Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CÁC RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.87 KB, 22 trang )

Công tyXí nghiệpTổ chức kinh tếCá nhân…
Ngân hàng thương mại
Công tyXí nghiệpTổ chức kinh tếHộ gia đìnhCá nhân…
Thu nhận
Tiền gửi, tiền tiết kiệm
Phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu
Cấp
tín
dụng
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CÁC RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại:
Nghị định của Chính phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 định nghĩa: “Ngân hàng thương mại
là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên
quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
2.2. Chức năng của ngân hàng thương mại:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng phát triển các ngân hàng thương mại
thực hiện 03 chức năng sau:
2.2.1. Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng:
Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
Chức năng trung gian tín dụng được minh họa qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: Chức năng trung gian tín dụng

Trong chức năng này, ngân hàng thương mại một mặt là người đứng ra huy động và tập trung các
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, như vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, cá
nhân, các tầng lớp dân cư, … biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay (cấp tín dụng); mặt khác
trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, ngân hàng sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, vốn
đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội.
Nhờ nguồn vốn tín dụng lớn và luân chuyển liên tục, thông qua việc thực hiện chức năng nói trên


sẽ làm cho nền kinh tế phát triển được cung ứng vốn ngày càng đầy đủ để phát tiển.
2.2.2. Ngân hàng thương mại là trung gian thanh toán:

Đây là chức năng quan trọng cho thấy tính chất “đặc biệt” trong hoạt động của ngân hàng thương
mại.
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.2: Chức năng trung gian thanh toán
trả tiền
Giấyyyy
Người trả tiềnNgười mua(công ty, tổ chức kinh tế, cá nhân…)
Ngân hàng thương mại
Người thụ hưởng, người bán (xí nghiệp,tổ chức kinh tế,cá nhân, …)
Lệnh
qua tài khoản
báo

Ngân hàng Khách hàngđi vay
Hòan trả vốn gốc và lãi vay khi đến hạn
Cho vay vốn có thời hạn
Thế chấp, cầm cốbảo lãnhTín chấp
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại trở thành người thủ quỹ và là
trung tâm thanh toán của xã hội. Thực hiện chức năng này, ngân hàng thương mại đứng ra làm trung
gian để thực hiện các khoản giao dịch thanh toán giữa các khách hàng, giữa người mua, người bán, …
để hoàn tất các quan hệ kinh tế thương mại giữa họ với nhau.
2.2.3. Ngân hàng thương mại cung ứng các dịch vụ ngân hàng:
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng có những điều kiện thuận lợi
mà không phải tổ chức nào cũng có như kho quỹ, hệ thống thông tin, mối quan hệ rộng khắp với các
doanh nghiệp. Qua đó, ngân hàng có thể thực hiện tư vấn tài chính, nhận ủy thác, dịch vụ kiều hối, …
để nhận tiền hoa hồng, sẽ vừa tiết kiệm chi phí vừa đạt hiệu quả cao.
2.3. Những vấn đề cơ bản về tín dụng:

2.3.1. Khái niệm về tín dụng:
Tín dụng là quan hệ vay muợn, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay
dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Tín dụng được biểu hiện theo sơ đồ:
Sơ đồ 2.3: Khái niệm tín dụng

Mặc dù, tín dụng có quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, với
nhiều hình thức khác nhau, song đều có tính chất quan trọng sau:
- Tín dụng trước hết là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện kim) hoặc tài sản
(hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay đổi quyền sở hữu chúng.
- Tín dụng bao giờ cũng có giới hạn và phải đựơc “hoàn trả”.
- Giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn được nâng cao nhờ lợi tức tín dụng.
2.3.2. Chức năng của tín dụng:
Tín dụng có 03 chức năng:
2.3.2.1. Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ:
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng mà các nguồn vốn tiền
tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu” để sử dụng nhằm phát triển kinh tế.
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là 02 mặt hợp thành chức năng cốt lõi của tín dụng:
- Ở mặt tập trung vốn tiền tệ: Nhờ sự hoạt động của hệ thống tín dụng mà các nguồn tiền
nhàn rỗi được tập trung lại, bao gồm tiền nhàn rỗi của dân chúng, vốn bằng tiền của các doanh nghiệp,
vốn bằng tiền của các tổ chức đoàn thể, xã hội, …
- Ở mặt phân phối lại vốn tiền tệ: Đây là mặt cơ bản của chức năng này – đó là sự chuyển
hóa để sử dụng các nguồn vốn đã tập trung được để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội.
Cả 02 mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả vì vậy tín
dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn, nó thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả.
Nhờ chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ của tín dụng, mà phần lớn nguồn tiền trong xã
hội từ chỗ là tiền “nhàn rỗi” một cách tương đối đã được huy động và sử dụng cho các nhu cầu của sản
xuất và đời sống, làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong toàn xã hội tăng lên.
2.3.2.2. Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội:
Nhờ hoạt động của tín dụng mà nó có thể phát huy chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu

thông cho toàn xã hội, điều này thể hiện qua các mặt sau đây:
- Hoạt động tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu thông tín
dụng như thương phiếu, kỳ phiếu, ngân hàng, các loại séc, … cho phép thay thế một số lượng lớn tiền
mặt lưu hành nhờ đó làm giảm bớt các chi phí có liên quan như in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản
tiền, …
- Với sự hoạt động của tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã mở ra một khả năng lớn
trong việc mở tài khoản và giao dịch thanh toán thông qua ngân hàng dưới các hình thức chuyển khoản
hoặc bù trừ cho nhau.


Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của tín dụng thì hệ thống thanh toán qua ngân hàng ngày càng mở
rộng, vừa cho phép giải quyết nhanh chóng các mối quan hệ kinh tế, vừa thúc đẩy quá trình ấy, tạo
điều kiện cho nền kinh tế - xã hội phát triển.
- Nhờ hoạt động của tín dụng, mà các nguồn vốn đang nằm trong xã hội được huy động để
sử dụng cho các nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa sẽ có tác dụng tăng tốc độ chu chuyển
vốn trong phạm vi toàn xã hội.
2.3.2.3. Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của 02 chức năng trên.
Sự hoạt động của vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng
hóa, chi phí trong các xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, vì vậy qua đó tín dụng không những là tấm gương
phản ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn thông qua đó thực hiện việc kiểm soát các
hoạt động đó nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, lãng phí, vi phạm pháp luật, … trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3.3. Vai trò của tín dụng:
Vai trò của tín dụng bao gồm 02 mặt: tích cực và tiêu cực.
2.3.3.1. Mặt tích cực:
 Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển:
- Tín dụng trước hết là nguồn cung ứng vốn cho các doang nghiệp, các tổ chức kinh tế.
- Tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn một cách hữu hiệu trong nền kinh tế.
- Tín dụng không những là công cụ tập trung vốn mà còn là công cụ thúc đẩy tích tụ vốn cho các

xí nghiệp, tổ chức kinh tế.
Có thể nói, trong mọi nền kinh tế - xã hôi, tín dụng đều phát huy vai trò to lớn nói trên.
- Đối với doanh nghiệp: Tín dụng góp phần cung ứng vốn, bao gồm vốn cố định và vốn lưu
động.
- Đối với dân chúng: Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
- Đối với toàn xã hội: Tín dụng là tăng hiệu suất sử dụng vốn.
Tất cả đều hợp lực và tác động lên đời sống kinh tế - xã hội khiến tạo ra động lực phát triển rất
mạnh mẽ mà không có công cụ tài chính nào có thể thay thế được.
 Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, giá cả:
Trong khi thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng đã góp phần làm
giảm khối lượng tiền tệ lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư,
làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn tín dụng
cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh … làm
cho sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng
được
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần làm ổn định thị truờng giá cả
trong nước …
 Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội:
Một mặt, do tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hóa và dịch vụ
ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu đời sống của người lao động. Mặt khác, do vốn tín dụng
cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội như tài nguyên
thiên nhiên, lao động, đất đai … do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực
lượng sản xuất mới để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Một xã hội phát triển lành mạnh, đời sống được ổn định, ai cũng có công ăn việc làm … đó là tiền
đề quan trọng ổn định trật tự xã hội.
 Tín dụng góp phần phát triển các mối quan hệ quốc tế:
Tín dụng còn có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và
mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển của tín dụng không những ở trong phạm vi quốc nội mà còn
mở rộng ra phạm vi quốc tế, nhờ đó nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại,
nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm

cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
2.3.3.2. Mặt tiêu cực:
Nếu để tín dụng phát triển một cách tràn lan không kiểm soát, thì không những không làm cho nền
kinh tế phát triển mà còn làm cho lạm phát có thể gia tăng gây ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế, xã
hội.
2.4. Các nguyên tắc tín dụng:
Việc vay vốn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội để ngân hàng cấp tín dụng và thu
lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, cấp tín dụng liên quan đến việc sử dụng vốn huy động
của khách hàng nên phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Nói chung khách hàng vay vốn của
ngân hàng phải đảm bảo 02 nguyên tắc:
2.4.1. Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng và có hiệu quả kinh tế:
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do 02 bên, ngân hàng và khách hàng, thỏa thuận và ghi vào
trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận nhằm bảo đảm hiệu quả
sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do vậy, về phía ngân hàng trước khi cho vay cần
tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách hàng đồng thời phải kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn
vay đúng như mục đích đã cam kết hay không. Điều này rất quan trọng vì việc sử dụng vốn vay đúng
mục đích hay không có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hồi nợ sau này.
Về phía khách hàng , việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn vay đồng thời khách hàng đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín
của khách hàng đối với ngân hàng và củng cố quan hệ vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng sau này.
2.4.2. Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi vay theo đúng hạn đã cam kết trong hợp
đồng tín dụng:
Hoàn trả nợ gốc và lãi vay là nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay. Điều này xuất
phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn
vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền. Do đó, sau khi cho vay
trong một thời hạn nhất định khách hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn
trả lại cho khách hàng gửi tiền. Hơn nữa bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm
thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả, cả gốc và lãi.
Các nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho Ngân hàng có thể tồn tại và hoạt động một cách bình

thường.
2.5. Những vấn đề chung về rủi ro trong kinh doanh ngân hàng:
2.5.1. Đặc trưng trong kinh doanh ngân hàng:
Là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt, hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại có những đặc trưng cơ bản như sau:
- Ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền gửi.
Trên thị trường tài chính, ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính quan trọng,
chuyển tải những khoản vốn huy động được trong xã hội đến những người có nhu cầu chi tiêu và
đầu tư. Với chức năng ban đầu là nhận tiền gửi của xã hội, sau đó ngân hàng thương mại đã trở
thành các chủ thể chuyên mua bán quyền sử dụng vốn.
- Hoạt động của ngân hàng thương mại có tính nhạy cảm cao và luôn chịu sự giám sát
chặt chẽ của pháp luật.
Kinh doanh ngân hàng dựa trên niềm tin, vì vậy tính nhạy cảm trong kinh doanh rất cao. Chỉ
cần một biến động nhỏ cũng có thể gây tác động đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng (một sự
thay đổi nhỏ về lãi suất cũng có thể dẫn đến sự dịch chuyển khách hàng từ ngân hàng này sang
ngân hàng khác).
Nếu ngân hàng hoạt động tốt, sẽ góp phần tiết kiệm các nguồn lực, giảm thiểu chi phí cho xã
hội, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. Ngược lại, khi ngân hàng
phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người gửi tiền, và sự phá sản của ngân hàng luôn có
hiệu ứng dây chuyền, lây lan rất lớn và có tác động xấu đến nền kinh tế, cho nên hoạt động kinh
doanh ngân hàng phải được giám sát chặt chẽ, thường xuyên bằng các luật định.
- Các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng thương mại mang tính tương đồng, dễ bắt chước
và gắn chặt với yếu tố thời gian.
Các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng rất đa dạng. Song
phần lớn các sản phẩm của mỗi ngân hàng này lại tương đồng với các sản phẩm của các ngân hàng
thương mại khác. Nếu một ngân hàng thương mại vừa thực hiện một loại hình dịch vụ nào đó có
hiệu quả thì ngay lập tức có thể bị các ngân hàng khác thực hiện theo. Như vậy, khái niệm sản
phẩm dịch vụ mới của ngân hàng thương mại phải được hiểu là sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng
đó đưa ra thị trường trước các đối thủ cạnh tranh.
Mặt khác, thời gian chính là yếu tố quan trọng thực hiện giá trị sản phẩm, đồng thời cũng là

một trong những yếu tố quyết định giá cả của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Vì vậy, các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng luôn gắn chặt với yếu tố thời gian.
- Khách hàng của ngân hàng rất đông đảo và đa dạng.
Khách hàng của ngân hàng thương mại đông đảo và đa dạng, đòi hỏi của khách hàng đối với
sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng rất khác nhau. Vì vậy, mỗi ngân hàng phải nghiên cứu xây
dựng chiến lược khách hàng phù hợp.
- Kinh doanh ngân hàng gắn liền với yếu tố rủi ro.
Rủi ro có thể xảy ra đối với bất kỳ loại hình kinh doanh nào. Tuy nhiên, rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng có những điểm khác biệt với các lĩnh vực kinh doanh khác về mức độ và nguyên
nhân. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có tính lan truyền và để lại hậu quả to lớn, không chỉ bao
gồm rủi ro nội tại của ngành, mà còn của tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, không chỉ trong
phạm vi một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác.
2.5.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng:
2.5.2.1. Rủi ro ngân hàng:
Rủi ro ngân hàng không phải là nổi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một nước mà là nổi ám
ảnh chung của các hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn xảy ra, ngay cả đối với
những ngân hàng giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán. Vì vậy, rủi ro ngân
hàng và quản lý nó luôn luôn là nhữnng vấn đề thời sự cho mỗi nền kinh tế trong mỗi thời kỳ.
Có nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, có nhiều định nghĩa về rủi ro của các nhà kinh tế và các
nhà kinh doanh. Khó tìm được một định nghĩa nào là hoàn hảo, song rủi ro thường có 02 đặc điểm:
- Biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức độ nào.
- Tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại cũng gánh chịu các rủi ro do
các tác động của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh nghiệp khác.
2.5.2.2. Phân loại rủi ro:
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng về cơ bản có thể chia thành 02 loại: rủi ro môi trường và rủi
ro đặc thù.
 Rủi ro môi trường:
Rủi ro môi trường luôn luôn tồn tại trong tổ chức và ngoài tổ chức. Hay nói cách khác, rủi ro
môi trưòng gồm 02 loại: rủi ro môi trường vĩ mô và rủi ro môi trường cạnh tranh.

- Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường mà ngân hàng hoạt động chứa đựng muôn vàn
rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách: hoặc làm suy yếu khả năng chịu đựng rủi
ro của ngân hàng, hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài chính. Những rủi ro này rất khó
kiểm soát nên chúng được gọi là “rủi ro không
kiểm soát được”. Trong thực tế, người ta có thể kiểm soát chúng ở mức độ hạn chế trên cơ sở dự
báo.
Các rủi ro môi trường vĩ mô mà ngân hàng thường gặp là:
+ Rủi ro tự nhiên hay rủi ro bất khả kháng: lũ lụt, hỏa hoạn, động đất, …
+ Rủi ro về luật pháp liên quan đến việc thay đổi các luật lệ gây bất lợi cho ngân hàng. Ở các
nước đang phát triển, đây là rủi ro có thể gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, do thiếu các luật lệ hay
các quy định cần thiết.
+ Rủi ro về kinh tế liên quan đến sự vận động của nền kinh tế và chu kỳ kinh doanh: lạm phát,
thất nghiệp, suy thoái kinh tế, khủng hoảng, … Ảnh hưởng của các yếu tố này đến ngân hàng
thường rất lớn.
- Rủi ro môi trường cạnh tranh: Một ngân hàng trong hoạt động kinh doanh thường chịu
tác động của khách hàng hoặc các đối thủ cạnh tranh từ nhiều phía. Từ đó luôn nhận rất nhiều các
tác động đầy rủi ro.
 Rủi ro đặc thù:
Luôn tồn tại trong lĩnh vực hay ngành nghề kinh doanh. Rủi ro đặc thù là rủi ro do bản chất
của ngành hay lĩnh vực kinh doanh tạo ra. Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro đặc thù thường bao
gồm:
- Rủi ro về quản lý: Rủi ro này có thể bắt nguồn từ ban quản lý ngân hàng do thiếu kiến
thức, thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu khả năng điều hành. Nó cũng có thể xảy ra do sự yếu kém về
năng lực hay đạo đức của nhân viên ngân hàng.
RR quản lý
RR do tham ô
RR do thiếu năng lực quản lý
RR về tổ chức
RR cung cấp dịch vụ tài chính
RR về chiến lược

RR về hoạt động
RR về công nghệ
RR về văn hóa ngân hàng
RR về sản phẩm
RR đòn cân nợ
RR tài sản thế chấp
RR thích ứng vốn
- Rủi ro cung cấp các dịch vụ tài chính hay rủi ro kinh doanh, bao gồm: Rủi ro về hoạt
động, rủi ro về sản phẩm, rủi ro về công nghệ, rủi ro đòn cân nợ, rủi ro do thiếu nổ lực nghiên cứu
và phát triển.
- Rủi ro thích ứng vốn: Nó thể hiện ngân hàng có quy mô vốn nhỏ thường ít an toàn hơn
ngân hàng có vốn lớn.
- Rủi ro tài sản thế chấp: Tài sản thế chấp không đủ giá trị để bù đắp thiệt hại cho ngân
hàng.
Có thể tóm tắt phân loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.4: Các loại rủi ro
RR đặc thù
RR trong kinh doanh
ngân hàng

×