Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Thực trạng kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo dường tuýp 2 điều trị ngoại trú, cư trú tại phường phan đình phùng thành phố thái nguyên và một số yếu tố liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

NGUYỄN THANH HÒA

THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT Ở
BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 ĐIỀU
TRỊ NGOẠI TRÚ, CƯ TRÚ TẠI PHƯỜNG PHAN
ĐÌNH PHÙNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




THÁI NGUYÊN – NĂM 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

NGUYỄN THANH HÒA

THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT Ở
BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 ĐIỀU
TRỊ NGOẠI TRÚ, CƯ TRÚ TẠI PHƯỜNG PHAN
ĐÌNH PHÙNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN VÀ
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN


Chuyên ngành: Y học Dự phòng
Mã số: 87.20.163

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. PHẠM NGỌC MINH
2. TS. NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




THÁI NGUYÊN – NĂM 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thanh Hòa, học viên lớp cao học Khóa 22 chuyên ngành
Y học dự phòng, Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp hoàn thành dưới sự hướng dẫn
của TS. Phạm Ngọc Minh và TS. Nguyễn Thị Tố Uyên.
2. Công trình nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào
khác đã được công bố tại Việt Nam.
Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nơi nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những cam kết này.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Người viết cam đoan

Nguyễn Thanh Hòa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành nhờ sự nỗ lực của tôi và sự giúp đỡ của
nhiều cá nhân và tập thể. Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ
lòng cảm ơn tới: Đảng ủy - Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học và Khoa
Y tế Công cộng trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Phạm Ngọc Minh và TS.
Nguyễn Thị Tố Uyên, giảng viên trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên. Là
những người thầy không chỉ trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình phát triển ý tưởng, nghiên cứu y văn, xây dựng và hoàn thiện luận văn này
mà còn luôn chỉ bảo, dạy dỗ, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình
học tập.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn các thầy cô giảng viên khoa Y tế Công cộng,
cùng toàn thể giảng viên trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên đã tận tình
truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu và giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ
học tập của mình.
Cuối cùng, với lòng biết ơn sâu sắc nhất tôi gửi lời cảm ơn bạn bè, đồng
nghiệp đặc biệt là gia đình đã luôn động viên, khích lệ và là nguồn động lực to
lớn giúp tôi trong những tháng ngày học tập, nghiên cứu để hoàn thành khoá
học này.

Một lần nữa xin được trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả: Nguyễn Thanh Hòa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BMI

Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)

ĐTĐ

Đái tháo đường

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu

FINDRISC Finnish Diabetes Risk Score (Điểm rủi ro bệnh tiểu đường Phần Lan)
FPG

Fasting Plasma Glucose (Đường máu lúc đói)

IDF


International Diabetes Federation (Liên đoàn Đái tháo đường thế giới)

JNC

United States, Joint National Committee (Liên uỷ ban Quốc gia Hoa Kỳ)

KSĐH

Kiểm soát đường huyết

KTC

Khoảng tin cậy

VĐTL

Vận động thể lực

WHO

World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................. 11
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN ............................................................................. 3

1.1. Kiểm soát đường huyết và tầm quan trọng của kiểm soát đường huyết .... 3
1.2. Thực trạng kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường trên thế
giới và Việt Nam ............................................................................................... 7
1.3. Một số yếu tố liên quan đến kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo
đường tuýp 2 ................................................................................................... 13
1.4. Vài nét về địa bàn nghiên cứu .................................................................. 18
CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 20
2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 20
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu............................................................ 20
2.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 20
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu ......................................................... 20
2.5. Chỉ tiêu nghiên cứu .................................................................................. 21
2.6. Định nghĩa biến số ................................................................................... 22
2.7. Công cụ thu thập số liệu ........................................................................... 28
2.8. Kỹ thuật thu thập số liệu .......................................................................... 28
2.9. Quản lý và phân tích số liệu ..................................................................... 30
2.10. Đạo đức nghiên cứu ............................................................................... 31
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................................... 32
3.1. Thực trạng kiểm soát đường huyết của đối tượng nghiên cứu ................ 32
3.2. Một số yếu tố liên quan đến kiểm soát đường huyết ............................... 38
CHƯƠNG IV: BÀN LUẬN............................................................................ 46
4.1. Kết quả kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 điều
trị ngoại trú, cư trú tại phường Phan Đình Phùng thành phố Thái Nguyên .... 46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




4.2. Một số yếu tố liên quan đến kiểm soát đường huyết của bệnh nhân Đái

tháo đường tuýp 2 điều trị ngoại trú, cư trú tại phường Phan Đình Phùng
thành phố Thái Nguyên ................................................................................. 523
4.3. Hạn chế của đề tài .................................................................................... 60
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 60
KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................. 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân loại thể trạng dinh dưỡng dựa theo thang phân loại của
Tổ chức Y tế Thế giới dành cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương ............. 30
Bảng 2.2. Phân độ tăng huyết áp theo JNC VIII-2014 ở người lớn ............... 30
Bảng 3.1. Một số đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu................ 32
Bảng 3.2. Đặc điểm trình độ học vấn, nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu ...... 33
Bảng 3.3. Đặc điểm trạng thái lo âu, trầm cảm của đối tượng nghiên cứu .... 33
Bảng 3.4. Kiến thức của đối tượng nghiên cứu về bệnh đái tháo đường
và kiểm soát đường huyết .............................................................................. 34
Bảng 3.5. Thái độ của đối tượng nghiên cứu về bệnh đái tháo đường và
kiểm soát đường huyết ................................................................................... 35
Bảng 3.6. Đặc điểm tuân thủ chế độ thuốc của đối tượng nghiên cứu
theo thang điểm Morisky ............................................................................... 35
Bảng 3.7. Mức độ kiểm soát đường huyết của đối tượng nghiên cứu theo
chỉ số HbA1c và glucose máu lúc đói ............................................................. 36
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa kiến thức với mức độ kiểm soát đường huyết.
......................................................................................................................... 38

Bảng 3.9. Mối liên quan giữa thái độ với mức độ kiểm soát đường huyết ... 38
Bảng 3.10. Mối liên quan giữa tuân thủ chế độ thuốc với mức độ kiểm
soát đường huyết ............................................................................................ 39
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa độ tuổi với mức độ kiểm soát đường huyết ..
......................................................................................................................... 39
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa thời gian mắc bệnh với mức độ kiểm
soát đường huyết ............................................................................................. 40
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể (BMI) với mức độ kiểm
soát đường huyết ............................................................................................. 40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Bảng 3.14. Mối liên quan giữa tiền sử gia đình với mức độ kiểm soát
đường huyết ..................................................................................................... 41
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa hành vi sử dụng rượu, bia và hút thuốc lá
với mức độ kiểm soát đường huyết ................................................................. 41
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa phương pháp sử dụng thuốc với mức độ
kiểm soát đường huyết .................................................................................... 42
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa tình trạng trầm cảm, lo âu với mức độ
kiểm soát đường huyết .................................................................................... 42
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa vận động thể lực với mức độ kiểm soát
đường huyết ..................................................................................................... 43
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa thời gian ngủ với mức độ kiểm soát
đường huyết ..................................................................................................... 43
Bảng 3.20. Mối liên quan của một số loại thực phẩm đến mức độ kiểm
soát đường huyết ............................................................................................ 44


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Hình 1. Bản đồ hành chính tỉnh Thái Nguyên ................................................ 19
Hình 2: Biểu đồ Venn về tỷ lệ kiểm soát đường huyết chưa tốt theo hai
tiêu chí ............................................................................................................. 37
Biểu đồ 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo kiến thức ............................ 34
Biểu đồ 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo mức độ tuân thủ thuốc
điều trị .............................................................................................................. 36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là một bệnh mạn tính không lây liên quan chủ yếu đến
dinh dưỡng, hành vi và lối sống. Hiện nay, ĐTĐ được ví như “đại dịch” toàn
cầu, bệnh đã và đang trở thành một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng
khi số lượng bệnh nhân không ngừng gia tăng, đặc biệt ở các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam.
Theo thống kê của Liên đoàn Đái tháo đường thế giới (IDF), năm 2017 toàn
thế giới có 451 triệu người bị ĐTĐ (ở độ tuổi từ 18-99), và dự báo tới năm 2045
có khoảng 693 triệu người mắc ĐTĐ [58]. Việt Nam là một trong những quốc
gia có tỷ lệ gia tăng bệnh ĐTĐ nhanh nhất thế giới, khoảng 8%-10%/năm.

Nghiên cứu năm 2012 của Bệnh viện Nội tiết trung ương cho thấy tỷ lệ mắc
ĐTĐ trên toàn quốc ở người trưởng thành là 5,42%, tỷ lệ ĐTĐ chưa được chẩn
đoán trong cộng đồng là 63,6% [2]. Theo IDF, tỷ lệ mắc ĐTĐ tại Việt Nam năm
2019 là 5,7% [61].
Đái tháo đường hiện nay vẫn là bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn và có
thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Các biến chứng này gây ảnh hưởng
trầm trọng đến cuộc sống của người bệnh, làm suy giảm sức lao động, tăng
gánh nặng cho gia đình và xã hội, tăng chi phí điều trị bệnh, tăng tỷ lệ tử vong
và tàn phế. Theo IDF, mỗi năm có khoảng 3,2 triệu người chết vì các bệnh liên
quan tới ĐTĐ. Khoảng 12% chi phí y tế trên toàn cầu những năm gần đây là
chi cho người bệnh bị ĐTĐ, năm 2017 là 727 tỷ USD và ước tính đến năm
2045 là 776 tỷ USD [58].
Tuy nhiên, biến chứng của bệnh ĐTĐ hoàn toàn có thể dự phòng và làm
chậm tiến triển nếu đường huyết của bệnh nhân được kiểm soát tốt. Đã có nhiều
nghiên cứu về KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ. Ở các nghiên cứu này, chỉ số HbA1c
được sử dụng để đánh giá mức độ KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ. Theo nghiên cứu
của Riyadh và cộng sự (2018) ở Ả Rập Xê Út cho thấy tỷ lệ KSĐH chưa tốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




2

(HbA1c ≥7%) là 74,9% [53]. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị
Ngọc Lan (2011) tỷ lệ KSĐH chưa tốt là 70,6% [8]. Nghiên cứu của Lê Xuân
Khởi (2012) tỷ lệ KSĐH chưa tốt (HbA1c ≥7,5%) lên tới 80,5% [7].
Có nhiều yếu tố liên quan đến mức độ KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ. Các yếu
tố tác động trực tiếp đến việc KSĐH của bệnh nhân được báo cáo đó là: Hành
vi tuân thủ điều trị của bệnh nhân [20], hiệu quả quản lý và điều trị bệnh của

cơ sở y tế [21], ngoài ra nó còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường
nhất là môi trường xã hội và các yếu tố sinh học như tiền sử gia đình về bệnh
ĐTĐ [52].
Tỉnh Thái Nguyên những năm gần đây đời sống của người dân được nâng
cao hơn, kèm theo đó tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ cũng ngày càng gia tăng. Hiện nay,
số lượng bệnh nhân ĐTĐ đang được quản lý điều trị ngoại trú trên địa bàn thành
phố Thái Nguyên khoảng trên 3.000 bệnh nhân [11]. Qua điều tra sổ theo dõi
điều trị bệnh ĐTĐ tại Khoa Khám bệnh Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên,
chỉ riêng phường Phan Đình Phùng, số bệnh nhân ĐTĐ đang được quản lý điều
trị tại đây là khoảng hơn 350 bệnh nhân. Tuy nhiên, nghiên cứu về KSĐH và
các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ĐTĐ tại cộng đồng còn chưa được quan tâm
nhiều. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng kiểm soát
đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 điều trị ngoại trú, cư trú
tại phường Phan Đình Phùng thành phố Thái Nguyên và một số yếu tố liên
quan” với mục tiêu nghiên cứu như sau:
1. Mô tả thực trạng kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 điều
trị ngoại trú, cư trú tại phường Phan Đình Phùng thành phố Thái Nguyên năm
2019.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng kiểm soát đường huyết
ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 điều trị ngoại trú, cư trú tại phường Phan Đình Phùng
thành phố Thái Nguyên năm 2019.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




3

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN
1.1. Kiểm soát đường huyết và tầm quan trọng của kiểm soát đường huyết
1.1.1. Chỉ số HbA1c
HbA1c được hình thành do sự kết hợp giữa glucose và gốc NH2 của
valine ở đầu tận của chuỗi betaglobin của huyết sắc tố, phản ứng này không
cần men và được gọi là phản ứng glycosyl hóa (glycosylation). Tốc độ
glycosyl hóa của huyết sắc tố tùy thuộc nồng độ glucose trong máu và HbA1c
tồn tại trong suốt đời sống của hồng cầu (khoảng 120 ngày). Hồng cầu mới
hình thành không chứa HbA1c và hồng cầu sắp bị đào thải chứa nhiều HbA1c
nhất.
HbA1c có mối tương quan khá chặt với nồng độ glucose máu lúc đói [6].
Có nghĩa là kiểm soát tốt glucose máu sẽ làm giảm chỉ số HbA1c. Trong vòng
2 tháng nếu nồng độ glucose máu tăng cao thì hàm lượng HbA1c có thể tăng
lên đến 12-18%. Khi HbA1c tăng 1%, glucose máu trung bình sẽ tăng khoảng
29mg/dl. Người bệnh chỉ cần thay đối chế độ ăn trong một vài ngày đã có thể
giảm đường huyết, nhưng HbA1c chỉ giảm khi bệnh nhân tuân thủ chế độ điều
trị trong cả quá trình 2 tháng. Vì vậy, HbA1c là chỉ số trung thực nhất để đánh
giá kết quả điều trị, tiên lượng biến chứng vì biến chứng là kết quả của cả một
quá trình diễn biến kéo dài, còn theo dõi đường máu lúc đói cho biết lượng
đường trong máu ngay tại thời điểm xét nghiệm. Ưu điểm của xét nghiệm
HbA1c là có thể được thực hiện mà không cần nhịn đói và kết quả phản ánh
mức độ glucose máu trung bình trong 2 tháng gần nhất.
Theo quyết định của Bộ Y tế về “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị đái tháo
đường tuýp 2” (2017), sử dụng chỉ số globulin màng (HbA1c) để đánh giá mức
độ KSĐH của bệnh nhân ĐTĐ. Bệnh nhân là người trưởng thành, không có
thai: KSĐH tốt khi HbA1c <7,0%, glucose máu lúc đói <7,2mmol/l [2]. So với
chỉ số HbA1c, chỉ số gluocse máu lúc đói là xét nghiện được thực hiện thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





4

xuyên ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 vì chi phí phù hợp. Việc dựa vào chỉ số glucose
máu lúc đói để đánh giá mức độ kiểm soát đường huyết có ưu điểm là có thể
làm xét nghiệm tại thời điểm thu thập số liệu để đánh giá bệnh nhân KSĐH tốt
hay không tốt. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là glucose máu lúc đói dễ dàng bị
thay đổi do tác động của chế độ ăn uống. Do vậy, sẽ không phản ánh được đầy
đủ việc KSĐH của đối tượng nghiên cứu.
Chính vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng chỉ số HbA1c để
đánh giá mức độ KSĐH và các yếu tố liên quan đến KSĐH của đối tượng
nghiên cứu.
1.1.2. Tầm quan trọng của kiểm soát đường huyết
Bệnh đái tháo đường có thể gây ra nhiều biến chứng khác nhau. Theo
nghiên cứu của Bế Thu Hà (2009), biến chứng tim mạch là hay gặp nhất ở bệnh
nhân ĐTĐ chiếm 42,8%, tiếp theo là biến chứng tại thận với tỷ lệ 39,6%, ngoài
ra còn một số biến chứng khác như biến chứng tại mắt, thần kinh, hô hấp và da
[4]. Nghiên cứu của Lê Xuân Khởi (2012) cũng cho thấy biến chứng tim mạch
chiếm tỷ lệ cao nhất ở bệnh nhân ĐTĐ (18,7%), biến chứng tại mắt (18,3%),
tại thận (16,4%) [7]. Việc KSĐH tốt sẽ giúp ngăn ngừa sự phát sinh và tiến
triển của các biến chứng này. Theo nghiên cứu của Stratton và cộng sự (2000),
cứ giảm 1% HbA1c (chỉ số đường huyết trung bình trong vòng 2-3 tháng) sẽ
giúp giảm nguy cơ biến chứng dài hạn, cụ thể:
- Giảm 43% biến chứng cắt cụt chi hoặc tử vong do bệnh mạch máu
ngoại vi.
- Giảm 37% biến chứng mạch máu nhỏ (bệnh thận và mù).
- Giảm 21% tử vong do ĐTĐ.
- Giảm 14% biến chứng tim mạch.
- Giảm 12% đột quỵ [49].

Như vậy, việc KSĐH ở mức tối ưu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
bệnh nhân ĐTĐ. Và nhiệm vụ của nghành Y tế nói chung, của những cán bộ y
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




5

tế tại tuyến y tế cơ sở nói riêng là làm như thế nào để giúp bệnh nhân ĐTĐ có
thể thực hiện những hành vi tốt trong việc KSĐH tại cộng đồng.
1.1.3. Biện pháp kiểm soát đường huyết
Kiểm soát đường huyết là việc bệnh nhân ĐTĐ áp dụng các biện pháp
giúp đường huyết duy trì ổn định theo mục tiêu điều trị ở bệnh nhân ĐTĐ. Mục
tiêu điều trị cần đạt ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 là chỉ số HbA1c <7,0%, glucose
huyết tương mao mạch lúc đói, trước ăn là 80-130mmol/l (4,4-7,2mmol/l), đỉnh
glucose huyết tương mao mạch sau ăn 1-2 giờ là <180mg/dl (10,0mmol/l) [2].
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế về chẩn đoán và điều trị bệnh ĐTĐ tuýp 2 năm
2017, để duy trì đường huyết ổn định, tăng cường hiệu quả điều trị bệnh giúp
cho việc KSĐH được tốt thì bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 cần phải thực hiện đồng
thời các nội dung sau:
1.1.3.1. Thay đổi lối sống
Thay đổi lối sống hay điều trị không dùng thuốc ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp
2 bao gồm luyện tập thể lực và chế độ dinh dưỡng:
* Luyện tập thể lực
Việc luyện tập thể lực ở bệnh nhân ĐTĐ có vai trò quan trọng đặc biệt đối
với những bệnh nhân có tình trạng thừa cân, béo phì. Vận động thể lực sẽ giúp
cân nặng của bệnh nhân trở về mức bình thường.
- Khi hướng dẫn bệnh nhân ĐTĐ luyện tập thể lực, trước tiên cần kiểm tra
biến chứng tim mạch, mắt, thần kinh, biến dạng chân trước khi luyện tập và đo

huyết áp, tần số tim. Không luyện tập gắng sức khi glucose huyết > 250-270
mg/dL và ceton dương tính.
- Loại hình luyện tập thông dụng và dễ áp dụng nhất đối với bệnh nhân
ĐTĐ là đi bộ 150 phút mỗi tuần (hoặc 30 phút mỗi ngày), không nên ngưng
luyện tập 2 ngày liên tiếp. Mỗi tuần nên tập kháng lực 2-3 lần (kéo dây, nâng
tạ) tùy tình trạng cụ thể của từng bệnh nhân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




6

- Người già, đau khớp có thể chia bài tập thành nhiều lần trong ngày, thí
dụ đi bộ sau 3 bữa ăn, mỗi lần 10-15 phút. Người còn trẻ nên tập khoảng khoảng
60 phút mỗi ngày, tập kháng lực ít nhất 3 lần mỗi tuần.
* Chế độ dinh dưỡng
Dinh dưỡng cần được áp dụng mềm dẻo theo thói quen ăn uống của bệnh
nhân, và tùy vào các thức ăn sẵn có tại từng vùng miền. Tốt nhất nên có tư vấn
của bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng.
Chi tiết về dinh dưỡng sẽ được thiết lập cho từng bệnh nhân tùy tình trạng
bệnh, loại hình hoạt động, các bệnh lý, biến chứng đi kèm.
Các nguyên tắc chung về dinh dưỡng được khuyến cáo cho mọi bệnh nhân
ĐTĐ bao gồm:
- Bệnh nhân béo phì, thừa cân cần giảm cân, ít nhất 3-7% so với cân nặng
hiện tại.
- Nên dùng các loại carbohydrat hấp thu chậm có nhiều chất xơ, không
chà xát kỹ như gạo lứt, bánh mì đen, nui còn chứa nhiều chất xơ...
- Đạm khoảng 1-1,5 gam/kg cân nặng/ngày ở người không suy chức năng

thận. Nên ăn cá ít nhất 3 lần/tuần. Người ăn chay kéo dài có thể bổ sung nguồn
đạm từ các loại đậu (đậu phụ, đậu đen, đậu đỏ).
- Nên chú trọng dùng các loại mỡ có chứa acid béo không no một nối đôi
hoặc nhiều nối đôi như dầu ô liu, dầu mè, dầu lạc, mỡ cá. Cần tránh các loại
mỡ trung chuyển (mỡ trans), phát sinh khi ăn thức ăn rán, chiên ngập dầu mỡ.
- Giảm muối trong bữa ăn, còn khoảng 2300 mg Natri mỗi ngày.
- Chất xơ ít nhất 15 gam mỗi ngày, nên sử dụng chất xơ từ các loại rau,
quả ít ngọt.
- Các yếu tố vi lượng: nên chú ý bổ sung các yếu tố vi lượng nếu thiếu, thí
dụ sắt ở bệnh nhân ăn chay kéo dài. Dùng Metformin lâu ngày có thể gây thiếu
sinh tố B12, nên chú ý đến tình trạng này nếu bệnh nhân có thiếu máu hoặc
triệu chứng bệnh lý thần kinh ngoại vi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




7

- Uống rượu điều độ: một lon bia (330 ml)/ngày, rượu vang đỏ khoảng
150-200ml/ngày.
- Ngưng hút thuốc.
- Các chất tạo vị ngọt: như đường bắp, aspartame, saccharin có nhiều bằng
chứng trái ngược. Do đó nếu sử dụng cũng cần hạn chế đến mức tối thiểu.
1.1.3.2. Điều trị đái tháo đường bằng thuốc
- Các nhóm thuốc hạ glucose huyết đường uống và thuốc dạng tiêm không
thuộc nhóm insulin.
- Insulin: Insulin được sử dụng ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 1 và cả ĐTĐ tuýp
2 khi có triệu chứng thiếu insulin hoặc không kiểm soát được glucose máu dù
đã ăn uống luyện tập và phối hợp nhiều loại thuốc viên theo đúng chỉ dẫn.

Ngoài ra ĐTĐ tuýp 2 khi mới chẩn đoán nếu glucose máu tăng rất cao cũng có
thể dùng insulin để ổn định glucose máu, sau đó sẽ dùng các loại thuốc điều trị
tăng glucose máu khác.
1.2. Thực trạng kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường trên
thế giới và Việt Nam
1.2.1. Thực trạng kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường trên
thế giới
Theo hướng dẫn điều trị bệnh đái tháo đường tuýp 2, bệnh nhân cần phải
thay đối lối sống bao gồm vận động thể lực và dinh dưỡng kết hợp với tuân thủ
chế độ thuốc điều trị theo chỉ định của bác sĩ [2]. Kiểm soát đường huyết tốt
(HbA1c <7,0% và glucose máu lúc đói 4,7-7,2mmol/l) là một trong những mục
tiêu điều trị của bệnh ĐTĐ. Thực tế, KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ là một vấn đề
đang ngày càng được quan tâm trên thế giới vì tỷ lệ KSĐH tốt còn thấp mặc dù
đã có những hướng dẫn và khuyến cáo cập nhật hàng năm.
Theo dữ liệu điều tra quốc gia về dinh dưỡng và sức khỏe của Mỹ, tỷ lệ bệnh
nhân mắc bệnh ĐTĐ đạt HbA1c <7,0% trong thập kỷ qua không được cải thiện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




8

Chỉ có khoảng 40% bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ tuýp 1 hoặc tuýp 2 trong dân số
đạt được HbA1c <7,0% trong khoảng thời gian từ 2007 đến 2014 [48].
Deborah Taira Juarez và cộng sự (2012), nghiên cứu về sự thay đổi mức độ
KSĐH trên bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 ở Isfahan, Iran từ năm 2006 đến năm 2009 cho
thấy trong khoảng thời gian đó KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 chưa được cải
thiện, tỷ lệ bệnh nhân KSĐH chưa tốt (HbA1c >7,0%) ở lần khám gần nhất chiếm

64,4% [71]. Năm 2013, nghiên cứu trên bệnh nhân ĐTĐ điều trị bằng insulin tại
bệnh viện đại học Jimma, Tây Nam Ethiopia cho kết quả tỷ lệ KSĐH chưa tốt còn
rất cao (81,7%) và ở những bệnh nhân có mức độ KSĐH chưa tốt này đã mắc thêm
các biến chứng trong quá trình điều trị bệnh [43]. Một nghiên cứu hồi cứu của Lipska
và cộng sự (2013) về KSĐH từ năm 2006 đến năm 2013 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân
ĐTĐ có KSĐH tốt (HbA1c <7,0%) có xu hướng giảm từ 56,4% xuống 54,2%
(p<0,001) và tỷ lệ bệnh nhân có HbA1c ≥9,0% tăng từ 9,9% lên 12,2% (p<0,001)
[37]. Rõ ràng KSĐH là vấn đề được quan tâm và có những biện pháp để cải thiện,
nhưng giường hiệu quả đạt được còn hạn chế.
Nghiên cứu của Appolinary R Kamuhabwa và Emmanuel Charles (2014)
trên 469 bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 tại bệnh viện ở Dar es Salaam, Tanzani cho kết
quả có đến 69,7% bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 có mức KSĐH chưa tốt. Ở nghiên
cứu này, mức độ KSĐH ở bệnh nhân được đánh giá dựa vào chỉ số đường máu
lúc đói (FBG ≥7,2mmol/l). Bệnh nhân có KSĐH chưa tốt tập trung ở nhóm
bệnh nhân không có bảo hiểm y tế (71,7%), bệnh nhân nữ ở độ tuổi 40-59 tuổi
có tỷ lệ KSĐH chưa tốt (76,1%) cao hơn so với nam cùng nhóm tuổi (65,4%)
[57].
Kết quả nghiên cứu của Somayyeh Firouzi tại Malaysia cho thấy nồng độ
HbA1c trung bình của các bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 là 7,6% ±1,4%, giá trị này
nằm ở mức kiểm soát chưa tốt [47]. Một nghiên cứu của Alioune Camara và
cộng sự (2015) về KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 ở phía Nam Sahara. Nghiên
cứu này được thực hiện trên 1.267 bệnh nhân, trong đó tỷ lệ ĐTĐ tuýp 2 ở nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




9

là 61% và độ tuổi trung bình của ĐTNC là 58 tuổi. Nghiên cứu cho thấy 939

(74%) có HbA1c >7,0% trong đó bao gồm 388 (41%) có HbA1c >10,0% [55].
Nghiên cứu của Shariff Ghazali Sazlina và cộng sự về dự báo KSĐH ở
bệnh nhân lớn tuổi bị ĐTĐ tuýp 2 ở Malaysia (2015). Trong số 21.336 bệnh
nhân mắc ĐTĐ tuýp 2 ở độ tuổi 60 tuổi, có 38,4% có mức HbA1c ≥8,0%. Hầu
hết bệnh nhân ở độ tuổi 60-69 tuổi, nữ chiếm 57,3%, có thời gian bị ĐTĐ tuýp
2 từ 5-10 năm (39,4%) [65].
Nghiên cứu của Mahmoud Radwan và cộng sự (2018) về KSĐH ở bệnh
nhân chăm sóc ban đầu bị ĐTĐ tuýp 2 ở Dải Gaza, Palestine. Nghiên cứu được
thực hiện trên 369 bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 từ 4 trung tâm y tế ở dải Gaza cho
kết quả như sau: Giá trị trung bình của HbA1c là 8,97% ±2,02%, cao hơn nhiều
so với mức HbA1c khuyến cao (HbA1c <7,0%). Trong đó tỷ lệ bệnh nhân có
KSĐH tốt chỉ ở mức 19,5% (HbA1c ≤7,0%). Nghiên cứu cho thấy công tác
quản lý bệnh nhân ĐTĐ và các biện pháp hỗ trợ bệnh nhân KSĐH tại đây còn
yếu kém và đây là một thách thức lớn đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe ở
Palestine [63].
Yohannes Tekalegn và cộng sự nghiên cứu về “Tầm quan trọng của kiểm
soát đường huyết và các yếu tố liên quan ở những bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ
tuýp 2 tại một bệnh viện chuyên khoa ở Ethiopia” (2018). Kết quả cho thấy
trong tổng số 412 bệnh nhân đang được theo dõi điều trị bệnh ĐTĐ tại đây,
có đến 80% đối tượng có KSĐH chưa tốt (glucose máu lúc đói >7,2mmol/l)
[67].
Tỷ lệ KSĐH và một số yếu tố liên quan ở người trưởng thành mắc ĐTĐ
tuýp 2 ở Ả Rập Xê Út do Riyadh và cộng sự tiến hành năm 2018 cho thấy tỷ lệ
KSĐH chưa tốt (HbA1c >7,0%) tại đây là 74,9% [53]. Nghiên cứu của Khattab
tại Jordan, trong tổng số 917 bệnh nhân tham gia nghiên cứu có đến 65,1%
bệnh nhân có KSĐH chưa tốt (HbA1c ≥7,0%) [33]. Nghiên cứu của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





10

Mohammed Badedi tại Saudi có hơn hai phần ba (74%) bệnh nhân KSĐH chưa
tốt [42].
Tóm lại, thực trạng chung về KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 trên thế giới
chưa tốt, tỷ lệ KSĐH chưa tốt còn cao.
1.2.2. Thực trạng kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp
2 tại Việt Nam
Ở nước ta, những năm gần đây vấn đề KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ đã bắt
đầu được quan tâm. Các nghiên cứu liên quan đến bệnh ĐTĐ và KSĐH cũng
đã được tiến hành. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này đều được thực hiện
tại các cơ sở điều trị, quản lý bệnh nhân ĐTĐ nên các kết quả về tỷ lệ KSĐH
và các yếu tố liên quan còn hạn chế và thiếu tính đại diện.
Theo nghiên cứu của Bế Thu Hà (2009) ở tỉnh Bắc Kạn cho thấy tỷ lệ
bệnh nhân có KSĐH chưa tốt (HbA1c >7,0%) là 54,7%. Trong đó bệnh nhân
làm ruộng tỷ lệ KSĐH chưa tốt là cao hơn so với nhóm cán bộ đương nhiệm
và cán bộ hưu. Nhóm bệnh nhân sử dụng thuốc uống đơn trị liệu có tỷ lệ
KSĐH tốt cao hơn so với nhóm sử dụng insulin đơn trị liệu hoặc phối hợp
thuốc [4]. Tỷ lệ KSĐH chưa tốt ở nghiên cứu của Bế Thu Hà tương đương
với số liệu nghiên cứu gần đây của Nguyễn Ngọc Thanh Vân (2018) là 56,6%
[24].
Kết quả nghiên cứu của Lê Xuân Khởi (2012), nghiên cứu về kết quả điều
trị ngoại trú bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viên Đa khoa Vĩnh Phúc thì tỷ lệ KSĐH
chưa tốt (HbA1c >7,0%) ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh
viện Đa khoa Vĩnh Phúc là 80,5%. Hàm lượng Glucose máu trung bình của
bệnh nhân là 8,0±2,4mmol/l, cao hơn mức bình thường khuyến cao
(<7,2mmol/l). HbA1c trung bình là 6,8±0,9%, giá trị này nằm trong mức kiểm
soát đường huyết tốt (HbA1c<7,0%). Nhóm bệnh nhân <40 tuổi có tỷ lệ KSĐH

tốt cao nhất, trong khi nhóm tuổi >70 tuổi chiểm tỷ lệ KSĐH kém cao nhất.
Trong nghiên cứu này những bệnh nhân làm ruộng cũng có tỷ lệ KSĐH chưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




11

tốt cao nhất, trong khi nhóm cán bộ nghỉ hưu có mức độ KSĐH tốt nhất, tương
tự kết quả nghiên cứu của Bế Thu Hà (2009). Tỷ lệ KSĐH chưa tốt tăng dần
theo thời gian mắc bệnh của bệnh nhân. Nhóm bệnh nhân thừa cân, béo phì có
tình trạng KSĐH khó khăn hơn nhóm có thể trạng gầy và bình thường. Nhóm
bệnh nhân không uống rượu, hút thuốc lá có KSĐH tốt cao hơn nhóm còn lại
[7].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Lan (2012) về đánh giá kết quả
điều trị ngoại trú bệnh nhân ĐTĐ tại Bệnh viện A Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ
bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 có KSĐH chưa tốt (HbA1c >7,0%) là 70,6%, KSĐH
chưa tốt theo chỉ số glucose máu lúc đói là 67,78%. Với chỉ số HbA1c trung
bình là 6,9±1,0% nằm ở mức kiểm soát tốt. Trong đó, nhóm tuổi 40-50 tuổi có
chỉ số HbA1c trung bình cao nhất (7,2±0,9%) và đây cũng là nhóm tuổi có tỷ
lệ KSĐH chưa tốt cao nhất (44%). Glucose máu lúc đói trung bình là
7,9±2,4mmol/l cao hơn so với mức kiểm soát tốt. Ở nghiên cứu này, nhóm
bệnh nhân kiểm soát tốt đồng thời cả HbA1c và glucose máu lúc đói tương đối
thấp, chỉ có 7,2%. KSĐH chưa tốt tăng dần theo nhóm tuổi của bệnh nhân:
nhóm mắc bệnh <1 năm, 1-5 năm, >5 năm tỷ lệ KSĐH chưa tốt lần lượt là 10%,
28,9%, 40,6%. Kết quả KSĐH chưa tốt ở đối tượng nghề làm ruộng là cao nhất,
thấp nhất ở nhóm cán bộ hưu trí. Bệnh nhân có thể trạng gầy có tỷ lệ KSĐH
chưa tốt là 80% [8].
Nghiên cứu của Trần Thanh Hòa (2013) về đánh giá kết quả điều trị bệnh

nhân ĐTĐ tuýp 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Bạch Mai cho kết quả tỷ lệ
KSĐH chưa tốt ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu là
79,3%. Giá trị trung bình của HbA1c là 8,4±1,8%, glucose máu lúc đói trung
bình là 9,9±3,4%. Cả hai trị số trung bình này đều cao hơn rất nhiều so với
mức KSĐH mục tiêu (HbA1c <7,0%, FBG <7,2mmol/l). Tỷ lệ nam giới và nữ
giới có KSĐH chưa tốt (HbA1c≥7,0%) tương đương nhau (19,6% và 21,7%).
Tỷ lệ KSĐH chưa tốt ở các nhóm tuổi chênh lệch không đáng kể. Việc luyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




12

tập thể lực có vai trò trong việc kiểm soát cả glucose máu lúc đói và HbA1c
trong nghiên cứu này [5].
Theo kết quả của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương (2015) thì tỷ lệ bệnh
nhân KSĐH chưa tốt theo chỉ số HbA1c là 14,7%, theo glucose máu lúc đói là
32,7%. Giá trị HbA1c trung bình là 6,2±1,2%, gluocse máu lúc đói trung bình
là 6,9±2,0mmol/l, cả hai giá trị này đều nằm ở mức KSĐH tốt (HbA1c<7,0%).
Tỷ lệ KSĐH tốt ở nghiên cứu này cao hơn so với các nghiên cứu khác. Lý giải
cho kết quả này là do bệnh nhân ở nghiên cứu đều là cán bộ cao cấp trong quân
đội, được quản lý sức khỏe tốt, được khám sức khỏe định kỳ hàng tháng, được
tư vấn hướng dẫn trong quá trình điều trị bệnh tốt. Hơn nữa, sự hiểu biết và tính
kỷ luật trong tuân thủ điều trị giúp cho kết quả KSĐH tốt hơn. Nhóm bệnh nhân
mắc bệnh ≤5 năm có tỷ lệ KSĐH tốt là cao nhất (66,7%), nhóm 6-10 năm là
6,2% và nhóm mắc bệnh >10 năm là 17,1%. Nhóm tuổi 41-60 tuổi, 60-70 tuổi
và >70 tuổi có tỷ lệ KSĐH tốt lần lượt là 40%, 44,8% và 15,2%. Nhóm bệnh
nhân thừa cân, béo phì KSĐH tốt là 61%, tỷ lệ KSĐH tốt ở nhóm bệnh nhân
có thể trạng gầy chỉ đạt 1,9%. Tỷ lệ KSĐH tốt ở nhóm không uống rượu, không

hút thuốc lá cao hơn rất nhiều so với nhóm có uống rượu, hút thuốc lá. Điều
này cho thấy vai trò tác động của rượu, thuốc lá đến việc KSĐH của bệnh nhân
ĐTĐ trong nghiên cứu này [6].
Kết quả nghiên cứu của Phan Thị Lê (2017), tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh
ĐTĐ đạt mục tiêu điều trị đối với HbA1c là 78,3% [19]. Nghiên cứu của tác
giả Phù Hạnh Nguyên (2017) ở Bệnh viện Đa khoa Cần Thơ, bệnh nhân ĐTĐ
khi nhập viện có chỉ số HbA1c trung bình rất cao (8,9%±2,4%), thậm chí có
bệnh nhân có chỉ số HbA1c lên tới 17%. Rất ít bệnh nhân có chỉ số glucose
máu và HbA1c ở mức kiểm soát tốt (15,7% đối với glucose máu và 25% đối
với HbA1c) [14].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




13

1.3. Một số yếu tố liên quan đến kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái
tháo đường tuýp 2
Nghiên cứu các yếu tố liên quan đến tình trạng KSĐH của bệnh nhân ĐTĐ
có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều trị và quản lý bệnh ĐTĐ vì các
yếu tố này sẽ tác động trực tiếp đến mức độ KSĐH của người bệnh. Dưới đây
là phần trình bày tổng quan tóm tắt về một số yếu tố liên quan đến KSĐH ở các
nước trên thế giới và Việt Nam.
- Tuổi: Nghiên cứu ở Hawaii cho thấy trong tổng số 2.970 bệnh nhân
KSĐH kém, hơn hai phần ba (68,5%) tập trung ở nhóm bệnh nhân dưới 35 tuổi
[59]. Trong khi đó một nghiên cứu ở Malaysia báo cáo tỷ lệ bệnh nhân ĐTĐ
có KSĐH chưa tốt (HbA1c ≥8,0%) đa số thuộc nhóm tuổi 60-69 tuổi (71,3%)
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Lê Xuân Khởi (2012), KSĐH tốt nhất ở

nhóm đối tượng dưới 40 tuổi (33,3%), kém nhất ở nhóm trên 70 tuổi (67,4%)
[7]. Nghiên cứu của Nur Sufiza Ahmad và cộng sự (2014) tỷ lệ KSĐH tốt
(HbA1c <6,5%) ở nhóm <40 tuổi là 9,5%, nhóm 41-64 tuổi là 21,5% và nhóm
≥65 tuổi là 32,0%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,024 [44].
- Nghề nghiệp: Theo kết quả nghiên cứu của Bế Thu Hà thì mức độ KSĐH
chưa tốt (HbA1c ≥7,0%) cao nhất trong nhóm người làm ruộng chiếm 31,4%
[4]. Nghiên cứu của Lê Xuân Khởi (2012), kiểm soát HbA1c tốt nhất ở nhóm
cán bộ hưu trí (41,8%), thấp nhất ở nhóm làm ruộng (71,1%) và có sự liên quan
giữa nghề nghiệp với mức độ KSĐH ở bệnh nhân ĐTĐ (p<0,05) [7].
- Chỉ số khối cơ thể (BMI): theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan Hương
(2015), nhóm bệnh nhân bị thừa cân hoặc béo phì (BMI ≥23 kg/m2) có tỷ lệ
KSĐH tốt cao hơn cả (62,0%), so với nhóm bình thường (BMI: 18,5-22,9
kg/m2) chỉ ở mức 36,1% [6]. Tuy nhiên, nghiên cứu của Lê Xuân Khởi (2012)
cho thấy chiều ngược lại, kiểm soát HbA1c tốt ở người bệnh có chỉ số BMI
bình thường là 23,1%, và ở nhóm thừa cân, béo phì là 7,4%. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05 [7]. Trong khi đó, nghiên cứu của Nur Sufiza Ahmad
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




14

và cộng sự ở Malaysia báo cáo không có mối liên quan giữa BMI và KSĐH
(p=0,714). Tỷ lệ KSĐH tốt ở nhóm có BMI (18,5-22,9 kg/m2) là 19,7%, nhóm
có BMI (23-27,4 kg/m2) là 24,3% còn ở nhóm BMI ≥27 (kg/m2) là 22,8% [44].
- Uống rượu, hút thuốc lá: Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan Hương
nhóm bệnh nhân hút thuốc lá có tỷ lệ KSĐH chưa tốt (HbA1c >7,5%) là 37,8%
trong khi nhóm không hút thuốc lá chỉ có 4,8%, nhóm không uống rượu có tỷ lệ
KSĐH tốt (HbA1c ≤7,5%) là 91,7% trong khi ở nhóm uống rượu tỷ lệ này là

82,8%. Có sự liên quan giữa hành vi hút thuốc lá và uống rượu đến KSĐH ở
bệnh nhân nghiên cứu với p<0,05 [6]. Nghiên cứu của Lê Xuân Khởi (2012)
cho thấy tỷ lệ KSĐH tốt ở nhóm đối tượng có hút thuốc lá và uống rượu thường
xuyên đều rất thấp. Nhóm hút thuốc lá KSĐH ở các mức độ tốt là 5,4%, chấp
nhận là 5,4% và kém là 84,2%. Nhóm thường xuyên uống rượu: mức độ KSĐH
mức độ là tốt 0,0%, chấp nhận (3,0%) và kém (97,0%). Tuy nhiên, sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) [7].
- Thuốc điều trị: Nghiên cứu của Bế Thu Hà cho thấy bệnh nhân ĐTĐ sử
dụng thuốc uống đơn trị liệu có mức KSĐH chưa tốt là 41,2%, trong khi bệnh
nhân sử dụng thuốc tiêm insulin thì tỷ lệ KSĐH chưa tốt là 90%. Tỷ lệ bệnh
nhân sử dụng insulin đơn trị liệu hoặc phối hợp thuốc có mức KSĐH chưa tốt
chiếm tỷ lệ cao khoảng 90%. Bệnh nhân sử dụng phối hợp thuốc có KSĐH
chưa tốt cao gấp 2,5 lần so với đơn trị liệu. Tỷ lệ bệnh nhân có KSĐH chưa tốt
khi điều trị bằng insulin cao gấp 3 lần so với bệnh nhân chỉ sử dụng thuốc hạ
đường huyết bằng đường uống [4]. Nghiên cứu của Nur Sufiza Ahmad và cộng
sự (2014) cho kết quả tỷ lệ KSĐH tốt (HbA1c <6,5%) ở nhóm dùng thuốc đơn
trị liệu là 38,2%, ở nhóm kết hợp thuốc điều trị ĐTĐ uống là 20,2%, nhóm kết
hợp thuốc điều trị ĐTĐ uống và insulin chỉ có 8,3% KSĐH tốt. Những bệnh
nhân trong nhóm dùng thuốc đơn trị liệu có khả năng KSĐH cao gấp 6,81 lần
so với nhóm sử dụng insulin kết hợp thuốc điều trị ĐTĐ uống. Có mối liên
quan giữa sử dụng thuốc và KSĐH (p<0,0001) [44].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×