Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất tại quận long biên hà nội luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LLCT
*** *** *** *** ***

ĐINH THỊ NHƯ TRANG

VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
BỊ THU HỒI ĐẤT TẠI QUẬN LONG BIÊN - HÀ NỘI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LLCT
*** *** *** *** ***

ĐINH THỊ NHƯ TRANG

VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
BỊ THU HỒI ĐẤT TẠI QUẬN LONG BIÊN - HÀ NỘI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị
Mã số: 60.31.01

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Mai Thị Thanh Xuân

Hà Nội - 2012



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG ............................................... 11
1.1. Lý luận chung về việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động.11
1.1.1. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm ........................... 11
1.1.2. Vai trò GQVL cho người lao động.............................................. 18
1.2. Giải quyết việc làm cho nông dân bị THĐ ............................................. 21
1.2.1. Sự cần thiết và đặc điểm GQVL cho nông dân bị thu hồi đất ... 21
1.2.2. Nội dung giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ........ 26
1.2.3. Tiêu chí đánh giá giải quyết việc làm cho nông dân bị THĐ .... 31
1.3. Kinh nghiệm GQVLcho nông dân bị THĐ nông nghiệp ...................... 33
1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc ................................................ 33
1.3.2. Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng ........................................ 37
1.3.3. Một số bài học rút ra cho quận Long Biên .................................. 40
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TẠI QUẬN LONG BIÊN................... 43
2.1. Những đặc điểm ảnh hưởng đến việc làm và GQVL cho người lao động
.......................................................................................................................... 43
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ......................................................................... 43
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ............................................................. 44
2.2. Thực trạng GQVL cho nông dân bị thu hồi đất tại quận Long Biên giai
đoạn 2004 – 2010 ............................................................................................ 46
2.2.1. Tình hình thu hồi đất phục vụ CNH, HĐH ở quận Long Biên. 46
2.2.2. Thực trạng việc làm, đời sống của nông dân bị thu hồi đất ....... 53
2.3 Đánh giá chung......................................................................................... 69
2.3.1. Những thành tựu cơ bản ............................................................... 69
2.3.2. Một số hạn chế và nguyên nhân .................................................. 71

1



Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO LAO
ĐỘNG THUỘC DIỆN THU HỒI ĐẤT Ở QUẬN LONG BIÊN HÀ NỘI.... 83
3.1. Quy hoạch sử dụng đất và mục tiêu GQVL cho nông dân bị THĐ tại
quận Long Biên ............................................................................................... 83
3.1.1. Quy hoạch sử dụng đất của quậnLong Biên đến năm 2020 ...... 83
3.1.2. Mục tiêu GQVL cho nông dân bị THĐ tại quận Long Biên đến
năm 2020............................................................................................... 86
3.2. Quan điểm GQVL cho nông dân bị THĐ .............................................. 87
3.2.1. Phải có tầm nhìn dài hạn trong quy hoạch đất đai. ..................... 87
3.2.2. Phải gắn quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch lao động. ......... 87
3.2.3. Công tác GQVL cho nông dân bị THĐ nói riêng và nông dân nói
chung phải được xã hội hóa. ................................................................ 87
3.3. Một số giải pháp chủ yếu tạo việc làm cho lao động bị THĐ tại quận
Long Biên đến năm 2020 ................................................................................ 88
3.3.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển đô thị ...................................... 88
3.3.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến đất đai và việc làm
cho người bị THĐ ................................................................................ 88
3.3.3. Cần có chế tài đối với các doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn
Quận về trách nhiệm, đào tạo và tuyển dụng lao động địa phương . 92
3.3.4. Đổi mới hoạt động dạy nghề theo hướng dạy đúng nghề, đúng
đối tượng và đúng nhu cầu................................................................... 93
3.3.5. Nâng cao hiệu quả các hoạt động hỗ trợ người bị THĐ tìm kiếm
việc làm ổn định đời sống .................................................................... 99
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 110
PHỤ LỤC..................................................................................................................... 115

2



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

Ý nghĩa

1

CCN

Cụm công nghiệp

2

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

3

ĐNN

Đất nông nghiệp

4

ĐTH


Đô thị hóa

5

GPMB

Giải phóng mặt bằng

6

GQVL

Giải quyết việc làm

7

KCN

Khu công nghiệp

8

KCX

Khu chế xuất

9

KĐT


Khu đô thị

10



Lao động

11

LĐ - TBXH

12



Nghị định

13

QĐ-UBND

Quyết định - Ủy ban nhân dân

14

TĐC

Tái định cư


15

THĐ

Thu hồi đất

16

UBND

Ủy ban nhân dân

17

VL

Việc làm

Lao động thương binh xã hội

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH,HĐH) hoàn thành mục tiêu chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền
kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Hệ quả tất yếu của quá trình đó là sự ra đời
và phát triển các đô thị và các trung tâm thương mại và dịch vụ dẫn đến

nhiều bức xúc về mặt xã hội , trong đó giải quyết việc làm (GQVL) cho nông
dân bị thu hồi đất (THĐ) ở các khu vực ven đô, ven thị đang trở thành vấn đề
nỏng bỏng hiện nay.
Thực hiện chủ trương xây dựng Thủ đô Hà Nội khang trang hiện đại
xứng tầm là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị và khoa học của cả nước,
trong gần 20 năm qua (1992-2010) Nhà nước đã thu hồi hàng trăm ha đất
nông nghiệp (ĐNN) tại các quận, huyện ven đô để xây dựng khu công
nghiệp (KCN), các trung tâm dịch vụ thương mại, trường học, bệnh viện,
khu đô thị (KĐT)…trong thành phố. Quá trình đó đã dẫn đến tình trạng
hàng nghìn hộ nông dân bị mất đất, trong đó, phần lớn là lao động nông
nghiệp không qua đào tạo, quen làm ăn manh mún, nhỏ lẻ, ngại thay đổi…
đã trở thành người thất nghiệp.
Long Biên là một quận mới thuộc nội Thành Hà Nội, được thành lập
ngày 1/1/2004 . Quá trình thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn Quận trong
những năm gần đây diễn ra rất nhanh. Thực trạng đó đã kéo theo một bộ
phận lớn nông dân bị THĐ lâm vào tình trạng không có việc làm, gây hậu
quả xấu không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội. Mặc dù các cấp chính
quyền trung ương và địa phương đã có nhiều lỗ lực trong GQVL cho lao
động nông thôn nói chung và lao động bị THĐ nói riêng, song tình trạng
thiếu việc làm vẫn không hề thuyên giảm. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cho

4


các cấp lãnh đạo tại Long Biên và Thành phố Hà Nội cũng như các nhà
hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này phải tìm
giải pháp hữu hiệu tạo điều kiện cho nông dân bị THĐ có việc làm thường
xuyên, đảm bảo ổn định cuộc sống.
Để góp một phần nhỏ vào việc giải quyết thách thức đó, tôi chọn đề tài
cho luận văn thạc sĩ của mình là: “Vấn đề giải quyết việc làm cho nông

dân bị thu hồi đất tại quận Long Biên - Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu
Thu hồi đất là quá trình tất yếu để phát triển CNH, HĐH và đô thị hóa
(ĐTH). Ở nước ta phần lớn diện tích đất thu hồi phục vụ cho phát triển công
nghiệp , dịch vụ, hạ tầng giao thông, đô thị và các công trình phúc lợi khác
đều là ĐNN. Do vậy, lượng lao động bị thất nghiệp từ những nông dân bị
THĐ tăng lên rất nhanh. Vấn đề việc làm cho nông dân bị mất đất tuy không
mới, nhưng vẫn còn là vấn đề có tính thời sự nóng bỏng hiện nay. Đã có
nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp Thành phố, cấp Bộ và các luận án, luận văn,
các bài báo nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó, có những công trình liên
quan trực tiếp đến đề tài có thể kể đến là:
- “Việc làm và thu nhập cho lao động bị THĐ trong quá trình CNHHĐH và đô thị hoá”, Đề tài độc lập cấp nhà nước mã số KX.01 do Trường
Đại học Kinh tế quốc dân thực hiện năm 2005. Đề tài đã lý giải tính tất yếu
của việc THĐ trong quá trình CNH-HĐH và ĐTH, cho rằng đây vừa là cơ
hội, vừa là thách thức đối với nước ta trong quá trình phát triển. Cơ hội đó là:
tạo điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng
hiện đại. Thách thức là: người dân mất đất không có việc làm và thu nhập,
đời sống của họ tiềm ẩn sự bất ổn bên trong. Đề tài này cũng đưa ra các dự
báo nhu cầu THĐ và đưa ra khung chính sách đồng bộ bao gồm: Chính sách

5


đền bù, bồi thường thiệt hại; Chính sách tạo việc làm; Chính sách tái định
cư; Chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của các đơn vị được nhận đất thu
hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các KCN, KĐT và các chính sách xã
hội liên quan để đảm bảo việc làm và thu nhập cho đối tượng bị THĐ.
- “Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi
để xây dựng các KCN, KĐT, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu
công cộng và lợi ích quốc gia”, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Đề tài

độc lập cấp nhà nước (2005). Sau khi phân tích đánh, giá thực trạng thu nhập,
đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi ở 7 tỉnh/TP: Hà Nội, TP Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Cần Thơ, Bình Dương, Đề tài đề xuất
các quan điểm, phương hướng, giải pháp và các điều kiện giải quyết thu
nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị THĐ để xây dựng các KCN,
KĐT, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích
quốc gia những năm tới.
- Sách: “Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để
xây dựng các KCN, KĐT, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình
công cộng phục vụ cho lợi ích quốc gia” do GS.TSKH Lê Du Phong chủ
biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2007. Trong công trình
này, các tác giả nêu lên một số vấn đề lý luận, thực trạng về thu nhập, đời
sống, việc làm của người dân có đất bị thu hồi để xây dựng các KCN, KĐT,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ cho lợi
ích quốc gia trong thời gian qua ở nước ta, đồng thời cho thấy những khó
khăn tồn tại. Qua đó, các tác giả đã đưa ra những quan điểm, giải pháp và
kiến nghị nhằm GQVL, đảm bảo thu nhập và đời sống của người dân bị
THĐ thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục
vụ cho lợi ích quốc gia trong thời gian tới.

6


- “Giải quyết việc làm cho lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình
đô thị hóa”, Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Thủy trường Đại học kinh tế ĐHQG Hà Nội, thực hiện năm 2007. Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về sự
cần thiết của việc làm và tạo việc làm trong quá trình ĐTH. Luận văn đề cập
đến kinh nghiệm GQVL cho lao động nông nghiệp ở một số quốc gia trên
thế giới. Phân tích tác động mạnh mẽ của quá trình ĐTH đến thực trạng thu
hồi ĐNN tạo ra những biến động về kinh tế, lao động ở các huyện ngoại
thành Hà Nội. Luận văn phân tích thực trạng việc làm và GQVL cho nông

dân bị THĐ ở các huyện ngoại thành Hà Nội. Qua đó, tác giả đưa ra các giải
pháp GQVL cho lao động nông nghiệp bị THĐ ở ngoại thành Hà Nội.
- “Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị mất đất ở bốn huyện
phía tây Hà Nội”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Cam, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, thực hiện năm 2009. Luận văn lý giải tầm quan
trọng của việc làm đối với mỗi cá nhân và xã hội từ đó làm rõ ý nghĩa GQVL
đối với sự phát triển xã hội. Tác giả phân tích những biến động kinh tế, thực
trạng THĐ nông nghiệp, việc làm và GQVL cho nông dân bị THĐ ở bốn
quận, huyện phía tây Hà Nội, làm rõ thành tựu, hạn chế và nguyên nhân tồn
tại. Qua đó, tác giả đưa ra các giải pháp GQVL cho người nông dân bị THĐ
ở bốn huyện phía tây Hà Nội đến năm 2020.
- “Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình ĐTH gắn với CNH, HĐH
trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Sở lao động thương binh xã hội Hà Nội,
Đề tài khoa học và công nghệ cấp Thành phố (2005). Cùng với xu thế khách
quan và tất yếu của ĐTH là sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động ở các vùng bị THĐ sản xuất nông nghiệp, trong đó vấn đề GQVL cho
người lao động thuần nông gặp phải những trở ngại lớn khi họ buộc phải
chuyển đổi nghề mà không có chuyên môn kĩ thuật.

7


Nhìn chung, các công trình và bài viết trên đã có những cách tiếp cận
khác nhau hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp vấn đề việc làm của người dân có
đất bị thu hồi trong những năm gần đây. Đó là những nguồn tài liệu đáng
quý giúp tôi có được những số liêụ và thông tin cần thiết kế thừa và phát
triển trong luận văn của mình. Tuy nhiên, trong số các công trình đã xuất bản
chưa có công trình nào nghiên cứu về GQVL cho nông dân bị THĐ ở quận
Long Biên Hà Nội với tư cách là luận văn thạc sĩ dưới góc độ kinh tế chính

trị. Trong luận văn này, tác giả sẽ cố gắng nghiên cứu vấn đề một cách cơ
bản và hệ thống.
3. Mục đích và nhiêm vụ nghiên cứu đề tài
3.1 Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng GQVL cho người bị THĐ trong quá
trình CNH, HĐH tại quận Long Biên Hà Nội trong thời gian qua, tác giả đề
xuất các giải pháp khả thi nhằm GQVL đối với người bị THĐ tại quận Long
Biên - Hà Nội đến năm 2020.
3.2. Nhiêm vụ
- Khái quát cơ sở lý luận, thực tiễn về việc làm đối với người lao động
và nông dân bị THĐ ở nước ta và một số bài học kinh nghiệm rút ra cho
quận Long Biên.
- Phân tích thực trạng công tác GQVL cho nông dân bị THĐ tại quận
Long Biên Hà Nội từ năm 2004 đến 2010.
- Đề xuất các giải pháp GQVL cho nông dân bị THĐ trên địa bàn quận
Long Biên trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng

8


Luận văn nghiên cứu về tình trạng việc làm và GQVL cho nông dân
sau khi bị THĐ nông nghiệp trong quá trình CNH và ĐTH tại quận Long
Biên (Hà Nội).
4.2. Phạm vi
- Phạm vi không gian
Nghiên cứu vấn đề GQVL cho nông dân sau khi bị THĐ nông nghiệp
trong quá trình CNH và ĐTH tại 14 phường quận Long Biên, Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2004 đến 2010.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu vấn đề GQVL cho nông dân bị THĐ dựa trên cơ
sở các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các văn kiện Đại
hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khoá; Các chính sách
của Nhà nước, các Nghị định, quyết định của chính phủ, các thông tư hướng
dẫn thực hiện các chính sách của các Bộ ngành liên quan và của Ủy ban nhân
dân Thành phố Hà Nội về THĐ, giải phóng mặt bằng(GPNM) và GQVL cho
nông dân bị THĐ.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử để nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: hệ thống, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
phân tích, thu thập số liệu thứ cấp để làm sáng tỏ vấn đề.

9


Luận văn cũng tiếp cận một số mô hình và lý thuyết hiện đại, kế thừa và
sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và các số liệu thống kê trong một số
công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả đi trước.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó trong việc
GQVL ở quận Long Biên – Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp GQVL cho nông dân bị THĐ ở quận Long Biên
– Hà Nôị.
- Cung cấp một bộ tài liệu làm cơ sở thực tiễn cho quận Long Biên và
Thành phố Hà Nội tham khảo trong việc đề ra chính sách GQVL phù hợp
cho lao động bị THĐ trong thời gian tới.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lí luận và kinh nghiệm giải quyết việc làm
cho người lao động.
Chương 2: Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp và giải quyết việc làm
đối với nông dân bị thu hồi đất tại quận Long Biên Hà Nội.
Chương 3: Quân điểm và giải pháp tạo việc làm cho lao động thuộc
diện bị thu hồi đất nông nghiệp ở quận Long Biên Hà Nội..

10


Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1. Lý luận chung về việc làm và giải quyết việc làm cho người lao
động
1.1.1. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1.1. Quan niệm về việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp, liên quan đến nhiều mặt kinh tế,
chính trị, xã hội và dân số. Việc làm thể hiện mối quan hệ giữa con người
với những chỗ làm cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao
động được diễn ra, đồng thời là điều kiện cần thiết để nhu cầu xã hội về lao
động được thực hiện. Do vậy, việc làm là nội dung chính của hoạt động con
người. Về góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao
động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá
trình sản xuất, là nguồn gốc tạo ra của cải vật chất và sự phát triển bền vững
của một cá thể, một tổ chức, một cộng đồng hay một nền kinh tế xã hội.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về việc làm tùy thuộc vào chế

độ chính trị, văn hóa xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khái niệm việc
làm phản ánh nhận thức của con người về vị trí của các hình thức lao động
cụ thể và mối quan hệ của của nó với sự biến đổi về lượng giá trị của hàng
hóa sức lao động trong mỗi thời đại kinh tế - xã hội khác nhau. Điều này lý
giải tại sao trong nền kinh tế hiện đại, vị trí, giá trị của công việc nội trợ,
giúp việc tại các gia đình được nhìn nhận một cách công bằng hơn xã hội
phong kiến trước đây. Khi trình độ con người phát triển mọi mặt, định hướng
chính trị quốc gia thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau, quan niệm việc làm
cũng biến đổi theo.

11


Trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, có việc làm được coi là hợp
pháp, chính đáng song có những công việc tạo ra thu nhập nhưng lại không
được coi là việc làm. Sự phân biệt này dựa trên cơ sở luật pháp và ý thức hệ
của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Quan niệm về việc làm
mang lại thu nhập chính đáng cho con người (nghề hợp pháp) phù hợp với
pháp luật của mỗi nước cho phép. Ở Việt Nam, quan niệm về việc làm trước
và sau thời kỳ đổi mới cũng có sự khác nhau. Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã quan niệm "Bất cứ làm nghề gì có ích cho nước nhà, cho dân, cho giai cấp
đều vẻ vang, nấu bếp, quét nhà hay làm chủ tịch đều phải lao động" [15,
tr.59], nhưng vào trước thời kỳ đổi mới, chúng ta vẫn chưa có quan niệm
đúng về việc làm. Chủ trương thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa
nhận khi họ làm việc trong các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể còn
làm nội trợ, làm kinh tế gia đình, hành nghề cá thể thì chưa được coi là có
việc làm chính đáng. Nhận thức sai lầm này đã gây ra tình trạng coi thường,
xem nhẹ những lao động trong các hộ gia đình và các cơ sở tư nhân, gây ra
trình trạng lạm dụng sức lao động của người già và trẻ em, đặc biệt ở các khu

vực kinh tế nông thôn. Vì vậy, người lao động chen nhau tìm việc trong các
khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể làm cho cung lao động tăng quá mức
so với cầu lao động. Tình trạng bao cấp như một sự bảo trợ cho những lao
động chây lười, ỷ lại. Tình trạng đó đã tạo ra nhiều bất cập trong tổ chức xắp
xếp lao động, đi ngược lại thực trạng nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu của
nước ta lúc đó. Về thực chất, kinh tế quốc doanh và tập thể phát triển nhanh
về số lượng nhưng thiếu vững chắc, còn kinh tế gia đình thì teo đi, kinh tế cá
thể và tư nhân không phát triển được. Tình hình đó gây tác hại không nhỏ đến
sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước, làm mai một khá nhiều nguồn
tạo việc làm trong xã hội, đưa vấn đề GQVL đến chỗ khó khăn, bế tắc.

12


Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang vận động theo cơ chế thị trường,
quan niệm về việc làm đã thay đổi. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và nghiên cứu vận dụng trong
điều kiện cụ thể ở Việt Nam, chúng ta đã có quan niệm thống nhất về việc làm
và được khẳng định trong Bộ Luật Lao động của nước CHXHCH Việt Nam
được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 23/6/1994:“Mọi hoạt động lao động
tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều đượg thừa nhận là việc
làm” [23, tr.163].
Theo đó khái niệm về việc làm bao hàm các nội dung sau:
+ Là hoạt động lao động của con người.
+ Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
+ Hoạt động lao động đó không bị pháp luật cấm.
Khái niệm việc làm trên đã xóa bỏ được quan niệm cứng nhắc trước đây
là chỉ những người “làm việc trong biên chế Nhà nước” mới là người có việc
làm. Việc làm không chỉ có trong biên chế mà còn ngoài biên chế, không chỉ
ngoài xã hội mà còn tại gia đình. Với nhận thức này, tất cả những ai đang

làm việc trong các thành phần kinh tế, trong các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức xã hội, xí nghiệp, trường học hoặc tại gia nếu tạo ra thu nhập hoặc tiết
kiệm được chi phí trong sản xuât, tiêu dùng... đều được coi là có việc làm.
Như vậy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm và tạo khả năng
to lớn giải phóng tiềm năng lao động, GQVL cho nhiều người. Việc chuẩn
hóa khái niệm việc làm tạo ra cơ sở thống nhất trong lĩnh vực tổ chức lao
động, điều tra, nhiên cứu và hoạch định các chính sách về việc làm của Đảng
và Nhà nước ta.

13


1.1.1.2.Quan niệm về giải quyết việc làm
GQVL theo nghĩa rộng là tổng thể những chính sách và biện pháp của
Nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều được
lao động (có việc làm) và có thu nhập. Theo nghĩa hẹp, GQVL là các biện
pháp, chính sách chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, thiếu việc làm
nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động để giảm tỷ lệ thất nghiệp. Thực
chất của GQVL là quá trình tạo ra và kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm
sức lao động, tư liệu sản xuất và các điều kiện kinh tế xã hội khác để cho
người có khả năng lao động được lao động và duy trì hoạt động lao động đó.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về GQVL, trong đó nổi bật là lý
thuyết của J.M.Keynes, Athur Lewis, Harry Toshima. Lý thuyết việc làm của
J.M.Keynes được trình bày trong tác phẩm “Lý thuyết tổng quát về việc làm,
lãi suất và tiền tệ” cho rằng: Việc làm có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn
định và tăng trưởng của nền kinh tế. Khi việc làm tăng thì thu nhập tăng, đây
là nhân tố thúc đẩy tăng tổng cung và tăng trưởng nền kinh tế. Nhưng theo
ông, nếu muốn tăng việc làm cần mở rộng đầu tư. Điều này có nghĩa là để
tăng khối lượng đầu tư Nhà nước cần những chương trình đầu tư quy mô lớn,

đồng thời cần có những chính sách kích thích đầu tư của tư nhân (chính sách
tài chính, tín dụng, lưu thông, tiền tệ, chính sách thuế...). Việc mở rộng chi
tiêu Nhà nước, tăng tiêu dùng của người giầu, chính sách ướp lạnh tiền công,
tín dụng tiêu dùng cũng là các giải pháp để tăng tổng cầu, mở rộng quy mô
việc làm.
Giải pháp tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư, tăng trưởng kinh tế thì phải
có tích lũy, để từ đó có vốn mở rộng tái sản xuất. Đối với các nước đang phát
triển, do thu nhập thấp, tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ tích lũy thấp, dẫn đến
thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng trưởng, các nước này cần phải
dựa vào lợi thế so sánh của mình là tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực
dồi dào để thu hút đầu tư bên ngoài ( hiểu theo nghĩa rộng vốn đầu tư bao

14


gồm vốn ngoại tệ, thiết bị, phương tiện kỳ thuật, công nghệ, tri thức quản lý
kinh tế hiện đại...), từ đó sẽ tạo mở được nhiều việc làm. Tốc độ và quy mô
của vốn đầu tư tăng sẽ thúc đẩy trực tiếp tốc độ và quy mô thu hút nhân lực
vào hoạt động kinh tế tạo việc làm. Như vậy, dưới góc độ kinh tế thị trường,
có thể khái quát quy mô việc làm được quyết định bởi
- Quy mô vốn đầu tư: Khi lực lượng sản xuất càng phát triển, nền sản
xuất càng coi trọng việc sử dụng máy móc thì lượng vốn đầu tư để có một
chỗ làm việc càng lớn. Nền sản xuất có nhiều hình thức đầu tư sẽ có nhiều
ngành nghề, có điều kiện mở rộng quy mô việc làm. Trong điều kiện trình độ
công nghệ không đổi, thì quy mô đầu tư tỷ lệ thuận với quy mô việc làm.
- Số lượng và chất lượng lao động: Số lượng người lao động càng nhiều
thì càng có điều kiện tạo thêm việc làm. Tuy nhiên, chất lượng người lao
động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chất lượng người lao động được thể
hiện ở trình độ, năng lực lao động, tính kỷ luật và phẩm chất của mỗi người
lao động. Sự sẵn sàng về số lượng và chất lượng lao động để đáp ứng cầu lao

động trên thị trường là một điều kiện rất quan trọng trong việc quyết định
quy mô việc làm.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Nếu dung lượng thị trường này lớn, sức
tiêu thụ sản phẩm nhiều và nhanh thì cầu về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng
tương ứng, theo đó cầu về các yếu tố sản xuất tăng, cầu về lao động tăng làm
cho quy mô việc làm cũng tăng lên. Để tạo ra và thúc đẩy tăng trưởng những
nhân tố trên đòi hỏi phải có một loạt các giải pháp như mở rộng tích lũy vốn,
phát triển khoa học công nghệ, khai thác triệt để và có hiệu quả các nguồn
lực về tài nguyên thiên nhiên; điều tiết gia tăng dân số, mở rộng và nâng cao
chất lượng giáo dục - đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; sự hỗ trợ
của các chính sách của Nhà nước trong việc khuyến khích đầu tư, phát triển
thị trường lao động, chính sách thu nhập, mở cửa nền kinh tế... Về mặt lý

15


thuyết cũng như thực tiễn, đây chính là những giải pháp chủ yếu nhằm
GQVL. Sự phối hợp đồng bộ và có hiệu quả những giải pháp này là điều
kiện thiết yếu làm tăng quy mô việc làm trong xã hội và chính đây cũng là
điều kiện tạo sự tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết của Arthur Lewis được thể hiện tập trung trong công trình
nghiên cứu nổi tiếng “Phát triển kinh tế với không giới hạn nguồn lao
động”. Những lý luận của ông trình bày trong nghiên cứu này được giới
kinh tế học gọi là “Mô hình Lewis” đã chỉ rõ giải pháp GQVL việc làm là
tạo ra sự di chuyển lao động giữa hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp.
Theo ông, các nước kinh tế thuộc thế giới thứ ba muốn chuyển đổi nền kinh
tế truyền thống lạc hậu, chủ yếu sản xuất nông nghiệp năng suất thấp, thừa
lao động sang nền kinh tế hiện đại phải khởi động tăng trưởng bằng cách
thực hiện CNH và có chính sách thu hút các yếu tố kinh tế du nhập để phát
triển khu vực kinh tế hiện đại tạo ra sự di chuyển tự nhiên những lao động

dư thừa từ nông nghiệp sang công nghiệp. Lewis cho rằng ở khu vực kinh tế
truyền thống luôn tồn tại số lao động sẵn sàng di chuyển đến nơi làm việc ở
khu vực kinh tế hiện đại vì có mức thu nhập cao hơn khu vực kinh tế truyền
thống . Lao động trong khu vực kinh tế này có thể tạo ra lượng giá trị lớn
hơn mức lương họ được hưởng nên nhà tư bản có điều kiện tích lũy, mở rộng
đầu tư đổi mới kỹ thuật mở rộng sản xuất, tăng cầu lao động.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế gió mùa của Harry Toshima chỉ rõ: mô
hình của Lewis không có ý nghĩa thực tế đối với tình trạng dư thưa lao động
ở các nước nông nghiệp gió mùa vì đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước
thiếu lao động trong đỉnh cao thời vụ và thừa lao động lúc nhàn rỗi, hiệu quả
sử dụng lao động nông nhiệp thấp dẫn đến năng xuất và thu nhập thấp.
Nguyên nhân của tình trạng trên là: nền nông nghiệp lúa nước của các nước

16


châu Á chịu tác động lớn của khí hậu gió mùa nên chỉ canh tác vào mùa mưa
và nhàn rỗi vào mùa khô. Theo ông sự phát triển bắt đầu bằng cách giữ lại
lao động trong nông nghiệp và tạo thêm việc làm trong lúc nhàn rỗi như tăng
vụ đa dạng hóa cây trồng hoặc chăn nuôi phát triển ngành công nghiệp chế
biến, công nghiệp có thể dụng nhiều lao động nông thôn, lao động nông
nghiệp được sử dụng hết thì thu nhập tăng, theo đó cầu tiêu dùng tăng có
điều kiện phát triển ngành dịch vụ tại nông thôn. Khi đó, lao động nông
nhiệp được sử dụng hết, thị trường lao động thu hẹp lại, tiền lương thực tế
tăng nhanh, các nông trại sẽ thực hiện cơ giới hóa thay thế lao động thủ công
bằng máy móc sẽ làm cho năng suất lao động tăng lên. Ông cho rằng: nông
nghiệp là con đường tốt nhất để bắt đầu một sự phát triển ở các nước Châu Á
gió mùa, tiến tới một xã hội phát triển cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp dịch vụ. Do vậy, trước hết phải tập trung vào phát triển nông nghiệp đa
dạng, thị trường rộng lớn, dịch vụ tiện ích, sử dụng lao động nông nghiệp có
hiệu quả.

Nhìn chung, các lý thuyết này đã quan tâm đến GQVL bằng những
cách khác nhau. Các lý thuyết trên đã được nhiều quốc gia vận dụng. Nửa
đầu thế kỷ XX, lý thuyết của J.M.Keynes đã có ảnh hưởng sâu rộng đến
nhận thức về vai trò của đầu tư và quan hệ của nó với việc làm trong nền
kinh tế. Lý thuyết này được vận dụng rộng rãi trong qúa trình khắc phục
khủng hoảng kinh tế và GQVL ở các nước châu Âu và Mỹ. Lý thuyết củà
W.A. Lewis được Trung Quốc vận dụng thành công trong phát triển kinh tế
và GQVL cho lao động ở vùng chuyển đổi kinh tế nông nghiệp sang công
nghiệp. Nhưng hiện nay, nước này đang phải giải quyết vấn đề “hậu Lewis”
vì trình độ của lao động di chuyển từ khu vực kinh tế truyền thống không
đáp ứng được sự phát triển lâu dài và liên tục của khu vực kinh tế hiện đại,
còn những lao động thuộc thế hệ con, em họ được đã qua đào tạo thì đòi hỏi

17


mức lương cao hơn. Theo lý thuyết kinh tế của Harry Toshima muốn GQVL
phải phát triển nền nông nghiệp hiện đại, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghệ chế biến nông sản. Mỗi lý thuyết đều có ưu điểm và hạn chế nhất
định nó chỉ phát huy được ưu điểm trong những điều kiện kinh tế xã hội
tương đồng. Như vậy, trong nền kinh tế tiền tệ những quan điểm luôn thay
đổi về tương lai, có khả năng ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ
định hướng việc làm.
Vì vậy, chính sách GQVL phải hướng tới những biện pháp cụ thể, phù
hợp với hoàn cảnh và đối tượng cụ thể , phải tạo điều kiện cho người lao
động phát huy ưu điểm, thường xuyên nâng cao trình độ. Để có một việc làm
mới không chỉ phụ thuộc vào đầu tư của Nhà nước, của doanh nghiệp mà
còn phụ thuộc đầu tư của chính người lao động để nâng cao giá trị sức lao
động của mình. Những lao động chuyển đổi nghề phải gắn với quá trình vừa
học vừa làm. Giải pháp GQVL phải tạo công việc đảm bảo sự ổn định, phát

triển lâu dài của cho người lao động và sự phát triển bền vững của nền kinh
tế - xã hội.
1.1.2. Vai trò GQVL cho người lao động
1.1.2.1. Vai trò kinh tế
GQVL cho người lao động có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế, đó
chính là việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của con người
trong mối quan hệ với các nguồn lực khác. Đó là quá trình con người làm
giầu vật chất xã hội từ khả năng biến đổi và cải tạo các dạng vật chất tự
nhiên phục vụ cuộc sống của mình . Trong toàn bộ sự phát triển của nền kinh
tế xã hội, con người luôn tồn tại với hai tư cách vừa là chủ thể vừa là mục
tiêu trong mọi hoạt động của mình. Với tư cách là chủ thể, con người thực
hiện sự phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết là sự phát triển của lực lượng

18


sản xuất. Với tư cách là mục tiêu, con người hưởng thụ những thành quả của
sự phát triển đó. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, tạo việc
làm cho người lao động tức là đảm bảo đồng thời lợi ích của ba chủ thể: Nhà
nước, tập thể và cá nhân người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm
thì người lao động không tạo ra thu nhập, không cống hiến được sức lực của
mình dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội.
GQVL tốt, số nhân lực được sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và
dịch vụ nhiều hơn, làm gia tăng của cải vật chất cho xã hội, gia tăng sản
lượng hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu. Có việc làm ổn định, thu nhập của người lao động ngày càng được cải
thiện, nhu cầu tiêu dùng mua sắm và sử dụng các dịch vụ cũng tăng theo.
Đây là yếu tố quan trọng để kích thích và phát triển kinh tế trong nước. Kinh
tế phát triển làm cho ngân sách quốc gia tăng lên, có tích lũy để đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của đất

nước, có điều kiện nâng cao chất lượng văn hóa – xã hội và dân trí. Do đó,
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia, vấn đề GQVL
cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người đang được
thừa nhận là rất quan trọng và quyết định đối với một nền kinh tế. Bất kỳ
một quốc gia nào nếu giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động thì
quốc gia đó nhất định có nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Nhật Bản là
quốc gia có điều kiện tự nhiên không thuận lợi nhưng chỉ trong vòng 2 thập
kỷ, đất nước này đã trở thành cường quốc đứng thứ hai thế giới nhờ coi
trọng việc sử dụng nguồn lực con người trong quá trình khôi phục và phát
triển kinh tế [6, tr.12].
Như vậy, giải quyết tốt việc làm cho người lao động có thể tận dụng
hiệu quả cả thể lực và trí lực của con người cho công cuộc phát triển kinh tế.
Việt Nam là quốc gia có dân số đông (trên 86 triệu người), trong đó hàng

19


năm có khoảng trên một triệu người đến tuổi lao động. Năm 2011, vấn đề
việc làm và nâng cao thu nhập của người lao động thật sự trở nên cấp bách.
Từ năm 2000 đến nay, các cấp chính quyền đã có nhiều chính sách, biện
pháp giảm tỷ lệ thất nghiệp tạo việc làm cho người lao động như: Xây dựng
và tổ chức thực hiện các đề án GQVL cho lao động, tạo điều kiện về cơ chế,
chính sách, vay vốn... thành lập và phát triển các doanh nghiệp tư nhân, các
cơ sở làng nghề, cải cách doanh nghiệp Nhà nước, tăng cường quan hệ
thương mại thế giới...Tuy vậy, vấn đề việc làm cho người lao động ở nước ta
hiện nay đang đạt ra nhiều đòi hỏi phải được giải quyết hiệu quả phục vụ cho
sự phát triển kinh tế.
1.1.2.2. Vai trò xã hội
GQVL càng nhiều phản ánh sức thu hút mạnh mẽ và sử dụng nguồn
nhân lực hiệu quả vào các hoạt động sản xuất của cải vật chất và các dịch

vụ phi vật chất trong xã hội. Nhiều lao động có việc làm cũng đồng nghĩa
với việc giảm tỷ lệ thất nghiệp cả về số lượng tương đối và tỷ lệ, giảm bớt
gánh nặng của Chính phủ trong việc thực hiện các nhiệm vụ phúc lợi an
sinh xã hội như trợ cấp thất nghiệp và các trợ cấp cho người thuộc diện
đói nghèo..v..v..
Đối với người lao động có việc làm sẽ tạo được thu nhập ổn định, là sự
đảm bảo về vật chất cho đời sống gia đình. Người xưa có câu “nhàn cư vi
bất thiện”, vì vậy, có việc làm không chỉ tạo ra cuộc sống ổn định của chính
bản thân người lao động mà còn là điều kiện bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Việc sử dụng quỹ thời gian hàng ngày của mỗi cá nhân dành cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh, học tập, nghiên cứu... là yếu tố căn bản tạo nên những
nếp sống lành mạnh. Có việc làm thường xuyên, người lao động có thu nhập
ổn định, nâng cao khả năng tích lũy của cải vật chất. Mỗi người dân làm giàu
cho chính mình sẽ làm cho nước mạnh, tạo điều kiện vật chất thực hiện xã

20


hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực tế đã chứng minh rằng: Chỉ có lao
động con người mới tạo ra được sự phát triển cho chính mình và cho xã hội.
Ngược lại, khi người lao động không có việc làm thì tình trạng thất
nghiệp và đói nghèo tăng lên, khoảng cách giàu nghèo càng lớn, các tệ
nạn xã hội ngày càng gia tăng, xã hội mất ổn định. Nhiều vụ bạo loạn, đảo
chính lật đổ chính quyền ở các quốc gia trên thế giới cũng thường được
bắt đầu từ những vấn đề thất nghiệp và đói nghèo. Do đó, để đảm bảo ổn
định xã hội, ổn định chính trị mọi quốc gia đều coi GQVL là nhiệm vụ
hàng đầu về an sinh xã hội của nước mình.
Như vậy, GQVL cho người lao động có vai trò và ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh tế
phát triển, thể chế chính trị và xã hội ổn định tác động trở lại tạo cơ hội và

thu hút lao động có việc làm và tăng thu nhập của cộng đồng dân cư. Do
đó, GQVL cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ, nhất là đối với các nước đang
phát triển, có dân số đông, tỷ lệ gia tăng dân số cao thì vấn đề GQVL lại
càng quan trọng và cấp thiết.
1.2. Giải quyết việc làm cho nông dân bị THĐ
1.2.1. Sự cần thiết và đặc điểm GQVL cho nông dân bị thu hồi đất
1.2.1.1. Sự cần thiết GQVL cho nông dân bị THĐ
GQVL cho người lao động là vấn đề muôn thủa của mọi quốc gia,
trong giai đoạn hiện nay, GQVL cho lao động bị THĐ vừa mang tính lâu dài
vừa mang tính cấp bách. Điều đó xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất: Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, Nhà nước đã tiến hành
thu hồi nhiều diện tích ĐNN để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội,

21


trong đó tập trung phát triển các cụm, KCN, dịch vụ nhằm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và lao động. Chính sách này đã thu hút được hàng chục ngàn dự
án của các nhà đầu tư trong và ngoài nước với số vốn vài chục tỷ USD và
hàng trăm ngàn tỷ đồng để phát triển KCN, KĐT. Theo đó, hàng triệu lao
động đã tìm được việc làm tại đây với thu nhập cao, trong đó có một số ít lao
động trẻ là những nông dân bị THĐ. Song thực tế số lao động tìm được việc
làm chỉ có tính tạm thời nên số lao động không có việc làm lại tăng lên. Cụ
thể là: sau 5 đến 10 năm, chỉ có một số rất ít lao động có tay nghề cao và sức
khỏe tốt được tiếp tục làm việc, đa phần còn lại bị sa thải vì bị mất ưu thế về
sức lao động và mức lương thấp. Sau một thời gian ổn định, các doanh
nghiệp sẽ tuyển những lao động có sức khỏe tốt hơn và trình độ nghề nghiệp
cao hơn để đảm bảo yêu cầu về chất lượng lao động trong nhà máy của họ.
Điều này xảy ra phổ biến ở các KCN có các nhà đầu tư nước ngoài đã làm

cho tỷ lệ thất nghiệp tại các vùng THĐ nông nghiệp tăng lên nhanh chóng.
Thực trạng THĐ nông nghiệp đã làm cho hàng vạn nông dân cả nước bị
mất việc làm. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội, từ
năm 2005-2009, Hà Nội có gần 108.000 người (bình quân 2 lao động/hộ) bị
mất việc; Hà Nam 12.360 người; Hải Phòng 13.274 người; Hải Dương
11.964 người; Bắc Ninh 2.222 người; Tiền Giang 1.459 người; Quảng Ninh
997 người...Một số xã như xã An Khánh (Hoài Đức , Hà Nội) sau khi giao
96% đất nông nghiệp có 1.520 lao động mất việc, xã Anh Dũng (Kiến Thụy,
Hải Phòng) giao 90% đất nông nghiệp, số lao động mất việc làm lên tới
1.401 người (chiếm 60% lực lượng lao động). Xã Lai Vu (Kim Thành, Hải
Dương) sau khi giao 87% đất nông nghiệp, 1.200 người (chiếm 70% lực
lượng lao động) bị mất việc làm... Trung bình mỗi hộ có khoảng 1,5 lao
động rơi vào tình trạng mất việc làm sau khi bị THĐ sản xuất [16, tr.1].

22


Trong số những lao động mất việc này, nhóm bị ảnh hưởng nhiều nhất
là từ 35 tuổi trở lên ,chiếm khoảng 60%. Trong độ tuổi này, họ rất khó tìm
được việc làm và thu nhập ổn định. Nhóm lao động trong độ tuổi từ 18 – 25,
kinh nghiệm lao động chưa nhiều, tại thời điểm bị THĐ việc chuyển nghề và
tìm kiếm việc làm mới gặp nhiều khó khăn vì không đáp ứng được yêu cầu
về tay nghề. Nhiều địa phương có tới hàng ngàn lao động mất việc làm
nhưng chỉ có 10 – 20/100 người đã qua đào tạo nghề. Nhóm tuổi này có ưu
thế về sức khỏe, trình độ học vấn đồng đều, trình độ nghề nghiệp chưa cao
nhưng khả năng học nghề tốt, nhạy bén với cái mới và thời cuộc. Sức ép về
GQVL cho đối tượng này là làm sao cho cung - cầu lao động gặp nhau.
Việc THĐ để xây dựng các KCN, KĐT chính là điều kiện và thời cơ tốt
để chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp, khu vực có năng suất lao động
thấp, sang công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao. Nhưng trong qúa trình

thực hiện THĐ những hệ lụy về GQVL cho nông dân mà nó gây ra đã vượt
quá khả năng giải quyết của chính quyền địa phương. Vì thế, việc THĐ nông
nghiệp để phát triển các KCN, KĐT thực hiện mục tiêu CNH, HĐH vốn là
để GQVL cho nông dân theo hình thức chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động thì nay lại trở thành sức ép về GQVL. Vấn đề GQVL cho nông dân
bị THĐ trở nên gay gắt hơn, số lượng lao động nông nghiệp bị mất việc làm
ngày một tăng lên trong cả nước qua mỗi năm thực hiện CNH.
Thứ hai: Những lao động bị THĐ không đáp ứng được yêu cầu tuyển
dụng lao động của các doanh nghiệp. Mặc dù các doanh nghiệp nhận đất thu
hồi đều cam kết với chính quyền địa phương sẽ GQVL cho nông dân bị
THĐ, cụ thể là: Ở Hà Nội thu hồi 1ha đất doanh nghiệp phải tạo việc làm
mới cho 10 lao động, Hưng Yên thu hồi 100m2 doanh nghiệp phải GQVL
cho 1 lao động. Nhưng trên thực tế số lao động được tuyển dụng làm việc
trong các doanh nghiệp này chiếm tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 20- 30%). Phần lớn

23


×