Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phân tích ngành xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.6 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay khi đời sống kinh tế của chúng ta ngày càng phát triển thì cuộc
sống sinh hoạt của con người ngày càng được coi trọng hơn. Việc thưởng thức
cuộc sống không chỉ dừng lại ở việc đủ nữa mà bây giờ nhu cầu của con người
sẽ nâng lên một tầm cao hơn sự đầy đủ là tính thẩm mĩ, mọi thứ phải đẹp, phải
sang trọng. Trong xây dựng, thì việc tạo dựng nhà cửa nói riêng cũng như công
trình cao cấp nói chung, ngoài việc đầy đủ chức năng nó còn phải đẹp, phải có
phong cách mới phù hợp với thời đại mới đáp ứng được nhu càu của khách
hàng. Nhà giờ đây không chỉ đơn giản là việc che mưa che nắng nữa mà nó còn
thể hiện cái tôi của người ở và người sở hữu. Ví như một người muốn xây một
ngôi nhà cho gia đình mình ở thì ngoài việc thuê một một người thiết kế giỏi
người đó sẽ tìm một công ty xây dựng tầm cỡ về khả năng xây dựng để đảm
bảo cho ngôi nhà của họ được như họ mong muốn. Chính vì vậy mà vai trò của
ngành xây dựng ngày càng trở lên quan trọng hơn. Nhu cầu về xây dựng ngày
càng lớn mà ngành xây dựng là ngành có tính thời đại; mỗi năm, mỗi tháng lại
có các công trình mới và nhu cầu của con người cũng được cập nhật liên tục
theo sự phát triển đó.
Khi quy mô và yêu cầu của thị trường thay đổi, nhà đầu tư luôn hướng
tới việc tìm kiếm, lựa chọn cơ cấu đầu tư danh mục theo các ngành nghề trọng
điểm, các doanh nghiệp đầu ngành, có lịch sử phát triển ổn định và có sức cạnh
tranh cao. Ngành xây dựng luôn có sự phát triển nhanh và ổn định, thu hút rất
nhiều sự quan tâm và chiến lược dài hạn của các nhà đầu tư. Để có thể nắm bắt
quá trình và triển vọng phát triển của ngành xây dựng, chúng ta cần có sự tìm
hiểu kỹ lưỡng cho sự lựa chọn của mình. Bài tiểu luận dưới đây xin đưa ra
những nhận định tổng quát nhất về thực trạng ngành xây dựng dựng cũng như
triển vọng phát triển của ngành, các công ty trong ngành và một số cơ hội đầu
tư, gồm những ý chính:
1. Vị trí của ngành xây dựng trong nền kinh tế
2. Tổng quan về ngành
2.1. Chuyên ngành và các sản phẩm của ngành
2.2. Đặc thù của ngành


3. Các nhân tố ảnh hưởng đến ngành xây dựng
3.1. Nhân tố chính trị
3.2. Nhân tố xã hội
3.3. Nhân tố kinh tế
3.4. Nhân tố công nghệ
4. Cơ hội và thách thức của ngành xây dựng trong giai đoạn hiện nay
1
5. Thông tin về các công ty xây dựng niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khoán và một số lựa chọn đầu tư
6. Kết luận
2
1. Vị trí của ngành xây dựng trong nền kinh tế
Nhìn vào diện mạo đô thị Việt Nam hôm nay phần nào cho thấy vị trí
quan trọng và sự lớn mạnh của ngành xây dựng trong nỗ lực suốt nửa thế kỷ
qua để khẳng định vị trí của một nền kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế
thì hiện nay ngành xây dựng là 1 ngành có khả năng dẫn dắt nền kinh tế và đem
lại nguồn thu nhập quốc dân rất lớn.
Mạng lưới đô thị quốc gia hiện đã được sắp xếp lại, mở rộng và phát triển
hơn 720 đô thị trên cả nước, cùng 150 khu công nghiệp và khu kinh tế, đã góp
phần quan trọng tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở cả 2 khu vực đô thị và nông thôn.
Ngành xây dựng đã huy động mọi nguồn vốn cho việc đầu tư và phát
triển các khu đô thị mới nhằm tạo bước đột phá trong việc giải quyết nhu cầu
bức xúc về nhà ở cho nhân dân đô thị. Số lượng các dự án phát triển nhà ở đô
thị tăng nhanh với hơn 1500 dự án đã và đang được triển khai. Hiện cả nước có
khoảng trên 890 triệu m2 nhà ở trong đó đô thị khoảng 260 triệu m2, bình quân
mỗi năm tăng thêm 58 triệu m2 trong những năm gần đây. Trong lĩnh vực phát
triển kết cấu hạ tầng đô thị, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ngành đã đầu tư
khoảng 2,2 tỷ USD cho hệ thống cấp thoát nước. Hiện đã có trên 300 dự án cấp

thoát nước được triển khai với công suất thiết kế đạt 4,2 triệu m3/ngày đêm,
đảm bảo cho 70% dân số đô thị được cấp nước sạch. Công nghiệp vật liệu xây
dựng cũng đang hướng mạnh tới các sản phẩm có chất lượng và hàm lượng
khoa học công nghệ cao, thay thế nhập khẩu và tăng xuất khẩu. Tốc độ tăng
trưởng của ngành vật liệu xây dựng đạt trên 17%/năm, cao hơn tốc độ tăng
trưởng chung của công nghiệp cả nước. Nhiều sản phẩm có chất lượng cao như
xi măng, gạch ceramic, granit nhân tạo, sứ vệ sinh, kính xây dựng đã chiếm lĩnh
phần lớn thị trường trong nước và được xuất khẩu tới hơn 100 nước trên thế
giới.
Bằng nỗ lực tiếp cận công nghệ mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam đã tự đảm đương được hoặc nhận
thầu hầu hết các công trình xây dựng quan trọng của quốc gia, nhiều công trình
của các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hoặc của Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài. Có thể kể đến các công trình lớn như nhà máy thủy điện Sơn La,
nhà máy lọc dầu Dung Quất, dự án nhiệt điện Cà Mau, thủy điện Buôn Lốp, cầu
Thủ Thiêm …
Các doanh nghiệp xây dựng cũng đã ghi dấu ấn trong lĩnh vực hợp tác
với các nước trong khu vực về phát triển đô thị, thủy điện bằng việc góp vốn
thành lập 2 công ty cổ phần để xúc tiến các hoạt động đầu tư tại Lào và
3
Campuchia. Ngoài ra, Viện Quy hoạch Đô thị - Nông thôn đang tích cực triển
khai giúp Lào lập điều chỉnh Quy hoạch xây dựng Thủ đô Viên Chăn.
Công cuộc đổi mới đất nước trong 20 năm qua đã thu được nhiều thành
tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã thoát ra khỏi khung hoảng kinh
tế - xã hội và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Chúng ta không thể không nhắc
đến những đóng góp quan trọng và nổi bật của ngành xây dựng. Qua đó càng
thấy rõ vai trò đi đầu của ngành xây dựng trong việc nâng cao kinh tế và phát
triển đất nước.
1. Tổng quan về ngành


1.1. Chuyên ngành và các sản phẩm của ngành
a. Chuyên ngành thủy lợi và thủy điện
Xây dựng các công trình dùng sức nước phục vụ sản xuất nông - ngư
nghiệp và các mục đích khác. Sản phẩm của xây dựng thủy lợi là hồ chứa nước,
kênh dẫn nước, trạm bơm tưới tiêu nước, đập chắn nước, nhà máy thủy lợi điện
cung cấp điện năng.
b. Chuyên ngành cảng, công trình biển
Xây dựng cảng sông, cảng biển, các công trình ven sông, ven biển, tàu
thuyền, phục vụ giao thông đường thủy.
c. Chuyên ngành cầu đường
Xây dựng cầu, đường, hầm xuyên núi, hầm sông, núi, làm nhà máy hoặc
cho các mục đích khác, đường sắt, sân bay, cầu đường thành phố.
d. Chuyên ngành dân dụng và chuyên nghiệp
Là lĩnh vực xây dựng khá phổ biến và đa dạng. Ngành xây dựng dân
dụng lại có chuyên xây dựng nhà ở, chuyên xây dựng nhà công cộng. Mỗi loại
nhà có những yêu cầu công nghệ khác nhau nên phải có chuyên môn được đào
tạo riêng. Công trình nhà máy nhiệt điện khác với nhà máy hóa chất, nhà máy
lọc dầu khác với nhà máy xi măng. Do công nghệ khác nhau nên muốn thành
thục tay nghề cần được đào tạo dể có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp riêng.
e. Chuyên ngành xây dựng nông nghiệp
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp từ quá trình sản xuất đến cất giữ,
bảo quản, chế biến sản phẩm nên xây dựng nông nghiệp cũng rất đa dạng: trại
chăn nuôi, cơ sở chế biến…
4
f. Chuyên ngành cấp thoát nước đô thị
Xây dựng hệ thống cấp nước đô thị, khu dân cư cũng như hệ thống thoát
và xử lý nước đã dùng, bảo đảm môi trường nước được sạch sẽ.
g. Chuyên ngành môi trường
Xây dựng điều kiện bảo đảm môi trường sinh hoạt và sản xuất đô thị và
khu dân cư, sản phẩm là cây xanh cho đô thị ngăn tiếng ồn, ngăn bụi, tạo môi

trường vi khí hậu, thông gió, các phân xưởng sản xuất, vận chuyển thu gom rác,
xử lý rác thải sinh hoạt và sản xuất.
2.2. Đặc thù cơ bản của ngành
- Lao động trong xây dựng cơ bản là lao động có nghề nghiệp làm theo định
mức nhân công: được tổ chức theo khoa học. Sản phẩm xây dựng ở mỗi nhóm
nghề đều có mục đích sử dụng rất khác nhau đòi hỏi phải hình thành những kiến
thức và kỹ năng ở từng chuyên ngành.
- Công cụ trong sản xuất: công cụ phụ trợ, công cụ chính, công cụ chuyên
chở. Công cụ lại đa dạng từ công cụ cầm tay thô sơ hoặc hiện đại đến những
máy móc đồ sộ, cần cẩu có sức nâng đến hàng nghìn tấn, cao hàng chục mét,
công nghệ xây dựng phát triển theo hướng cơ giới hóa để nâng cao chất lượng
công trình và hiệu quả kinh tế.
- Sản phẩm của xây dựng là phương tiện cho các hoạt động lao động sản
xuất dịch vụ khác: nhà máy để sản xuất công nghiệp, cầu, đường là phương tiện
của ngành giao thông, đê đập là phương tiện của ngành thủy lợi…
Nhiều khi sản phẩm xây dựng còn là mục đích của phúc lợi: nhà ở, công
trình công cộng. Phân định sản phẩm nào là mục đích hoặc là phương tiện nhằm
có chính sách đầu tư hiệu quả.
Đặc điểm của sản phẩm xây dựng: chiếm diện rộng, vật liệu là phương
tiện thi công phải chuyển từ nơi khác đến địa điểm xây dựng.việc chiếm diện
rộng còn làm cho việc bảo vệ,gìn giữ quá trình xây dựng gặp khó khăn.
- Thời gian hoàn thành sản phẩm thường kéo dài, xây dựng hàng năm,
nhiều năm nên tác động của thời tiết, khí hậu làm tăng khó khăn.
Thời gian kéo dài còn chịu những thay đổi của tổ chức, của con người,
nhiều khi thay đổi như trong quá trình tạo ra sản phẩm xây dựng làm cho công
trình chắp vá, thiếu đồng bộ. Ngoài ra sản phẩm xây dựng còn do nhiều người,
có các nghề nghiệp khác nhau tham gia nên nó có tính phức hợp. Hoạt động tổ
chức xây dựng đòi hỏi phải có trình độ tổ chức khoa học cao.
- Đóng góp của ngành xây dựng là một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân,
của quỹ tích lũy cùng với vốn đầu tư của nước ngoài. So với các ngành sản xuất

5
khác, ngành xây dựng có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể
hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây dựng và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành.
Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp xây dựng.
Sản phẩm xây dựng là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy
mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây
lắp lâu dài... Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây dựng phải
lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Quá trình sản xuất xây dựng
phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro
phải mua bảo hiểm cho công trình xây dựng.
Sản phẩm xây dựng được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận
với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây dựng
không thể hiện rõ. Sản phẩm xây dựng cố định tại nơi sản xuất còn các điều
kiện sản xuất (phương tiện cơ giới, thiết bị thi công, người lao động...) phải di
chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử
dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên
nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng...
Sản phẩm xây dựng từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình
bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức
tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều
giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công
việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường
như nắng, mưa, lũ lụt...Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt
chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán. Những
đặc điểm trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây dựng. Công tác kế toán vừa phải
đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp
sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây
dựng.

3. Các nhân tố ảnh hưởng đến ngành xây dựng
3.1. Nhân tố xã hội
- Nguồn nhân lực của ngành xây dựng là một vấn đề hiện nay vì hiện đang
thiếu lao động ngành, tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” đang xảy ra.
Thuận lợi đối với nguồn nhân lực cho ngành xây dựng là một ngành đang
được đánh giá là hấp dẫn, có thể sử dụng và thu hút nhiều nhân lực từ trình độ
phổ thông đến kỹ sư, thạc sĩ…
6
Bên cạnh những thuận lợi, nguồn nhân lực xây dựng cũng đang có nhiều
khó khăn: Một là, đa số lực lượng lao động trong ngành xây dựng đến từ nông
thôn, nên nhiều lao động chưa qua đào tạo bài bản, thậm chí chưa qua đào tạo,
sức khỏe không đồng đều, ý thức chấp hành kỷ luật công nghệ chưa cao, thiếu
chu đáo cẩn thận, dễ dàng bằng với kết quả đạt được và cũng dễ bị sa ngã vào
những tiêu cực, tệ nạn xã hội vốn đồng hành với nhiều công trường. Hai là, chế
độ tiền lương chưa hợp lý. Tuy tiền lương đã áp dụng cơ chế thị trường nhưng
nếu so sánh thu nhập bình quân hàng tháng của lao động trong khu vực nhà
nước của công nhân xây dựng với các ngành nghề khai thác mỏ và điện thì tiền
lương của công nhân xây dựng chỉ bằng 2/3 hoặc 1/2, nên chưa có sức hút
mạnh đối với người lao động, nhất là cán bộ kỹ thuật giỏi, công nhân có tay
nghề cao. Ba là, công tác đào tạo nguồn nhân lực ban đầu cũng như đào tạo liên
tục không theo kịp yêu cầu của thị trường và các tiến bộ khoa học kỹ thuật xây
dựng. Các hoạt động đào tạo và dạy nghề hiện nay chưa phối hợp và gắn bó mật
thiết với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, chưa hội nhập
nhiều với quốc tế, chưa liên kết các cơ sở thành mạng lưới đào tạo và dạy nghề
xây dựng có gắn với thị trường xây dựng.
Ngoài ra, điều kiện làm việc, sinh hoạt cũng là một trong những trở ngại
đối với lao động làm theo công trình. Như nhà ở chỉ được dựng tạm với ít tôn
và cây. Môi trường ẩm thấp cùng với suốt ngày làm dưới trời nắng nên dễ dàng
sinh bệnh tật. Do đó, để bền vững với nghề này đòi hỏi mỗi người phải có sức
khỏe thật tốt, kiên trì với cái khó. Làm việc trong điều kiện mưa nắng, vất vả,

nặng nhọc, không phải người lao động nào cũng muốn gắn bó với nghề xây
dựng, cho dù mức thu nhập không quá thấp so với nhiều ngành nghề khác. Theo
các chủ thầu xây dựng thì bình quân thu nhập của 1 người làm nghề xây dựng
từ 70-100.000 đ/ngày, những thợ có tay nghề cao có thể được trả 150.000
đ/ngày. Thế nhưng hiện nay, nhiều công ty xây dựng đang rất thiếu nhân lực
mặc dù các doanh nghiệp đều thực hiện trả lương khá cao.
- Nhu cầu nhà ở ngày càng cao kèm theo sự phát triển của xã hội, đòi hỏi
nhiều hơn nữa những công trình đồ sộ với kết cấu vững chắc và ngày càng hoàn
thiện. Ngành xây dựng cần phải tìm tòi cái mới, áp dụng khoa học công nghệ,
các sáng chế khoa học để chất lượng công trình ngày càng phát triển và hoàn
hảo.
3.2. Nhân tố chính trị
Chúng ta sắp bước vào năm thứ mười của thế kỷ XXI, nhưng chế độ
chính sách xây dựng trong những năm gần đây vẫn còn nhiều biến động, đơn cử
một trong những quy định hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng đó là “Quản lý
dự án đầu tư xây dựng công trình”! Luật Xây dựng ban hành ngày 26/11/2003
7
thì ngày 07/02/2005 Chính phủ ban hành Nghị định 16/2005/NĐ-CP về “Quản
lý dự án đầu tư xây dựng công trình”, Nghị định này hướng dẫn thi hành Luật
xây dựng về lập, thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình; hợp đồng trong
hoạt động xây dựng; điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân lập dự án đầu tư
xây dựng công trình, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng và giám sát xây dựng
công trình. Nghị định 16/2005 thi hành được 1 năm 7 tháng 22 ngày thì lại ban
hành Nghị định 112/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ xung một số điều của Nghị định
16/2005! Và rồi 5 ngày, 4 năm sau, ngày 12/2/2009 Nghị định 12/2009/NĐ-CP
( Nghị định này hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng về lập, thẩm định, phê
duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình; thực hiện dự án đầu tư xây dựng công
trình; điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân trong hoạt động xây dựng) lại
thay thế Nghị định 16/2005 và 112/2006.
Như vậy chưa đầy 6 năm trời, công tác “Quản lý dự án đầu tư xây dựng

công trình” đã có tới 3 Nghị định của Chính phủ! “Quản lý dự án đầu tư xây
dựng công trình” là một lĩnh vực qủan lý tổng thể của nhiều lĩnh vực khác, bên
cạnh đó còn có những lĩnh vực quản lý cụ thể. Một khi thay đổi chủ trương,
chính sách thì nó kéo theo thay đổi nhiều mặt quản lý và kinh tế. Ngành Xây
dựng cần sớm nhấn mạnh luật lệ, chính sách để mọi mặt trong xây dựng có thể
ổn định chính sách cụ thể, cần nhanh chóng có kế hoạch rà soát lại các chế độ
chính sách tổng thể và chế độ chính sách cụ thể liên quan đến “Quản lý dự án
đầu tư xây dựng công trình” được bàn bạc xem xét một cách khoa họcVà chúng
tôi đề nghị trong quy định “Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình” không
nên tách việc quản lý dự án vốn trong nước và vốn ODA như hiện nay ( Việc
lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình sử dụng nguồn vốn
hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được thực hiện theo quy định của pháp luật
về xây dựng và pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA ). Cùng với chính
sách phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài đã được huy động vào mục đích xây dựng đô thị sự phong phú của
nguồn vật liệu cũng như nhiều công nghệ kỹ thuật mới được du nhập từ nước
ngoài tạo ra sự đột phá. Bởi dù là nguồn vốn nào cũng phải tuân thủ pháp luật
của ta và theo thông lệ Quốc tế, chúng ta cũng nên áp dụng những quy định của
Hiệp hội Quốc tế các kỹ sư tư vấn ( FIDIC ) đối với công trình trong nước, rối
đây chắc nhiều dự án sẽ nhiều nhà thầu quốc tế tham gia chứ không chỉ là vốn
ODA do vậy các dự án sử dụng vốn trong nước cũng phải theo thông lệ Quốc
tế.
Hiện nay ngày càng nhiều các hợp đồng xây dựng liên kết với nước
ngoài, hợp tác để đòi hỏi công nghệ và hợp tác để cùng phát triển. Vì vậy cần
có những chính sách cũng như những văn bản hướng dẫn cụ thể để vấn đề đầu
tư xây dựng cởi mở và thông thoáng hơn nhằm thu hút nhiều nhà đầu tư và
chiến lược phát triển lâu dài cho ngành xây dựng.
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×