TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - HUẾ
KHOA KINH TẾ - PHÁT TRIỂN
Môn: Kinh tế Vĩ mô
ĐỀ TÀI:
Phân tích chính sách tiền tệ của Việt Nam từ năm 2005 đến nay
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Văn Duy
Lớp : K41A KTNN
Huế tháng 11/2010
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Nền kinh tế nước ta đang tiến những bước vững chắc với việc cải cách kinh tế theo
hướng mở cửa. Điều đó được thực hiện trên tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất
cả các nước” và trên nguyên tắc “bình đẳng cùng có lợi”. Chủ trương đó sẽ giúp chúng
ta nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới, tham gia một cách ngày càng có hiệu
quả vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Quá trình đó diễn ra cùng với
sự phát triển ngày càng lớn mạnh của các mối giao lưu thương mại giữa Việt Nam với
các nước trên thế giới, để ổn định và phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng có lợi thì
chúng ta không thể không đề cập đến vai trò điều tiết nền kinh tế của chính phủ, một
trong những công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô mà ta quan tâm ở đây là chính sách tiền
tệ.
Sức mạnh của nền kinh tế được thể hiện như thế nào trên thị trường cũng như trên
những mặt khác, một nền kinh tế mạnh phải là một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
cao và ổn định và để đạt được điều đó thì chính sách tiền tệ đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc ổn định đồng tiền trong nước, ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua,
giảm lạm phát và thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
Giai đoạn trước đây, chính sách tiền tệ của chính phủ chỉ đơn thuần là hoạt động
phát hành tiền của ngân hàng trung ương (NHTW), hiện nay cùng với sự lớn mạnh của
hệ thống ngân hàng thì các công cụ của chính sách tiền tệ được tăng cường nhiều hơn,
có tác động lớn hơn tới nền kinh tế và vai trò của nó ngày càng quan trọng hơn. Từ thực
tế đó, em đã chọn đề tài “Phân tích chính sách tiền tệ của Việt Nam từ năm 2005 đến
nay ” để có thể hiểu rõ hơn về vai trò của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong chuyên đề là phương pháp chuyên gia,
chuyên khảo.
Do thời gian làm chuyên đề và kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn hạn chế
nên nội dung của chuyên đề không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự
giúp đỡ, góp ý của thầy để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
1
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. Cơ sở khoa học của chính sách nghiên cứu
1. Cơ sở lý luận
a. Khái niệm chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng
trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn
định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách
lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay
gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc
trao đổi trên thị trường ngoại hối.
b. Các công cụ của chính sách tiền tệ. Gồm có 6 công cụ sau:
• Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối
với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương
mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở
cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
• Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu
hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho
vay) của các Ngân hàng thương mại.
• Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán
giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có
giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó
tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn
đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
• Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện
chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay
giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản
xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể
những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương
nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất
định.
• Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành
chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng
của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng
Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng
cho nền kinh tế.
• Tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ
cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu
2
ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản
xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán
quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải
là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong
lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang
chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Cơ quan hữu trách về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định
kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái.
c. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền. Thông
thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế
ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng
hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là lượng
cung tiền.
d. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ:
Nói đến tiền là nói đến sự ổn định của tiền, mà sự ổn định của tiền liên quan mật
thiết và chịu sự ràng buộc bởi hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Thông qua các
thao tác của mình, Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất
cả các mặt: lưu lượng, chi phí, giá trị… Toàn bộ các thao tác có liên quan đến tiền của
NHTW luôn nằm trong hệ thống những ý đồ mang tính chiến lược mà người ta gọi là
chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tài chính tập trung vào thành phần, kết cấu các mức
chi phí, thuế khoá của Nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào việc
giải quyết khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng
khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng đáp ứng
vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo
những quỹ đạo đã định, kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại
(NHTM) và các tổ chức tín dụng khác, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý
nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại, hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định
tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá.
Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho nền kinh
tế. Việc cung ứng tiền có thể thông qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua hoạt
động của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán ngoại tệ)
và để điều tiết mức tiền cung ứng, NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau như
lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc…
Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên,
bởi nó được sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế
lại như máu lưu thông trong cơ thể con người. Không khó khăn nếu muốn chứng minh
về vấn đề này, nhất là trong giai đoạn gần đây - chính phản ứng của thị trường đối với
những thay đổi của chính sách tiền tệ sẽ là biểu hiện rõ nhất về những tác động của
chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế. Những thông tin hàng ngày, hàng giờ về sự suy
giảm và khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ “đại dịch” về cho vay bất động sản ở
3
Mỹ là minh chứng rõ nhất cho thấy những tác động từ chính sách tiền tệ không chỉ
mang lại sự tăng trưởng kinh tế mà còn có thể mang lại hiểm họa cho cả thế giới. Tình
hình kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đang có những dấu hiệu bất ổn,
ngoài những nguyên nhân khách quan, chủ quan; trong nước, ngoài nước thì trong đó,
chính sách tiền tệ cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng.
II. Kết quả và hiệu quả chính sách tiền tệ
1. Đối với năm 2005:
Năm 2005, tốc độ huy động vốn bằng VNĐ của các NHTM tăng nhanh hơn tốc độ
huy động vốn bằng ngoại tệ. Nguồn huy động tiền gửi tiết kiệm của dân tăng mạnh so
với năm 2004. Do đó, tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông đã giảm từ 23,1% vào tháng
12/2004 xuống còn 20,7% vào tháng 12/2005. Tuy nhiên, việc tiền gửi của doanh
nghiệp giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm, tăng nhẹ trở lại trong 5 tháng sau đó và tăng
mạnh vào tháng12 đã ít nhiều làm cho vốn khả dụng của các NHTM thiếu hụt trong một
số thời điểm, nhất là những tháng đầu năm. Nguyên nhân của tình hình này là do các
NHTM đã đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; lãi suất danh nghĩa của VNĐ vẫn
hấp dẫn hơn lãi suất ngoại tệ. Mặc dù chêch lệch giữa lãi suất tiền gửi VNĐ với lãi suất
tiền gửi USD đã giảm từ 4,8%/năm năm 2004 xuống 4,2%/năm năm 2005, song VNĐ
chỉ mất giá dưới 1% so với USD, nên lợi tức thu được từ tiền gửi VNĐ vẫn cao hơn từ
tiền gửi USD). Sự “trầm lắng” của thị trường BĐS cũng được xem là một nhân tố
khuyến khích tiền nhàn rỗi gửi vào NHTM.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2005 ước tính giảm 5-7 điểm phần trăm so với
năm 2004, trong đó tốc độ cho vay bằng ngoại tệ chậm hơn và tốc độ cho vay bằng
VNĐ nhanh hơn năm 2004. Việc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng chủ yếu diễn ra ở các
NHTM nhà nước, trong khi các NHTM cổ phần lại đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng
tín dụng so với năm 2004. Tăng trưởng tín dụng của khu vực NHTM nhà nước giảm
chủ yếu là do khu vực này tiếp tục cơ cấu lại nợ và nỗ lực nâng cao chất lượng tín dụng
(trong các năm trước tốc độ tăng trưởng tín dụng là quá cao). Để kiểm soát lạm phát và
hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ngày 20/4/2005 NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/2005/CT-
NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện đồng bộ
các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn. NHNN
chỉ tài trợ ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thiều hụt tạm thời vốn khả dụng của các NHTM
qua các nghiệp vụ của NHNN, chủ yếu là thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến kinh tế và tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã điều
hành khá linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, điều tiết kịp thời cung- cầu vốn trên
thị trường tiền tệ và nhu cầu thiếu hụt vốn khả dụng của các NHTM.
Trong năm 2005, nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục là kênh chủ yếu điều tiết vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng. Doanh số giao dịch của nghiệp vụ thị trưởng mở đạt
102.511 tỷ VNĐ, tăng 65,5% so với năm 2004. Trong những tháng đầu năm 2005, đặc
biệt là dịp Tết nguyên đán, NHNN đã kịp thời cung ứng vốn ngắn hạn cho các NHTM
để đáp ứng kịp thời nhu cầu rút tiền của khách hàng. Trong thời gian này, nghiệp vụ thị
trường mở được thực hiện hàng ngày, với doanh số tăng hơn 200% so với mức tăng
126% của cùng kỳ năm 2004.
4
Ngân hàng Nhà nước cũng thực hiện điều chỉnh tăng các mức lãi suất chỉ đạo 3 lần
trong năm 2005. Cụ thể là ngay trong tháng 1/2005 NHNN đã tăng lãi suất cơ bản từ
7,5%/năm lên 7,8%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 5%/năm lên 5,5%/năm, và lãi suất tái
chiết khấu từ 3%/năm lên 3,5%/năm. Việc điều chỉnh tăng các mức lãi suất chỉ đạo ngay
từ đầu năm là nhằm thắt chăt hơn tiền tệ, qua đó kiểm soát lạm phát đang có xu hướng
gia tăng. Tiếp đến, vào tháng 3/2005, NHNN điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và tái
chiết khấu tương ứng lên 6%/năm và 4%/năm. Cuối cùng, vào tháng 12/2005, NHNN
lại tăng lãi suất cơ bản từ 7,8%/năm lên 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 6%/năm lên
6,5%/năm và lãi suất tái chiết khấu từ 4%/năm lên 4,5%/năm.
Diễn biến tỷ giá, lãi suất và hoạt động thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 2005
có những đặc điểm sau:
Về tỷ giá: Như đề cập ở trên, tỷ giá tương đối ổn định, mà một nguyên nhân chủ
yếu là do NHNN vẫn chủ trương dùng “neo” tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Diễn biến tỷ
giá xem ra vẫn phù hợp với quan hệ cung cầu. Tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trên
thị trường liên ngân hàng chênh lệch không đáng kể. NHNN mua được một lượng ngoại
tệ nhiều hơn mức bán ra, qua đó tăng được dự trữ ngoại tệ.
Ngoài mục tiêu kiểm soát lạm phát, NHNN còn tính đến tác động tiêu cực có thể
của việc tăng tỷ giá danh nghĩa VNĐ/USD (VNĐ mất giá so với USD) đối với sự ổn
định thị trường tiền tệ và sản xuất (do đến hơn 97% giá trị hàng hóa nhập khẩu là
nguyên nhiên vật liệu và máy móc, thiết bị).
Về lãi suất: Lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và 12 tháng phổ biến ở mức
0,63%/tháng (7,56%/năm) và 0,7%/tháng (8,4%/năm), tăng khoảng 0,07-0,1%/tháng
(0,84%/năm-1,2%/năm). Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 0,8-1,03%/tháng
(9,6%-12,39%/năm) tăng khoảng 0,08-0,1%/tháng (0,96%-1,2%/năm). Lãi suất cho vay
trung dài hạn phổ biến ở mức 0,9%-1,35%/tháng tăng khoảng 0,1%-0,25%/tháng (1,2%-
3%/năm).
Lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ trong 10 tháng đầu năm 2005 tăng khoảng
15,8% so với tháng 12/2004. Nguyên ngân của sự biến động này là do: (1) lạm phát còn
cao; (2) tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các quý đều tăng; (3) lãi suất trên thị trường quốc
tế có xu hướng tăng; (4) NHNN điều chỉnh tăng lãi suất; và (5) các NHTM cạnh tranh
giữ thị phần. Tuy chưa có nghiên cứu cụ thể, nhưng thực tế cho thấy sự cạnh tranh để
giữ thị phần giữa các NHTM có tác động không nhỏ đến sự biến động lãi suất trong
năm 2005.
Lãi suất huy động ngoại tệ (USD) tăng mạnh từ mức 2,75%/năm lên 4,2%/năm đối
với kỳ hạn 12 tháng. Các kỳ hạn khác cũng biến động tương ứng. Lãi suất cho vay tăng
khoảng 2-2,5 điểm phần trăm/năm (lãi suất cho vay ngắn hạn hiện nay phổ biến ở mức
5- 6,2%/năm, lãi suất cho vay trung dài hạn phổ biến ở mức 5,5-7,2%/năm). Lãi suất
ngoại tệ tăng chủ yếu do FED điều chỉnh tăng lãi suất và các NHTM cạnh tranh giữ thị
phần.
Về hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: Tổng giá trị giao dịch giữa các
ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng năm 2005 tăng khoảng 27% so với năm 2004,
trong đó: các giao dịch giao ngay chiếm tỷ trọng khoảng 89,1% tổng giá trị giao dịch và
tăng khoảng 50% so với năm 2004; giao dịch hoán đổi chiếm tỷ trọng 4,18%, tăng hơn
5
1000% so với năm 2004; và giao dịch kỳ hạn chiếm tỷ trong 6,72%, giảm khoảng trên
30% so với năm 2004. Nhìn chung, hoạt động thị trường trở nên sôi động hơn, nhất là
đối với nghiệp vụ hoán đổi.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện tốt vai trò người mua, bán cuối cùng trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, góp phần quan trọng giữ ổn định tỷ giá. Năm 2005,
NHNN bán ngoại tệ cho các NHTM chủ yếu là để phục vụ nhu cầu nhập khẩu xăng dầu,
phân bón. Do giá xăng dầu tăng nên lượng ngoại tệ NHNN mua từ các NHTM ít hơn
lượng bán ra cho các NHTM, nhưng NHNN lại mua được nhiều ngoại tệ từ Bộ Tài
chính và các tổ chức tín dụng. Tính chung từ các nguồn, mức mua (ròng) của NHNN
tăng gần 3 lần so với năm 2004, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ.
Nhìn chung, chính sách tiền tệ năm 2005 đã có những đóng góp tích cực nhất định
cho việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cũng còn một
số vấn đề chính sách cần được lưu ý.
Trước hết, thị trường tín dụng của các khu vực NHTM nhà nước và cổ phần năm
2005 cho thấy lãi suất cho vay tăng, song ít có tác động hạn chế cầu tín dụng trong bối
cảnh tăng trưởng kinh tế nhanh và lãi suất thực thấp, mà chỉ chủ yếu làm dịch chuyển
phần nào cầu tín dụng bằng ngoại tệ sang cầu tín dụng bằng VNĐ (lưu ý là tốc độ tăng
tín dụng bằng ngoại tệ năm 2004 cao hơn nhiều so với năm 2003 và cũng cao hơn tốc
độ tăng tín dụng bằng VNĐ). Điều này phần nào phản ánh hiệu lực chính sách lãi suất
của NHNN còn hạn chế, do thị trường tiền tệ chưa hoàn thiện và thị trường vốn còn
không ít méo mó.
Thêm vào đó, việc điều tiết cung - cầu về vốn và lãi suất của NHNN bị hạn chế do
nhiều luồng vốn còn nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, đặc biệt là luồng chu chuyển
vốn của khu vực chính phủ. Một ví dụ là năm 2005 tiền gửi ngân sách tại NHNN tăng
nhiều, qua đó đã rút một lượng tiền không nhỏ khỏi lưu thông, gây áp lực tăng lãi suất
trên thị trường tiền tệ (đến tháng 9/2005 NHNN bơm tiền qua các kênh tăng khoảng 9%,
nhưng thực tế tiền cơ bản chỉ tăng 2,4%). Mặt khác, một lượng tiền gửi của Kho bạc
nhà nước được gửi tại các NHTM đang phát huy khả năng tạo tiền mà NHNN khó có
thể tính toán chính xác để có thể chủ động điều tiết tiền tệ theo mục tiêu đã định.
Một vấn đề nữa là NHNN cũng đã nhận thức rõ ràng hơn rằng việc sử dụng các
biện pháp can thiệp để duy trì tỷ giá ổn định về lâu dài sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, NHNN dường
như vẫn chưa có đủ sự tự chủ cần thiết để xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ
đủ hiệu lực và một chính sách tỷ giá linh hoạt hơn. Trên thực tế, NHNN đã thiên về mục
tiêu ngắn hạn hơn là cân nhắc đầy đủ hơn đến các mục tiêu dài hạn. Điều này đang hạn
chế khả năng điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trước những
biến động kinh tế vĩ mô, nhất là trong bối cảnh lạm phát có khả năng còn đứng ở mức
tương đối cao trong thời gian tới.
2. Đối với năm 2007:
Ngay từ đầu năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến chỉ đạo về
nhiệm vụ ngân hàng năm 2007 là “Yêu cầu đặt ra là phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng
kinh tế cao ở mức 8,5%. Ngành Ngân hàng cần phải tranh thủ thời cơ, đóng góp tích cực
6
vào việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, hiệu quả. Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) cần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của
NHNN, làm tốt hơn công tác tham mưu cho Chính phủ và triển khai điều hành tốt chính
sách tiền tệ (CSTT) để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát; vận hành các công
cụ CSTT theo cơ chế thị trường; đồng thời, có những cảnh báo sớm về diễn biến thị
trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ vỡ trên tổng thể”.
Các giải pháp điều hành CSTT
Thực hiện ý kiến chỉ đạo nêu trên, NHNN trong thực thi CSTT đã bám sát mục tiêu
hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ
thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế cao, bền vững trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều
thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức. Trên cơ sở đánh giá và dự báo kịp thời chiều
hướng biến động của kinh tế tiền tệ trong nước và quốc tế, trong năm 2007, NHNN đã
thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:
Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất
lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007,
NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền
cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế
sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời
cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ
dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh
toán (TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối lớn
vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn
mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất
thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để
hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín
dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng
cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn
định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ
01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD
của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến
trình hội nhập quốc tế.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết
khấu trong hạn mức phân bổ.
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị
trường tài chính.
7