Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng : Luận văn ThS. Kinh tế: 60 31 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐẶNG THỊ THÚY NHÀI

NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2009


MC LC

M U ............................................................................................................ 1

Ch-ơng 1. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ........................... 7
1.1. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ..................................... 7
1.1.1. Nguồn nhân lực....................................................................... 7
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực ..................................................... 15
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và yêu
cầu đối với nguồn nhân lực ............................................................... 19
1.2.1. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn .............................................................................. 19
1.2.2. Yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn đối với nguồn nhân lực ......................................... 24


1.3. Các yếu tố ảnh h-ởng đến việc phát triển nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ..................... 27
1.3.1. Giáo dục - đào tạo ................................................................... 27
1.3.2. Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe ............................................. 28
1.3.3. Hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp, nông
thôn .............................................................................................................. 29

1.3.4. Thị tr-ờng lao động nông thôn ....................................... 30
1.4. Kinh nghiệm của một số n-ớc về phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá .......................... 32
1.4.1. Kinh nghiệm của một số n-ớc về phát triển nguồn
nhân lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn ................................................ 32
1.4.2. Bài học rút ra cho Việt Nam về phát triển nguồn nhân
lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn ........................................................ 34

4


Chng 2. Thực trạng nguồn nhân lực Cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, Nông thôn vùng đồng bằng sông
hồng ............................................................................................................... 36

2.1. Thực trạng nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng sau hơn
10 năm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn .......................................................................................... 36
2.1.1. Số l-ợng và cơ cấu nguồn nhân lực nông nghiệp, nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng ........................................... 36
2.1.2. Chất l-ợng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn vùng

đồng bằng sông Hồng ........................................................... 39
2.1.3. Tình hình sử dụng nguồn nhân lực nông nghiệp, nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng ........................................... 46
2.2. Đánh giá chung về khả năng đáp ứng và những tồn tại của nguồn
nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay cho quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của vùng ...... 54
2.2.1. Khả năng cung ứng hiện tại của nguồn nhân lực vùng
đồng bằng sông Hồng cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của vùng...................... 54
2.2.2. Những tồn tại trong việc phát triển nguồn nhân lực vùng
đồng bằng sông Hồng trong những năm qua ......................... 55
2.3. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại trong quá trình phát
triển nguồn nhân lực trong những năm qua ở nông thôn đồng bằng
sông Hồng ................................................................................................ 57
2.3.1. Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực nông thôn đồng bằng sông
Hồng...................................................................................... 57

2.3.2. Đời sống kinh tế và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, văn
hoá, tinh thần của ng-ời dân nông thôn ................................. 65
2.3.3. Đầu t- của nhà n-ớc, hệ thống chính sách ............................ 69

5


Chng 3. Ph-ơng h-ớng và giải pháp phát triển nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng ........................................... 76

3.1. Ph-ơng h-ớng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông

Hồng đến 2020 ................................................................................. 76
3.1.1. Định h-ớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng đến 2020 .................. 76
3.1.2. Ph-ơng h-ớng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
mới của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn đến 2020 .................................................. 79
3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng đến 2020 ................................................................................... 86
3.2.1. Phát triển giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo nghề
nói riêng ............................................................................... 86
3.2.2. Kiểm soát tỷ lệ tăng dân số và cải thiện đời sống ng-ời
lao động ................................................................................ 93
3.2.3. Gia tăng tốc độ giải quyết việc làm ....................................... 94
3.2.4. Thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nhân tài ................... 104
3.2.5. Các chính sách và sự hỗ trợ của nhà n-ớc ........................... 105
KT LUN .................................................................................................... 108
DANH MC TI LIU THAM KHO ............................................................ 110

6


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn được đặt ở vị trí rất quan trọng.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã khẳng định: “Coi công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Tuy nhiên, sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như công nghiệp hoá, hiện

đại hoá nông nghiệp, nông thôn chỉ có thể thành công khi chúng ra có được
nguồn nhân lực có chất lượng. Bởi vì, ngày nay lợi thế so sánh của sự phát triển
nhanh đang chuyển dần từ yếu tố giàu tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ
sang lợi thế về trình độ trí tuệ cao của con người. Nguồn nhân lực trở thành
nguồn tài sản quý giá, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển của mọi
quốc gia, vùng lãnh thổ. Điều này được minh chứng qua mô hình tăng trưởng
kinh tế của Nhật, Singapore và một số nước khác cũng như từ thực tế của Việt
Nam qua những năm đổi mới.
Đồng bằng sông Hồng là một trong hai đồng bằng lớn nhất nước, với 11
tỉnh và thành phố, bao gồm Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây,
Thành phố Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên và Thành phố
Hải Phòng. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp truyền thống, có tiềm năng lớn để
phát triển một nền nông nghiệp, thuỷ sản hàng hoá đa dạng, năng suất, chất
lượng cao. Tuy nhiên ngoài số lượng, thì chất lượng nguồn nhân lực trong nông
nghiệp, nông thôn đồng bằng sông Hồng đang ở trình độ thấp (về cả thể lực, trí
lực, tâm lực), chế độ quản lý và sử dụng còn tồn tại nhiều bất cập, chưa tương
xứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp của
vùng.

1


Để có thể thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn trong vùng cần có giải pháp thiết thực phát triển nguồn nhân
lực tương xứng. Với mong muốn góp tiếng nói vào quá trình tìm kiếm giải pháp
đó, đề tài “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng” đã được chọn làm đối tương nghiên cứu
trong luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề được nhiều cá nhân, tổ chức quan tâm
nghiên cứu. Có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu.
Các cuộc điều tra lao động việc làm hàng năm từ 1996 đến nay do Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội thực hiện là các cuộc điều tra toàn diện và có hệ
thống về lực lượng lao động, việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam. Các cuộc điều
tra này đã thu thập được nhiều thông tin cơ bản về lao động và việc làm trong
nông nghiệp, nông thôn nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng.
Nghiên cứu về nguồn nhân lực ở đồng bằng sông Hồng cũng được một số
tác giả chọn lựa làm đề tài luận án tiến sĩ. Ví dụ, Luận án tiến sĩ của Trần Văn
Luận (1995), nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về sử dụng nguồn lao
động nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng trong nền kinh tế thị trường;
Luận án tiến sĩ của Trần Thị Tuyết (1996) nghiên cứu đề tài “Chuyển dịch cơ cấu
lao động nông thôn nhằm tạo việc làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động vùng
đồng bằng sông Hồng”. Trong những công trình này các tác giả đã phân tích thực
trạng sử dụng nguồn nhân lực, các bước chuyển biến, xu thế vận động của nguồn
nhân lực nông thôn đồng bằng sông Hồng trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường, chỉ ra những tồn tại của việc thu hút lao động trong nông nghiệp và đề
xuất một số biện pháp nhằm nâng cao mức nhân dụng ở đồng bằng sông Hồng.

2


Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Tiến (2004) nghiên cứu vấn đề chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn đã chỉ ra những bất cập của nguồn nhân lực nông
thôn (chủ yếu về trình độ chuyên môn kĩ thuật) và đề xuất giải pháp tăng cường
xã hội hoá dạy nghề cho lao động nông thôn. Đề tài cấp bộ của Nguyễn Hữu
Dũng (2003) cũng bàn về sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, phân tích
mặt mạnh, yếu của lực lượng lao động nông thôn, của thị trường lao động nông
thôn, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông
nghiệp, nông thôn đối với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông

thôn.
Gần đây là luận án tiến sĩ của Đào Quang Vinh với đề tài hết sức tổng
quát về sự phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Tác giả đã luận giải mối quan hệ, tác động qua lại giữa công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và phát triển nguồn nhân lực,
từ đó đưa ra các giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn đến 2010 và những năm tiếp theo. Các giải pháp
bao gồm:
(1) Xây dựng khung thể chế cho phát triển nguồn nhân lực;
(2) Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo khu vực nông thôn;
(3) Nâng cao thể lực nguồn nhân lực nông thôn;
(4) Phát triển thị trường lao động nông thôn.
Có thể nói, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến
những khía cạnh khác nhau của vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và những công trình đó hoặc là xem xét một các tổng
quát vấn đề trên trong phạm vi cả nước hoặc ở những địa phương khác. Tuy
nhiên, những nội dung cụ thể của nguồn nhân lực và việc phát triển nguồn nhân
lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng
sông Hồng thì chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ.

3


Đề tài luận văn sẽ tiếp thu và kế thừa những kết quả nghiên cứu của các
công trình trước đây, cố gắng hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn, từ đó
đưa ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong những
năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn:

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của vùng đồng bằng sông
Hồng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Tổng quan những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực và chủ trương phát
triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trong
nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu trong luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nguồn nhân lực cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở đồng bằng sông Hồng.

4


* Phạm vi nghiên cứu:
Nguồn nhân lực là phạm trù rất rộng, do khuôn khổ thời gian hạn hẹp,
luận văn tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực dưới góc độ hẹp tức là những
người trong độ tuổi lao động ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, không xét
đến trẻ em chưa đến tuổi lao động, người quá tuổi lao động vẫn tiếp tục làm
việc.
“Đồng bằng sông Hồng” được hiểu là 11 tỉnh theo phân vùng kinh tế của

Tổng cục Thống kê, trước khi điều chỉnh địa giới Hà Nội. Thời gian nghiên cứu
là từ 1996 đến 2020.
Yêu cầu đối với nguồn nhân lực từ phía công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn của vùng chủ yếu xét trên phương diện yêu cầu về trình
độ của dân cư ở nông thôn trong vùng để có thể đảm đương quá trình chuyển
nông nghiệp lên nền sản xuất hiện đại, phù hợp kinh tế thị trường. Nguồn nhân
lực được xem xét chủ yếu từ phía cung lao động cho phù hợp với cầu lao động
của thị trường lao động ở nông thôn.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong các văn kiện, tài liệu của Đảng. Đồng thời, đề tài sử dụng có chọn lọc
các số liệu thống kê và một số thành tựu khoa học đã được công bố trong các
sách báo, tạp chí.
Ngoài phương pháp luận chung là duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
trong luận văn có sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
và sử dụng các số liệu điều tra có sẵn.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã làm rõ hơn những yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đối với nguồn nhân lực.

5


- Luận văn đã phân tích thực trạng, chỉ ra được khả năng đáp ứng và những
tồn tại của nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay cho quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của vùng.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực
cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng đồng bằng sông Hồng trong thời gian
tới.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương, 9 tiết:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Chƣơng 2. Thực trạng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
Chƣơng 3. Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
CHO CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

1.1. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Nguồn nhân lực
1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, nguồn nhân lực được hiểu và sử
dụng khá khác nhau. Theo quan điểm của Liên hợp quốc thì nguồn nhân lực là
tất cả những kiến thức, các kỹ năng, năng lực và sức sáng tạo có liên quan đến
sự phát triển của quốc gia. Ở đây, nguồn nhân lực được hiểu là tào bộ các yếu tố
liên quan đến con người được sử dụng vào quá trình phát triển.
Ngân hàng thế giới cho rằng, nguồn nhân lực bao gồm thể lực, trí lực, kỹ
năng nghề nghiệp,... do các cá nhân sở hữu. Cách hiểu này bao hàm cả những
yếu tố liên quan đến con người không và chưa được sử dụng vào quá trình phát
triển của quốc gia.

Theo Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì nguồn
nhân lực là tổng thể năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy
động vào quá trình sản xuất. Với quan niệm này, nguồn nhân lực được quan
niệm khá hẹp.
Tiến sĩ Lê Thị Ngân cho rằng, nguồn nhân lực được quan niệm là tổng thể
sức lao động của xã hội đang và sẽ được vận dụng cho quá trình sản xuất xã
hội...
Phân tích, sàng lọc kỹ các quan niệm khác nhau có thể thấy, khái niệm
nguồn nhân lực thường được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là “số dân và chất lượng con
người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm

7


chất” [17, tr.328], là tổng thể tiềm năng của con người, của một quốc gia, vùng
lãnh thổ, địa phương hay một công ty có khả năng huy động được vào quá trình
phát triển kinh tế xã hội [12, tr.12].
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là nguồn lao động, bao gồm những người
đủ 15 tuổi trở lên thực tế đang làm việc và những người trong độ tuổi lao động
có khả năng lao động nhưng thất nghiệp (hai bộ phận này còn gọi là lực lượng
lao động), cộng với nguồn lao động dự trữ (những người đang được đào tạo
trong các trường Đại học, Cao đẳng, Dạy nghề, đang làm nội trợ trong gia đình,
những người hiện chưa có nhu cầu làm việc và những người khác…).
Bộ phận quan trọng nhất của nguồn nhân lực là lực lượng lao động, đó là
nguồn nhân lực thực tế đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội tại một giai
đoạn xác định. Ngoài lực lượng lao động còn có nguồn nhân lực dự trữ, tức là
nguồn nhân lực sẽ bổ sung thêm vào nguồn nhân lực thực tế sau một thời gian
nhất định (đối với người đi học), hoặc trong những điều kiện cụ thể (đối với
những bộ phận khác như: người làm nội trợ, những người khác…).

Như vậy, nói đến nguồn nhân lực là nói đến quy mô và chất lượng của
một đầu vào, của một loại nguồn lực - nguồn lực con người. Nguồn lực này, chỉ
khi nào được sử dụng và phát triển phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế mới trở
thành động lực của sự phát triển, thành nguồn vốn con người. Nói cách khác,
khái niệm nguồn nhân lực có liên quan đến các khía cạnh chính như dân số (tạo
ra số lượng), giáo dục, đào tạo và chăm sóc sức khoẻ (tạo ra chất lượng).
Khi đề cập đến nguồn nhân lực phải chú trọng cả hai phương diện số
lượng và chất lượng.
- Về số lượng: Nguồn nhân lực được được xem xét trên các khía cạnh:
quy mô, tốc độ tăng nguồn nhân lực, sự phân bố theo khu vực và theo lãnh thổ.
- Về chất lượng: Nguồn nhân lực được xem xét trên các khía cạnh: trí lực,
thể lực và nhân cách, thẩm mĩ của người lao động, trong đó, trí lực thể hiện ở

8


trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, là yếu tố trí tuệ, tinh thần, là cái nói lên
tiềm năng sáng tạo ra các giá trị vật chất, văn hoá tinh thần của con người. Chất
lượng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển nguồn nhân lực.
Sau trí lực là thể lực hay thể chất, bao gồm không chỉ sức khoẻ cơ bắp,
mà còn là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, bắp thịt, là sức mạnh của niềm tin
và ý chí, là khả năng vận động của trí lực. Thể lực là điều kiện tiên quyết để duy
trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt
động thực tiễn, dể biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Do đó, sức mạnh trí tuệ
chỉ có thể phát huy được lợi thế khi thể lực của con người được phát triển. Nói
cách khác, “trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức
khoẻ là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó” [19, tr.16].
Ngoài ra, nói đến nguồn nhân lực không thể không xét đến yếu tố nhân
cách, thẩm mĩ, quan điểm sống. Đó là sự thể hiện nét văn hoá của người lao
động, được kết tinh từ một loạt các giá trị: đạo đức, tác phong, tính tự chủ và

năng động, kỉ luật và tinh thần trách nhiệm trong công việc, khả năng hợp tác,
làm việc theo nhóm, khả năng hội nhập với môi trường đa văn hoá, đa sắc tộc và
các tri thức khác về giá trị của cuộc sống. Trong mối quan hệ với các yếu tố
khác cấu thành nguồn nhân lực, trình độ phát triển nhân cách, đạo đức đóng vai
trò quan trọng, vì nó đem lại cho con người khả năng thực hiện tốt hơn các chức
năng xã hội và nâng cao năng lực sáng tạo của họ trong hoạt động thực tiễn.
Lẽ tất nhiên, như Hồ Chí Minh đã nói: “có đức mà không có tài, làm việc
gì cũng khó, nhưng có tài mà không có đức là người vô dụng”. Bởi vậy, sẽ
không đầy đủ khi nói đến chất lượng nguồn nhân lực mà không đề cập đến sự
kết hợp hài hoà giữa ba yếu tố thể lực, trí lực và tâm lực, vì nó là điều kiện tạo
nên sức mạnh trong mỗi con người, cộng đồng và cũng là để hướng người lao
động đến sự phát triển toàn diện.

9


Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn là một bộ phận của nguồn nhân lực nói chung được phân bố và hoạt động
trong khu vực nông nghiệp, nông thôn và cho nông nghiệp, nông thôn. Hơn nữa,
nguồn nhân lực này phải hỗ trợ và tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trên thực tế, có thể có một bộ phận nguồn nhân
lực nằm ngoài khu vực nông nghiệp, nông thôn nhưng có đóng góp tích cực cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như một số nhà khoa học,
nhà quản lý, nhà đầu tư. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi
không xét đến bộ phận nguồn nhân lực này mà chỉ giới hạn ở nguồn nhân lực
sống và hoạt động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
1.1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực ở nông thôn
So với người thành thị, người sống ở nông thôn mang một số đặc điểm
đặc thù vừa có tính văn hóa truyền thống, vừa phản ánh trình độ sản xuất và mức
sống thấp của đa phần dân cư ở đây. Cụ thể là:

- Nguồn nhân lực ở nông thôn chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn nhân lực
của quốc gia nhưng thường là những người có trình độ văn hóa thấp, ít được
đào tạo nghề cơ bản. Hiện nay dân cư ở nông thôn vẫn chiếm trên 70% dân số
và hơn 50% lực lượng lao động ở nước ta. Với tỷ lệ sinh đẻ ở nông thôn còn cao
hơn ở thành thị trong nhiều năm tới, dân cư và lao động ở nông thôn vẫn tiếp tục
chiếm tỷ trọng lớn trong dân số và lao động cả nước.
Tuy đông về số lượng nhưng chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn mọi
vùng trong cả nước còn ở mức thấp xét cả về học vấn, trình độ đào tạo nghề lẫn
ý thức tổ chức, kỷ luật. Cuộc tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2006
của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong nhiều năm, tỷ lệ lao động chưa qua đào
tạo và không có bằng/chứng chỉ chuyên môn ở nông thôn hầu như không thay
đổi, luôn ở mức 97,53%. Trong tổng số lao động, chỉ có 1,35% có trình độ sơ
cấp, công nhân kỹ thuật, 0,89% có trình độ trung cấp, 0,13% có trình độ cao

10


đẳng và 0,11% có trình độ đại học và trên đại học. Trình độ chuyên môn của
những người phụ trách các đơn vị nông, lâm, thuỷ sản (giám đốc doanh nghiệp,
chủ nhiệm hợp tác xã, chủ trang trại, chủ hộ) có khá hơn nhưng cũng còn rất hạn
chế với 95,3% chưa qua đào tạo và không có bằng/chứng chỉ chuyên môn, trong
đó 34,5% giám đốc doanh nghiệp, 37,9% chủ nhiệm hợp tác xã, 89,9% chủ
trang trại và 95,4% chủ hộ. Như vậy, phần lớn lao động trong nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản là các lao động thủ công, theo kinh nghiệm. Đây là trở ngại lớn cho
việc đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
- Nguồn nhân lực ở nông thôn thường được sử dụng đa dạng ngành nghề
nhưng hiệu quả không cao, thu nhập đem lại thấp. Theo số liệu của Tổng điều
tra nông nghiệp, nông thôn năm 2006 của Tổng cục Thống kê số người trong độ
tuổi lao động có tham gia hoạt động nông nghiệp năm 2006: lao động chuyên
nông nghiệp chiếm 58,2%, lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác chiếm

27,6% và lao động phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp chiếm
14,2%. Do tính chất đa dạng ngành nghề như vậy nên lao động nông nghiệp vừa
khó đào tạo, vừa rất thiếu kỹ năng lao động chuyên sâu thành thạo.
Tình trạng thiếu việc làm khá nghiêm trọng, hiện mới có 85% lao động có
việc làm, tỷ lệ thời gian chưa sử dụng là hơn 23% (tương đương 7 triệu người)
[46, tr.75-76]. Do áp lực việc làm và thu nhập nên lao động ở nông thôn thường
dễ chấp nhận làm các công việc đơn giản, thu nhập thấp, nhất là các công việc
có thể làm trong thời kỳ nông nhàn.
Mức thu nhập của lao động ở nông thôn thường thấp hơn lao động ở
thành thị ngoài nguyên nhân năng suất lao động của dân cư ở nông thôn thấp (sử
dụng công cụ thủ công, kỹ năng đơn giản, vận động bằng sức người là chính)
còn do ngành nông nghiệp có giá trị gia tăng thấp và thường chịu sức ép giảm
giá trên thị trường.

11


- Nguồn nhân lực ở nông thôn thường chịu ảnh hưởng của văn hóa làng,
xã, của các tập tục, thói quen sống vừa nặng tình nghĩa, lề thói, vừa bảo thủ, trì
trệ, ngại thay đổi, không quen với cường độ lao động và kỷ luật công nghiệp.
Mặc dù đã chuyển sang sản xuất hàng hóa và thực hiện công nghiệp hóa nông
nghiệp trong nhiều năm, nhưng xã hội nông thôn vẫn sống trong môi trường văn
hóa làng xã cũ. Nhiều thói quen sống cũ rất chậm được thay đổi như thói quen
an phận thủ thường, thói quen bình quân chủ nghĩa, không ưa người giàu có hơn
mình, nhưng lại sẵn sàng nhường cơm, xẻ áo cho người thua kém mình, thói
quen lao động tự do không theo quy trình công nghệ và thời gian chặt chẽ, hành
động cảm tính,... Những đặc tính này là nguyên nhân của các phong trào đua
nhau trồng hoặc nuôi một loại cây trồng nào đó dẫn đến mất cân đối cung cầu,
thua thiệt rồi lại đua nhau chặt bỏ của nông dân nước ta thời gian qua. Cũng vì
thói quen lao động tự do nên nhiều thanh niên nông thôn được chính quyền bố

trí việc làm trong các khu công nghiệp nhưng không trụ lại được.
- Mức độ biến động của nguồn nhân lực ở nông thôn khá cao. Do còn một
lượng lớn lao động và thời gian lao động chưa được sử dụng ở nông thôn, do
tính chất thời vụ của lao động nông nghiệp nên hàng năm có số lượng lớn lao
động ở nông thôn di cư tạm thời ra thành phố kiếm việc làm tạm bợ. Khảo sát
của Tổng cục thống kê năm 2006 ở 8 xã thuộc ba vùng nông nghiệp trọng điểm
cho thấy, nhiều vùng nông thôn hầu như không còn lao động dưới 40 tuổi. Tình
trạng di cư tạm thời này gây ra nhiều hậu quả.
Thứ nhất, lao động còn lại ở nông thôn kém chất lượng cả về trí lực, thể
lực nên gây khó khăn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn.
Thứ hai, biến động dân số gây khó khăn cho quá trình quản lý và hỗ trợ
lao động ở nông thôn. Vì không có điều kiện và không có ý định trụ lại thành thị
nên bộ phận lao động nông thôn di cư này gây ra các biến động dân số theo chu
kỳ rất rõ ở cả nông thôn và thành thị và cản trở các nỗ lực xây dựng cơ sở sản

12


xuất ổn định cả ở nông thôn và thành thị. Hơn nữa, do không có kỹ năng lao
động cao nên bộ phận lao động di cư này biến động rất lớn, chỉ cần có sự chênh
lệch không đáng kể thu nhập giữa các lĩnh vực, ngành nghề hoặc lãnh thổ là họ
có thể di chuyển, gây ra tình trạng thừa thiếu lao động cục bộ.
Thứ ba, ảnh hưởng đến quá trình đưa nông nghiệp lên sản xuất ở quy mô
lớn. Người nông dân vào thành phố chỉ là sinh kế tạm bợ. Khi không còn có thể
bám víu vào thu nhập khác, đa phần bộ phận di cư này quay lại nghề nông.
Chính vì thế, người nông dân di cư tạm thời ra thành phố không có ý định
chuyển nhượng đất nông nghiệp cho người khác. Hậu quả là đất đai nông nghiệp
rất khó tích tụ.
Những đặc điểm nói trên cho thấy rằng, phát triển nguồn nhân lực cho

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mang tính đặc thù riêng.
1.1.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định đối với thành công của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong bốn nguồn lực để
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tài nguyên, vốn, lao động và thể chế,
chính sách thì nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu, thể hiện qua các
khía cạnh sau:
- Dưới góc độ kinh tế, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ vốn nhân lực
bao gồm thể lực, trí lực và kĩ năng nghề nghiệp mà mỗi cá nhân sở hữu. Nghĩa
là, con người ở đây được xem xét như một nguồn vốn, thậm chí là nguồn vốn
quan trọng nhất cho sản xuất, có khả năng sản sinh ra các nguồn thu nhập trong
tương lai hoặc như là nguồn của cải có thể làm tăng sự phồn thịnh về kinh tế.
Nguồn vốn này là tập hợp những kĩ năng, kiến thức, kinh nghiệm, năng lực và
tính sáng tạo của con người có được thông qua giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức

13


khoẻ và kinh nghiệm tích luỹ được nhờ tham gia vào quá trình lao động sản
xuất.
- Nguồn nhân lực không chỉ là động lực, mục tiêu mà còn là yếu tố có ảnh
hưởng đến chính sách và thể chế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, dù là quá trình tiến hóa khách quan,
nhưng không mang mục đích tự thân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là phương thức để cư dân ở nông thôn có cuộc sống tốt hơn,
để nông nghiệp có thể trụ vững trong điều kiện kinh tế thị trường. Do đó, kỹ
năng, ý chí của người lao động ở nông thôn sẽ quyết định tốc độ, quy mô và chất
lượng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Người ta sẽ không thành công nếu chỉ đem máy móc, thiết bị hiện địa và giống

mới về sử dụng thành công ở nông thôn nếu như những người làm nông nghiệp
không muốn và không có kỹ năng, tri thức để sử dụng thành thạo các loại tư liệu
sản xuất đó.
Hơn nữa, nếu nông dân không có lợi thì họ cũng sẽ không ủng hộ quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì thế, các chương trình công nghiệp hóa
chỉ có giá trị khi làm cho cuộc sống của dân cư nông thôn được cải thiện.
Trong chế độ quản lý dân chủ, vì nhân dân của hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa, các chính sách, thể chế liên quan đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn luôn phản ánh ý nguyên của dân cư nông thôn. Người
lao động cũng ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng hiệu quả vốn và tài nguyên. Vì
thế, nguồn nhân lực không những có vai trò của một yếu tố đầu vào cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà còn ảnh hưởng
sâu sắc đến các yếu tố còn lại.
- Nguồn nhân lực vừa có sức mạnh của yếu tố sản xuất, vừa có sức mạnh
của sự đổi mới, sáng tạo để công nghiệp hóa, hiện đại hóa có hiệu quả hơn.
Nguồn nhân lực, ngoài việc tham gia trực tiếp vào quá trình công nghiệp hóa,

14


hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn tích cực tạo ra các tiền đề cho cong
nghiệp hóa như cải tiến kỹ thuật, lai tạo giống mới, xây dựng các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh hiệu quả... Hiện nay, ở nhiều nước phát triển, sự đóng
góp của tri thức đối với sản lượng đã vượt xa sự đóng góp của các yếu tố vật
chất và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Con người với những kiến thức có được
đã trở thành yếu tố cạnh tranh mũi nhọn của từng công ty, cộng đồng và quốc
gia. Đặc biệt, trong bối cảnh thế giới đã bước sang kỉ nguyên phát triển kinh tế
lấy tri thức làm động lực, vai trò của nguồn nhân lựu càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết.
- Nguồn nhân lực là yếu tố có khả năng tái sinh mạnh mẽ. Khác với một

số loại tài nguyên thiên nhiên và vốn, nguồn nhân lực không bị hao mòn qua quá
trình thực hiện công nghiệp hóa. Người lao động này già đi có thế hệ khác thay
thé với kỹ năng và tri thức hoàn hảo hơn. Hơn nữa, một số thành quả do nguồn
nhân lực tạo ra có giá trị sử dụng vính hằng theo thời gian như tri thức khoa học,
phát minh, sáng chế... Vì thế, nếu biết đầu tư đúng mức cho nguồn nhân lực thì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không chỉ đạt được thành
công mỹ mãn trong ngắn hạn mà còn tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông thôn
phát triển bền vững. Đây là căn cứ để Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VIII xây dựng chính sách “lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà người ta có những cách định nghĩa
khác nhau về khái niệm phát triển nguồn nhân lực.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) cho
rằng phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn
luôn phù hợp với sự phát triển của đất nước. Cách hiểu nàylà gắn phát triển

15


nguồn nhân lực với phát triển sản xuất và chỉ giới hạn trong phạm vi phát triển
kĩ năng lao động và đáp ứng yêu cầu việc làm.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng phải hiểu phát triển nguồn nhân
lực theo nghĩa rộng hơn, không chỉ là sự lành nghề của dân cư hoặc bao gồm cả
vấn đề đào tạo nói chung (trình độ dân trí, trình độ chuyên môn kĩ thuật) mà còn
là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có
được việc làm hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân
[12, tr.15]. Cách hiểu này ngoài khía cạnh kinh tế, còn nhấn mạnh khía cạnh xã
hội của phát triển nguồn nhân lực.

Theo quan điểm của UNDP, phát triển nguồn nhân lực chịu sự tác động
của 5 nhân tố: giáo dục - đào tạo, sức khoẻ và dinh dưỡng, môi trường, việc làm
và sự giải phóng con người. Trong quá trình tác động đến sự phát triển nguồn
nhân lực, những nhân tố này luôn gắn bó, hỗ trợ và phụ thuộc lẫn nhau; trong
đó, giáo dục - đào tạo là nhân tố nền tảng, là cơ sở của tất cả các nhân tố khác.
nhân tố sức khoẻ và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và sự giải phóng con
người là những nhân tố thiết yếu, nhằm duy trì và đáp ứng sự phát triển bền
vững nguồn nhân lực. Nền sản xuất càng phát triển thì phần đóng góp của trí tuệ
thông qua giáo dục - đào tạo ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với sự đóng góp
của các yếu tố khác trong cơ cấu giá trị sản phẩm của lao động.
Kế thừa những quan điểm trên, theo chúng tôi, dưới góc độ nghiên cứu
tổng thể, phát triển nguồn nhân lực là phát triển nguồn lực con người dưới dạng
tiềm năng thành “vốn con người, vốn nhân lực”. Xét ở góc độ cá nhân, đó là
nâng cao tri thức, sức khoẻ, kĩ năng thực hành để tăng năng suất lao động dẫn
đến tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống. Xét ở góc độ xã hội, là quá
trình tạo dựng một lực lượng lao động cả về số lượng, chất lượng và sử dụng
chúng có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia, vùng lãnh thổ trong từng thời kì.

16


Do vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ là
quá trình tạo ra sự biến đổi số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cùng với việc
nâng cao hiệu quả sử dụng chúng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, của vùng.
Tất nhiên, cần phân biệt giữa phát triển nguồn nhân lực và phát triển con
người. Phát triển nguồn nhân lực là khái niệm hẹp hơn so với phát triển con
người. Phát triển nguồn nhân lực nhìn nhận dưới góc độ là yếu tố của sản xuất,
một nguồn lực của xã hội, mục đích là tăng sự đóng góp có hiệu quả của nó cho

quá trình tái sản xuất để phát triển kinh tế xã hội. Còn phát triển con người được
nhìn nhận dưới góc độ con người là một chủ thể tự nhiên và xã hội, vì thế, phát
triển con người là trung tâm của sự phát triển, mục đích là hướng tới sự phát
triển toàn diện của con người. Có nghĩa là phát triển con người không chỉ xem
xét dưới góc độ là nguồn lực đóng góp cho sự phát triển xã hội mà còn là sự
thoả mãn các nhu cầu để con người sớm có điều kiện phát triển toàn diện.
1.1.2.2. Nội dung phát triển nguồn nhân lực
Từ khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trên đây thì
nội dung cơ bản của phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
- Phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng.
- Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
* Phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng.
Nguồn nhân lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ về mặt số lượng thể
hiện ở quy mô dân số, cơ cấu về giới và độ tuổi. Theo đó, nguồn nhân lực được
gọi là đông về số lượng khi quy mô dân số lớn, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động
cao. Tất nhiên, ở góc độ phát triển, chúng ta không thể không xét đến tỉ lệ gia
tăng dân số hàng năm. Nghĩa là về mặt số lượng, nguồn nhân lực chịu ảnh

17


hưởng trực tiếp của quy mô dân số tại thời điểm gốc và chính sách phát triển dân
số của các quốc gia và vùng lãnh thổ.
* Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng.
Thực chất của phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng là sự phát triển
trên cả 3 mặt: trí lực, thể lực và tâm lực của người lao động.
Phát triển trí lực là phát triển năng lực trí tuệ. Đó là quá trình nâng cao
trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sức sáng tạo và kĩ năng, kĩ xảo
của người lao động trong thực tiễn. Quá trình này chịu ảnh hưởng, tác động của

nhiều nhân tố, trong đó giáo dục - đào tạo giữ vai trò quyết định, vì nó trước hết
là sản phẩm của giáo dục - đào tạo. Do vậy, trong thời đại ngày nay, đồng thời
với việc xem con người là nguồn lực quan trọng nhất, thì giáo dục - đào tạo đều
được các quốc gia đặt ở vị trí số 1 trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
mình. Đây cũng chính là cơ sở để Nhà nước ta xác định: trong khi nguồn lực vật
chất và tài chính còn hạn hẹp thì cùng với khoa học - công nghệ, giáo dục - đào
tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu.
Phát triển thể lực là gia tăng chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, sức mạnh và độ
dẻo dai của thần kinh, cơ bắp. Vấn đề này phụ thuộc vào một loạt các yếu tố:
điều kiện tự nhiên, giống nòi, thu nhập và cách thức phân bố chi tiêu, môi
trường và điều kiện làm việc, chế độ nghỉ ngơi, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng (giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao…). Trong đó, ngoài yếu tố
giống nòi thì thu nhập và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ giữ một vai trò đặc biệt
quan trọng. Tất nhiên, những yếu tố này chỉ có thể được cải thiện trên cơ sở phát
triển kinh tế - xã hội.
Phát triển tâm lực là phát triển yếu tố văn hoá, tinh thần và quan điểm
sống như tính tích cực, dám nghĩ, dám làm, đạo đức, tác phong, lối sống, ý thức
tổ chức kỷ luật… trong mỗi con người lao động. Đó là quá trình nâng cao trình
độ nhận thức các giá trị cuộc sống, tinh thần trách nhiệm, khả năng hoà nhập với

18


cộng đồng, đấu tranh với các tệ nạn xã hội để xây dựng lối sống lành mạnh và
hình thành tác phong lao động công nghiệp. Thực chất là quá trình phát huy
những giá trị truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu những
tinh hoa văn hoá nhân loại. Đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển,
quá trình này chịu ảnh hưởng của các nhân tố: văn hoá và phong cách của người
sản xuất nhỏ, tiểu nông, hệ quả còn sót lại của cơ chế quản lý tập trung, đặc biệt
là mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập.

* Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là nguồn tài sản - tài sản nhân lực. Do vậy, phát triển
nguồn nhân lực sẽ không được coi là toàn diện nếu không quan tâm nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn tài sản này.
Hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực được đánh giá bằng mức độ toàn dụng
nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng và thời gian được sử dụng. Do vậy,
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực đồng nhất với nâng cao hệ số sử dụng
số lượng nhân lực; nâng cao hiệu suất sử dụng nhân lực, hay giá trị tăng thêm
được tạo ra từ việc sử dụng nhân lực và nâng cao hệ số sử dụng thời gian lao
động.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là một quá trình chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ tình hình cung cầu trên thị trường lao động, chất lượng nguồn
nhân lực và chính sách lao động, việc làm, tiền lương của nhà nước. Cụ thể, đó là
tốc độ giải quyết việc làm và tình trạng thất nghiệp, chính sách thu hút, bố trí, sử
dụng và đặc biệt là chế độ đãi ngộ đối với người lao động. Theo đó, hiệu quả sử
dụng nguồn nhân lực sẽ đồng biến với tốc độ giải quyết việc làm, nghịch biến với
tỉ lệ thất nghiệp và phụ thuộc vào chính sách thu hút, bố trí, sử dụng và chế độ đãi
ngộ. Nếu những chính sách này hợp lý sẽ kích thích được tinh thần làm việc, khả
năng sáng tạo của người lao động, trên cơ sở đó hiệu quả sẽ được nâng cao.

19


1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và yêu cầu
đối với nguồn nhân lực
1.2.1. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn bao gồm 2 quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông thôn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển nền nông

nghiệp truyền thống thành nền nông nghiệp hiện đại. Quá trình này thực chất là:
đổi mới và hiện đại hoá công nghệ sản xuất; đổi mới và hiện đại hoá quản lý sản
xuất kinh doanh; nâng cao chất lượng và hoàn thiện cơ cấu lực lượng lao động
ngành nông nghiệp. Đó cũng là quá trình làm thay đổi căn bản phương thức sản
xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức quản lý sản xuất nhằm xây dựng một
nền nông nghiệp hàng hoá với kĩ thuật công nghệ tiên tiến, có sức cạnh tranh
cao và đảm bảo phát triển bền vững.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình thay đổi căn bản
phương thức hoạt động, cơ cấu kinh tế của nông thôn và thay đổi căn bản tầng
lớp gắn liền với sản xuất nông nghiệp là nông dân, biến người nông dân truyền
thống thành người nông dân hiện đại, có tri thức, có kĩ thuật, có khả năng ứng
dụng khoa học công nghệ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn diễn ra
đồng thời với hai quá trình: thứ nhất, quá trình đô thị hoá làm thu hẹp nông thôn
do một phần lãnh thổ nông thôn chuyển thành đô thị; thứ hai, thay đổi bản thân
xã hội nông thôn trên nhiều phương diện khác nhau như phương thức sản xuất,
tổ chức dân cư, phương thức sinh hoạt văn hoá, xã hội, tổ chức cung cấp các
dịch vụ kinh tế và xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn sẽ làm thay
đổi cơ cấu nghề nghiệp, mà xu hướng cơ bản là chuyển một bộ phận lao động
nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

20


nông thôn sẽ làm thay đổi lề lối làm việc, nếp nghĩ, tư duy kinh tế và cách ứng
xử văn minh, hiện đại của người nông dân.
Tuy nhiên, do sự gắn kết chặt chẽ có tính hữu cơ của nông nghiệp và nông
thôn và do tầm quan trọng của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở nước ta nên 2
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá này phải được tiến hành đồng thời và
thực tế là không thể tách rời nhau. Nông thôn là địa bàn của nông nghiệp, còn
nông nghiệp là bộ phận cấu thành quan trọng nhất, có vị trí hàng đầu trong các

hoạt động kinh tế ở nông thôn. Thực trạng hiện nay ở nước ta là kinh tế nông
thôn là nền kinh tế nông nghiệp và văn minh nông thôn là văn minh nông
nghiệp, văn minh lúa nước. Chính vì vậy, việc kết hợp chặt chẽ quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mang những đặc điểm sau:
Một là, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở đảm bảo an toàn
lương thực quốc gia. Trước hết, để chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp phải
hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn để có điều kiện ứng
dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến cho những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh
tế cao, tính hàng hóa cao; chuyên canh để có nông sản hàng hóa nhiều về số
lượng, tốt về chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến, tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông sản, bao gồm cả lâm sản và thuỷ, hải
sản, ưu tiên phát triển các cây trồng và vật nuôi có quy mô xuất khẩu tương đối
lớn và thị trường ổn định, đặc biệt coi trọng các sản phẩm quý hiếm quốc gia có
lợi thế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn phải hướng tới nâng tỷ trọng và tốc
độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn góp
phần phân công lại lao động ở nông thôn theo hướng giảm lao động thuần nông,
tăng lao động trong những ngành phi nông nghiệp trên cơ sở phát triển các
ngành nghề, làng truyền thống và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp chế biến, công nghiệp nông thôn sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất

21


×