉ hay cổ phần quỹ chỉ được phát hành một
lần, với một số lượng xác định. Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng, quỹ không
mua lại những chứng chỉ, cổ phần khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại, cũng không

phát hành bổ sung
Trái lại quỹ đầu tư dạng mở liên tục phát hành cổ phiếu hay chứng chỉ ra
công chúng, số lượng cổ phần hay chứng chỉ có thể không hạn chế, và quỹ sẵn sàng
mua lại chứng chỉ hay cổ phiếu mỗi khi nhà đầu tư có nhu cầu bán. Cổ phiếu hay


7

chứng chỉ của quỹ mở không giao dịch trên thị trường thứ cấp mà giao dịch thẳng
với quỹ hoặc các đại lý được ủy quyền của quỹ.
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi: là những chứng khoán cho phép người
nắm giữ nó, tùy theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy
một chứng khoán khác. Thông thường có cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi thành cổ
phiếu thường, và trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
+ Các chứng khoán phái sinh:
Quyền mua cổ phần: là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông hiện
hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một đợt phát
hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công
ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong
một thời hạn nhất định, đôi khi chỉ vài tuần.
Chứng quyền: là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó được mua
một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu phổ thông,
với một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định
Hợp đồng kỳ hạn: là một thỏa thuận trong đó một người mua và một người
bán chấp nhận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định, tại một
thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định ngày hôm nay.
Hợp đồng tương lai: là một thỏa thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua
hoặc bán một hàng hóa nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo một
mức giá đã định trước. Nó cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị
trường để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi.

Quyền chọn: là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (quyền
mua) hoặc được bán (quyền bán) một khối lượng nhất định hàng hóa tại một mức
giá xác định và trong một thời hạn nhất định.
1.1.3

Chức năng của thị trường chứng khoán

Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: khi các nhà đầu tư mua chứng khoán
do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất
kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt


8

động đầu tư của công ty, thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán,
chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho
mục đích sử dụng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, phục vụ cho nhu cầu chung
của xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: thị trường chứng khoán cung
cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn
phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời
hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả
năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp
phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: nhờ có thị trường chứng khoán
các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt, hoặc
các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những
đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính
linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán càng năng động và hiệu

quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch
trên thị trường.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: thông qua giá chứng khoán, hoạt
động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp
cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và
thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: các
chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách
nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở
rộng, nền kinh tế tăng trưởng, và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các
dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế thị trường chứng khoán được gọi là phong
vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các


9

chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ có thể mua
và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản
lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp
tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát
triển cân đối của nền kinh tế.
1.2

Tổng quan về chỉ số giá cổ phiếu và tác động của một số nhân tố kinh tế

vĩ mô đến chỉ số giá cổ phiếu
1.2.1

Tổng quan về chỉ số giá cổ phiếu


Chỉ số giá cổ phiếu là chỉ số phản ánh mức giá bình quân của các cổ phiếu tại
một ngày nhất định so với ngày gốc. Chỉ số giá cổ phiếu là chỉ số phản ánh mức giá
bình quân của cổ phiếu tại một ngày nhất định so với ngày gốc. Nó phản ánh xu
hướng phát triển của thị trường, của giá cổ phiếu, tình hình giao dịch trên thị trường
chứng khoán, từ đó đánh giá cảm nhận của các nhà đầu tư về tình trạng của nền
kinh tế.
Một chỉ số thị trường được xây dựng tốt sẽ cung cấp một chỉ dẫn khách quan
về giá cả của tổng thể nghiên cứu, ngược lại, một chỉ số xây dựng kém sẽ chỉ đưa ra
những những gì mà nó không có tính đại diện của tổng thể. Để xây dựng một chỉ số
giá cổ phiếu người ta có những phương pháp xác định khác nhau tùy thuộc vào đặc
điểm của thị trường và mục tiêu của nhà quản lý.
1.2.2

Một số phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu

Phương pháp Passcher:
Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng nhất và nó là chỉ số giá bình quân
gia quyền giá trị với quyền số là số lượng chứng khoán niêm yết thời kỳ tính toán.
Kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số thời kỳ tính toán:
Người ta dùng công thức sau để tính:

 qt p t
I p = -------------

 qt po
Trong đó:


10


Ip : Là chỉ số giá Passcher
pt : Là giá thời kỳ t
po : Là giá thời kỳ gốc
qt : Là khối lượng (quyền số) thời điểm tính toán (t) hoặc cơ cấu của khối
lượng thời điểm tính toán.
i: Là cổ phiếu i tham gia tính chỉ số giá
n: là số lượng cổ phiếu đưa vào tính chỉ số
Phương pháp Laspeyres.
Chỉ số giá bình quân Laspeyres là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị, lấy
quyền số là số cổ phiếu niêm yết thời kỳ gốc. Như vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào
cơ cấu quyền số thời kỳ gốc:

 q o pt
IL = -------------

 qo po
Trong đó:
IL : Là chỉ số giá bình quân Laspeyres
pt: Là giá thời kỳ báo cáo
po : Là giá thời kỳ gốc
qo: Là khối lượng (quyền số) thời kỳ gốc hoặc cơ cấu của khối lượng c (số
lượng cổ phiếu niêm yết) thời kỳ gốc
i: Là cổ phiếu i tham gia tính chỉ số giá
n: là số lượng cổ phiếu đưa vào tính chỉ số
Chỉ số giá bình quân Fisher
Chỉ số giá bình quân Fisher là chỉ số giá bình quân nhân giữa chỉ số giá
Passcher và chỉ số giá Laspayres: Phương pháp này trung hoà được yếu điểm của
hai phương pháp trên, tức là giá trị chỉ số tính toán ra phụ thuộc vào quyền số của cả
2 thời kỳ: Kỳ gốc và kỳ tính toán

IF

= √ IP x I L


11

Trong đó:
I F : Là chỉ số giá Fisher
IP: Là chỉ số giá Passcher
IL: Là chỉ số giá bình quân Laspeyres
Phương pháp số bình quân giản đơn:
Ngoài các phương pháp trên, phương pháp tính giá bình quân giản đơn cũng
thường được áp dụng.Công thức đơn giản là lấy tổng thị giá của chứng khoán chia
cho số chứng khoán tham gia tính toán:

 pi
Ip = ------------n
Trong đó:
Ip: là giá bình quân;
Pi: là giá Chứng khoán i;
n: là số lượng chứng khoán đưa vào tính toán.
Công thức tính chỉ số VN-Index:
Theo quy định của Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM thì chỉ số VN-Index
được tính bằng cách so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở
vào ngày gốc 28/07/2000, ngày đầu tiên thị trường chứng khoán chính thức đi vào
hoạt động. Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong
các trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về
vốn niêm yết.
Chỉ số VNIndex = (Giá trị thị trường hiện hành / Giá trị thị trường cơ sở) x

n

100
=
Trong đó:

p q
p q
i 1

it it

X 100

io io

Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i
Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i
Pio: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i


12

Qio: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu I (I= 1,…,n)
1.2.3

Tác động của một số nhân tố kinh tế vĩ mô lên chỉ số giá cổ phiếu

1.2.3.1 Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đây
Thị trường chứng khoán chịu tác động của nhiều nhân tố, bao gồm các nhân

tố kinh tế vĩ mô và vi mô. Mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô với chỉ số chứng
khoán (đại diện cho tình hình của thị trường chứng khoán) đã được nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Stephen A. Ross (1976) đã phát triển Lý thuyết
kinh doanh chênh lệch giá (APT – Arbitrage Pricing Theory) để giải thích tỉ suất
sinh lợi của chứng khoán trên thị trường.
Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá là một lý thuyết tổng quát về định giá
tài sản, và nó đang dần có sức ảnh hưởng lớn trong việc định giá các cổ phần. APT
nói rằng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của tài sản tài chính có thể được đo lường thông
qua các yếu tố kinh tế vĩ mô khác nhau hoặc là yếu tố thị trường. Sự nhạy cảm của
tài sản với sự thay đổi trong mỗi yếu tố được đại diện bằng đại lượng xác định gọi
là hệ số beta. Xuất phát từ lý thuyết này, mô hình xác định tỷ suất sinh lợi cho các
chứng khoán đã được sử dụng để định giá tài sản một cách chính xác. Giá của tài
sản phải bằng với mức kỳ vọng vào cuối giai đoạn đầu tư chiết khấu về hiện tại với
mức chiết khấu được tính toán trong mô hình. Nếu giá khác nhau, cơ hội kinh doanh
chênh lệch sẽ đưa nó về lại đúng đường thẳng như mô hình.
Chen, Roll và Ross đã xác định các yếu tố kinh tế vĩ mô sau là rất quan trọng
trong việc giải thích tỷ suất sinh lợi của chứng khoán:
+ Sự thay đổi trong lạm phát
+ Sự thay đổi trong GNP được chỉ ra bởi chỉ số sản xuất công nghiệp
+ Sự thay đổi trong lòng tin nhà đầu tư
+ Sự thay đổi trong đường cong tỷ suất sinh lợi trái phiếu
Một số nhân tố khác có thể được sử dụng là :
+ Lãi suất ngắn hạn
+ Khác biệt giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn


13

+ Một chỉ số chứng khoán được đa dạng hóa ví dụ như S&P500 hoặc chỉ số
Composite NYSE trên thị trường Mỹ.

+ Sự thay đổi trong giá vàng hoặc giá các kim loại quý khác
+ Sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái.
Nhiều nhà khoa học đã chứng minh bằng thực nghiệm tác động của các nhân
tố vĩ mô như sản lượng công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền, GDP, tỉ giá hối
đoái, lãi suất, lạm phát, rủi ro chính trị, giá dầu, khu vực mậu dịch, và các chỉ số
chứng khoán thị trường khu vực… đến thị trường chứng khoán như:
Mukherjee và Naka (1995) điều tra các mối quan hệ giữa giá chứng khoán
trên thị trường Tokyo và sáu biến kinh tế vĩ mô, sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số
vector (VECM). Nghiên cứu của họ bao gồm 240 quan sát hàng tháng cho mỗi biến
trong giai đoạn từ tháng 5 năm 1971 đến tháng 12 năm 1990. Các kết quả của
nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa giá chứng khoán Tokyo, tỷ giá, cung tiền, và
sản xuất công nghiệp là tích cực, trong khi mối quan hệ giữa giá chứng khoán
Tokyo và lạm phát, lãi suất là hỗn hợp.
Ibrahim (1999) điều tra sự tương tác giữa giá cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán Malaysia và bảy biến kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 1977-1996. Tác giả sử
dụng mô hình kiểm định quan hệ nhân quả Granger. Các biến số kinh tế vĩ mô bao
gồm các sản xuất công nghiệp, giá tiêu dùng, M1, M2, tập hợp tín dụng, dự trữ
ngoại hối và tỷ giá hối đoái. Nghiên cứu cho thấy rằng có sự biến động giá cổ phiếu
theo sự thay đổi trong sản xuất công nghiệp, cung tiền, và tỷ giá hối đoái trong khi
nó phản ứng ngược chiều với giá tiêu dùng, tập hợp tín dụng, và dự trữ ngoại hối.
Zhao (1999) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát, yếu tố đầu ra ( giá
sản xuất công nghiệp) lên thị trường chứng khoán Trung Quốc. Nghiên cứu sử dụng
các giá trị hàng tháng cho giai đoạn từ tháng Giêng năm 1993 đến tháng 3 năm
1998. Kết quả cho thấy có mối quan hệ tiêu cực giữa giá cổ phiếu và lạm phát.
Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy rằng việc tăng sản lượng công nghiệp cũng ảnh
hưởng tiêu cực và đáng kể đến giá cổ phiếu.


14


Maysami và Koh (2000) xem xét các mối quan hệ tác động giữa biến kinh tế
vĩ mô và thị trường chứng khoán Singapore bằng cách sử dụng mô hình hiệu chỉnh
vector. Các biến số kinh tế vĩ mô là tỷ giá hối đoái, lãi suất ngắn hạn và dài hạn, tỷ
giá, lạm phát, cung tiền, xuất khẩu trong nước, và sản xuất công nghiệp. Dữ liệu
được điều chỉnh theo mùa và bao gồm các giai đoạn từ 1988-1995. Nghiên cứu cho
thấy lạm phát, tăng trưởng cung tiền, thay đổi trong tỷ lệ lãi suất ngắn hạn và dài
hạn, sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái không ảnh hưởng đến biến động trên thị
trường chứng khoán Singapore. Nghiên cứu này cũng xem xét mối liên hệ giữa các
thị trường chứng khoán Mỹ, Nhật Bản và thị trường chứng khoán Singapore. Kết
quả cho thấy ba thị trường có sự tương tác nhất định.
Ralph và Eriki (2001) với nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Nigeria
kiểm tra mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và lạm phát, hỗ trợ mạnh mẽ cho ý kiến lạm
phát sẽ tạo nên một tác động tiêu cực lên hoạt động của giá cổ phiếu. Hơn nữa,
nghiên cứu cho thấy giá cổ phiếu cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi mức độ hoạt
động của nền kinh tế được đo bằng GDP, lãi suất, cổ tức, và biến động của các yếu
tố pháp lý. Mặt khác, các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng biến động giá dầu không
có ảnh hưởng đáng kể đến giá cổ phiếu.
Al-Qenae et (2002) với nghiên cứu về tác động của các biến số kinh tế vĩ mô
và giá cổ phiếu của thị trường chứng khoán Kuwait trong giai đoạn 1981-1997. Các
biến số kinh tế vĩ mô được kiểm định là tổng sản phẩm quốc dân (GNP), lãi suất và
lạm phát. Nghiên cứu cho thấy lạm phát và lãi suất có tác động tiêu cực và có ý
nghĩa thống kê trong gần như tất cả các trường hợp trên giá cổ phiếu, trong khi GNP
có tác động tích cực nhưng nó chỉ có ý nghĩa trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong các yếu tố bên ngoài tác động thì tổng sản phẩm trong nước, giá tiêu dùng,
cung tiền, lãi suất, giá dầu là những yếu tố bên ngoài quan trọng nhất.
Dimitrios Tsoukalas (2003) xem xét mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và các
yếu tố kinh tế vĩ mô trong thị trường chứng khoán mới nổi Síp. Trong nghiên cứu
này, các tác giả đã sử dụng các mô hình tự hồi quy véc tơ (VAR). Các yếu tố kinh tế
vĩ mô được kiểm tra trong nghiên cứu này, từ giai đoạn 1975-1998, là tỷ giá hối



15

đoái, sản xuất công nghiệp, cung tiền, và chỉ số giá tiêu dùng. Các kết quả nghiên
cứu cho thấy có mối quan hệ mạnh mẽ giữa giá cổ phiếu và các yếu tố kinh tế vĩ
mô. Theo tác giả, các mối quan hệ mạnh mẽ giữa giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái,
bởi nền kinh tế Síp phụ thuộc cho hầu hết các hoạt động dịch vụ như du lịch, và
ngân hàng. Ông cũng lưu ý rằng mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và sản xuất công
nghiệp, cung tiền, và giá tiêu dùng phản ánh các chính sách kinh tế vĩ mô thực hiện
bởi cơ quan tài chính và tiền tệ Síp.
Ibrahim (2003) áp dụng mô hình VAR để đánh giá mối quan hệ và tương tác
trong dài hạn giữa thị trường chứng khoán Malaysia với các biến số kinh tế. Các
biến kinh tế vĩ mô được sử dụng là sản lượng công nghiệp thực, giá tiêu dùng, cung
tiền, và tỷ giá hối đoái. Nghiên cứu này mang lại hai kết quả chính: đầu tiên, giá cổ
phiếu của Malaysia chịu tác động tích cực bởi cung tiền, chỉ số giá tiêu dùng và sản
xuất công nghiệp. Thứ hai, nó chịu tác động tiêu cực của sự biến động tỷ giá hối
đoái.
Chaudhuri và Smiles (2004) kiểm tra các mối quan hệ lâu dài giữa giá cổ
phiếu và những thay đổi trong hoạt động kinh tế vĩ mô trên thị trường chứng khoán
Úc trong khoảng thời gian 1960-1998. Các hoạt động kinh tế vĩ mô được xem xét
bao gồm GDP thực, sản lượng tiêu thụ, tiền thật, và giá dầu. Kết quả nghiên cứu của
họ chỉ ra rằng có mối quan hệ lâu dài giữa giá cổ phiếu và hoạt động kinh tế vĩ mô.
Nghiên cứu cũng thấy rằng thị trường chứng khoán nước ngoài như thị trường Mỹ
và New Zealand cũng ảnh hưởng đáng kể đến thị trường chứng khoán Úc.
Nguyễn Phú Hiếu (2011) nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô
đến chỉ số giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu thực
hiện trong giai đoạn từ tháng 7 năm 2004 đến tháng 12 năm 2009. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, trong dài hạn chỉ số chứng khoán bị tác động ngược chiều của yếu tố
lạm phát và lãi suất bình quân của thị trường liên ngân hàng, trong ngắn hạn chỉ số
chứng khoán bị tác động cùng chiều bởi chính nó với độ trễ (1 tháng và 4 tháng)

đồng thời bị tác động ngược chiều bởi yếu tố lãi suất với độ trễ (4 tháng).


16

Có thể nói các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị tài sản nói chung và giá cổ phiếu
nói riêng thì rất phong phú và đa dạng. Những yếu tố này có thể phân ra như sau :
yếu tố công ty, yếu tố ngành, yếu tố quốc gia và quốc tế hoặc những yếu tố thuộc về
thị trường và không thuộc thị trường, những yếu tố thuộc về kinh tế và không thuộc
về kinh tế. Tất cả những yếu tố đó được xếp thành hai nhóm (yếu tố vi mô và yếu tố
vĩ mô), những yếu tố trong mỗi nhóm thì rất đa dạng, tuy nhiên tất cả đều có ảnh
hưởng đến quyết định của nhà đầu tư và giá của chứng khoán.
1.2.3.2 Tác động của một số nhân tố kinh tế vĩ mô lên chỉ số giá cổ phiếu
Những nghiên cứu trước đây cho thấy đã có sự tác động giữa các biến kinh tế
vĩ mô với chỉ số giá cổ phiếu. Có nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát,
lãi suất, tỷ giá với giá cổ phiếu, cũng có những nghiên cứu cho thấy các biến vĩ mô
khác như lãi suất, chỉ số công nghiệp, lượng cung tiền,…cũng có tác động nhất định
đến giá cổ phiếu.
Tuy nhiên dựa trên cơ sở lý thuyết và đặc biệt là xem xét các nghiên cứu
trước đó, có thể nói chỉ số giá cổ phiếu là một hàm ảnh hưởng bởi nhiều biến vĩ mô
(biến độc lập) như GDP, lãi suất (R), lạm phát (INFT, đo lường bởi CPI), cung tiền
(M1, M2), tỷ giá hối đoái (EX), giá một số kim loại quý như vàng, giá dầu, rủi ro
chính trị, tỷ lệ thất nghiệp đến giá cổ phiếu.
Lãi suất: Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó tiền lãi được người vay trả cho việc sử
dụng tiền mà họ vay từ một người cho vay. Cụ thể, lãi suất (I/m) là phần trăm tiền
gốc (P) phải trả cho một số lượng nhất định của thời gian (m) mỗi thời kỳ (thường
được tính theo năm). Lãi suất thường được thể hiện như một tỷ lệ phần trăm của
tiền gốc trong một khoảng thời gian một năm.
Lãi suất danh nghĩa là số lượng, theo tỷ lệ phần trăm, của tiền lãi phải trả.
Lãi suất thực tế đo lường sức mua của biên lai tiền lãi, được tính bằng cách

điều chỉnh lãi suất danh nghĩa được tính để đưa lạm phát vào hạch toán
Tác động của lãi suất đến chỉ số giá cổ phiếu
Lãi suất là chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp, khi lãi suất giảm thì chi
phí sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng giảm và ngược lại. Khi đó doanh nghiệp sẽ


17

gia tăng các khoản đầu tư với chi phí thấp, làm lợi nhuận doanh nghiệp có xu hướng
đi lên, từ đó làm tăng giá trị doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
ổn định và xu hướng phát triển tốt, nó sẽ được thị trường đánh giá tốt, và giá cổ
phiếu sẽ có xu hướng tăng lên, từ đó tác động lên tổng thể chung của thị trường.
Khi lãi suất giảm, các kênh đầu tư khác trở nên kém hấp dẫn hơn. Việc lãi
suất giảm sẽ không khuyến khích nhà đầu tư gửi tiền vào ngân hàng, hoặc ít đầu tư
vào những khoản đầu tư mang tính chất cố định, phòng thủ như trái phiếu.... Thay
vào đó nhà đầu tư có thể huy động được vốn có chi phí thấp, và dòng tiền sẽ đổ vào
các kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời cao như chứng khoán, bất động sản..., điều đó sẽ
thúc đẩy sự gia tăng của thị trường chứng khoán.
Tóm lại, trên cơ sở lý thuyết có thể nhận định rằng khi lãi suất tăng dẫn đến
chỉ số chứng khoán giảm và ngược lại.
Lạm phát: Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức
giá chung của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị
trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì
lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Thuật ngữ "lạm phát" ban đầu được chỉ các gia tăng trong số lượng tiền trong
lưu thông, và một số nhà kinh tế vẫn sử dụng từ này theo cách này. Tuy nhiên, hầu
hết các nhà kinh tế hiện nay sử dụng thuật ngữ "lạm phát" để chỉ một sự gia tăng
trong mức giá. Thường xuyên nhất, thuật ngữ "lạm phát" đề cập đến một sự gia tăng
chỉ số giá mở rộng đại diện cho mức giá tổng thể đối với hàng hóa và dịch vụ trong
nền kinh tế như chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân

(PCEPI) và số giảm phát GDP ….
Tác động của lạm phát đến chỉ số giá chứng khoán
Lạm phát ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán thông qua việc tác động
đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lạm phát biểu hiện cho sự gia
tăng về giá của các yếu tố trong nền kinh tế. Nguyên vật liệu, chi phí sản xuất đầu
vào tăng, khiến cho tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trở nên khó
khăn trước những biến động của nền kinh tế. Khi chi phí sản xuất tăng cao, lợi


18

nhuận doanh nghiệp của doanh nghiệp có thể có khả năng giảm sút vì giá thành sản
phẩm tăng cao, và người tiêu dùng có thể hạn chế chi tiêu hoặc tìm đến các sản
phẩm thay thế. Hệ quả là giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết bị giảm xuống
do e ngại về triển vọng tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai.
Bên cạnh đó, việc lạm phát tăng cao rất có khả năng sẽ dẫn đến việc chính
phủ thực hiện những chính sách cắt giảm chi tiêu, thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế
lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô. Điều này sẽ khiến cho lãi suất trên thị trường
có xu hướng gia tăng, và doanh nghiệp khó tiếp cận được nguồn vốn có chi phí thấp
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Đồng thời các nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi cao hơn khi lãi suất
danh nghĩa gia tăng, do đó chênh lệnh giữa tỷ suất sinh lợi và mức tăng trưởng cổ
tức hàng năm có thể gia tăng, và dẫn đến giá chứng khoán sẽ giảm theo mô hình
định giá cổ phiếu của Gordon:
Po = Div1/(ke-g)
Trong đó:
Po: giá cổ phiếu thời kỳ đầu
Div1: Cổ tức cuối kỳ
ke: tỷ suất sinh lợi yêu cầu khi đầu tư vào cổ phiếu
g: tốc độ tăng trưởng cổ tức hàng năm của doanh nghiệp

Như vậy có thể thấy thị trường chứng khoán dường như phản ứng tiêu cực
đối với những biến động của yếu tố lạm phát, khi lạm phát gia tăng, thị trường sẽ có
xu hướng giảm điểm và ngược lại.
Cung tiền: Cung ứng tiền tệ, gọi tắt là cung tiền, chỉ lượng cung cấp tiền tệ
trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu mua hàng hóa, dịch vụ, tài sản, v.v... của
các cá nhân (hộ gia đình) và doanh nghiệp (không kể các tổ chức tín dụng).
Các quy mô cung tiền:
M0: tổng lượng tiền mặt. M0 còn được gọi là tiền cơ sở hoặc tiền hẹp (ở
Anh).


×