Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Mối liên quan giữa mức độ sử dụng internet với trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trung học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ NGỌC DUY

MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG INTERNET VỚI
TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS Ở HỌC SINH TRUNG HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ NGỌC DUY

MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG INTERNET VỚI
TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS Ở HỌC SINH TRUNG HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên
Mã số: 8310401.05

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THÀNH NAM

Hà Nội – 2020


LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ
nhiệt tình, quý báu từ các thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô,
các cán bộ quản lý, anh chị và các bạn học viên trong chương trình Tâm
lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên đã đồng hành, hỗ trợ cả về
chuyên môn và tinh thần trong suốt quá trình tôi trong qua trình học tập
và nghiên cứu tại trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Để thực hiện luận văn tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Trần Thành Nam là người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài. Nhờ sự động viên, khích lệ, sự định hướng,
chỉ dẫn sát sao, tỉ mỉ của Thầy mà tôi đã có thể hoàn thành được luận
văn này. Qua quá trình làm việc cùng Thầy, tôi cũng đã thu được nhiều
bài học kinh nghiệm về cách làm và nghiên cứu khoa học.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên và học
sinh trường THCS Hùng Vương, THCS Chu Văn An, trường THPT
Nguyễn Trãi và THPT Trần Cao Vân của tỉnh Khánh Hòa; trường
THCS Nguyễn Trãi, THCS Huỳnh Thúc Kháng, THPT Cẩm Lê, THPT
Phan Châu Trinh của thành phố Đà Nẵng đã hợp tác, hỗ trợ, tạo điều
kiện giúp tôi thu thập số liệu cho luận văn này.
Lời cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã luôn bên cạnh, ủng hộ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất để
tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Khánh Hòa, ngày 15 tháng 6 năm 2020
Tác giả
Vũ Ngọc Duy
i


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTB


Điểm trung bình

ĐLC

Độ lệch chuẩn

DSM

Diagnostic and Statistical Manual of Mental
Disorders

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

i


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................... ii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................... iv
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1.......................................................................................................... 6
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề......................................................... 6

1.1.1. Trên thế giới ............................................................................................... 6
1.1.2. Những công trình nghiên cứu tại Việt Nam ........................................... 11
1.2. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm, lo
âu, stress ............................................................................................................. 14
1.3. Một số vấn đề lý luận về Internet ............................................................. 20
1.3.1. Khái niệm Internet .................................................................................. 20
1.3.2. Khái niệm mức độ sử dụng Internet ....................................................... 21
1.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ sử dụng Internet ...................................... 25
1.3.4. Trầm cảm ................................................................................................. 32
1.3.4. Lo âu ......................................................................................................... 35
1.3.5. Stress......................................................................................................... 37
1.3.6. Học sinh trung học .................................................................................. 38
CHƢƠNG 2........................................................................................................ 46
2.1. Đặc điểm của khách thể và địa bàn nghiên cứu ...................................... 46
2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .................................................................. 46
2.1.2. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu....................................................... 47
2.2. Quy trình nghiên cứu ................................................................................. 48
2.3. Công cụ nghiên cứu .................................................................................... 49
2.4. Chiến lƣợc nhập liệu và xử lý số liệu........................................................ 52
CHƢƠNG 3........................................................................................................ 54
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................... 54
ii


3.1. Thực trạng sử dụng internet ở học sinh trung học ................................. 54
3.2. Thực trạng nghiện Internet của học sinh trung học ............................... 62
3.3. Mức độ nghiện Internet theo các yếu tố nhân khẩu học ....................... 65
3.4. Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh trƣờng trung học...... 69
3.5. Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress theo các yếu tố nhân khẩu học ...... 73
3.6. Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các biến số ........................... 84

3.7. Các yếu tố dự báo nghiện Internet ........................................................... 85
3.8. Các yếu tổ dự báo vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh ................ 86
3.9. Bàn luận về kết quả nghiên cứu................................................................ 86

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3. 1: Tỷ lệ học sinh sử dụng Internet theo các cấp độ ............................... 54
Bảng 3. 2: Một số đặc điểm sử dụng Internet của khách thể .............................. 54
Bảng 3. 3: Phương tiện sử dụng để truy cập Internet.......................................... 57
Bảng 3. 4: Mục đích sử dụng Internet ................................................................. 57
Bảng 3. 5: Mức độ sử dụng Internet với đặc điểm nhân khẩu học ..................... 58
Bảng 3. 6: Thời lượng sử dụng Internet theo các biến nhân khẩu học ............... 60
Bảng 3. 7: Mức độ lệ thuộc Internet của học sinh qua thang s-IAT ................... 62
Bảng 3. 8: Tỷ lệ nghiện Internet qua thang s- IAT ............................................. 64
Bảng 3. 9: Tỷ lệ nghiện Internet theo các biến nhân khẩu học ........................... 65
Bảng 3. 10: Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh ............................. 69
Bảng 3. 11: Tỷ lệ stress ở học sinh ..................................................................... 71
Bảng 3. 12: Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh ............................................................... 72
Bảng 3. 13: Tỷ lệ lo âu ở học sinh ...................................................................... 72
Bảng 3. 14: Thực trạng trầm cảm theo các biến nhân khẩu học ......................... 73
Bảng 3. 15: Thực trạng lo âu theo các biến nhân khẩu học ................................ 77
Bảng 3. 16: Thực trạng stress theo các biến nhân khẩu học ............................... 80
Bảng 3. 17: Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm, lo âu, stress ở
học sinh ............................................................................................................... 84
Bảng 3. 18: Các yếu tố dự đoán cho nghiện Internet .......................................... 85
Bảng 3. 19: Các yếu tố dự báo cho vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ..................... 86

iv



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, Internet đã và đang đồng hành cùng với con người trong tất
cả các hoạt động hàng ngày từ học tập, làm việc đến thư giãn, giải trí. Không
thể phủ nhận những lợi ích mà Internet đã đem lại, tuy nhiên việc sử dụng
Internet cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, việc lạm dụng quá mức Internet
gây khiến người sử dụng phải đối mặt với nhiều nguy cơ liên quan đến bị bắt
nạt trực tuyến [10], dễ bị lôi kéo vào các trang web, phim ảnh không lành
mạnh [9], bỏ bê, sao nhãng học hành mà quan trong hơn là sự thay đổi nhân
cách theo chiều hướng xấu [1], liên quan đến các vấn đề về sức khỏe như:
trầm cảm, tăng động giảm chú ý, rối loạn giấc ngủ…[3].
Việc sử dụng Internet đã tăng lên theo cấp số nhân với gần 4 tỷ người
sử dụng, trong đó khu vực Châu Á có số lượng người sử dụng nhiều nhất với
gần 2 tỷ người [59], trong số đó là thanh thiếu niên [29]. Cùng với sự tăng
trưởng nhanh chóng của việc truy cập và sử dụng internet, tỷ lệ người nghiện
Internet cũng ngày càng tăng cao, đặc biệt là thanh thiếu niên [40].
Mak & cộng sự (2014) đã tiến hành một nghiên cứu trên 5266 thanh
thiếu niên từ 12 đến 18 tuổi tại 6 nước Châu Á (Trung Quốc, Hồng Kông,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines) cho thấy khoảng từ 6% đến 21%
trong số đó được đánh giá là nghiện Internet [84]. Tỷ lệ này cao hơn so với
nhóm tương tự ở các nước châu Âu với tỷ lệ từ 1% đến 4%
[116][31][104][61][63].
Theo We Are Social Media – Global digital report, 2018 [44] với dân
số khoảng 96 triệu người có đến 64 triệu người Việt Nam có thể tiếp cận
Internet (tăng 28% so với năm 2017), 55 triệu người thường xuyên sử dụng
mạng xã hội (tăng 20% so với năm 2017), 50 triệu người dùng Internet truy
cập các nội dung truyền thông xã hội qua điện thoại (tăng 22% so với năm
2017). Việt Nam đứng thứ 22 toàn cầu về số lượng người dân có thể tiếp cận

1


Internet, là một trong 20 nước trên thế giới có lượng người truy cập mạng xã
hội nhiều nhất. Các nghiên cứu cho thấy, có 162 triệu di động đang được sử
dụng tại Việt Nam, nghĩa là trung bình mỗi người dân sở hữu tới 2 chiếc điện
thoại, trong đó có 49 triệu điện thoại thông minh dùng để kết nối internet và
mạng xã hội. Dự tính tới năm 2020, 90% dân số Việt Nam sẽ sử dụng điện
thoại thông minh . We Are Social cũng công bố số liệu cho thấy Việt nam là
một trong các nước có tốc độ tăng trưởng người dùng internet và mạng xã hội
nhanh nhất trong khu vực châu Á với số thành viên tăng tới 25% kể từ tháng
1/2017 đến nay.
Tại Việt Nam, căn cứ theo kết quả điều tra quốc gia trên nhóm thanh
thiếu niên cho thấy việc sử dụng Internet diễn ra phổ biến ở cả thanh thiếu
niên sống ở thành thị và thanh thiếu niên ở nông thôn với tỷ lệ lần lượt là 50%
và 13% . Phần lớn cho biết họ sử dụng Internet để trò chuyện chiếm 69% và
62% chơi trò chơi trực tuyến [13]. Nghiên cứu tại Đồng Nai năm 2011 của
tác giả Lê Minh Công cho thấy có tỷ lệ khoảng 12,3% học sinh THCS
nghiện Internet ở các cấp độ [4]. Đề tài “Tương quan giữa mức độ sử dụng
Internet và các vấn đề về sức khỏe tâm thần ở học sinh Trung học cơ sở” năm
2013 của Nguyễn Thị Phương cho thấy có khoảng 10% học sinh THCS sử
dụng Internet thường xuyên [13]. Nghiên cứu của Trần Xuân Bách và cộng sự
(2017) trên 566 người từ 15 đến 25 tuổi cho thấy có 21,2% được chẩn đoán là
nghiện Internet [111]. Như vậy có thể thấy rằng việc sử dụng Internet quá
mức tại Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng.
Đã có nhiều nghiên cứu thế giới chỉ ra rằng việc lạm dụng Internet là
một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, mối quan hệ,
các rối loạn sức khỏe tâm thần [51][33][38][107][73][80]. Tuy vậy, các
nghiên cứu chỉ tập trung vào mức độ lạm dụng Internet và đưa ra các ảnh
hưởng của nó đến vấn đề sức khỏe tâm thần nói chung, chưa đi sâu vào các

rối loạn trầm cảm, lo âu, stress. Mặt khác, đối tượng nghiên cứu của họ
2


thường là những đối tượng riêng lẻ như: học sinh THCS, sinh viên ở các
trường đại học - cao đẳng, người trưởng thành…chưa có đánh giá và so sánh
thực tế giữa các nhóm đối tượng cụ thể với nhau như: học sinh THCS với
THPT hay giữa các khu vực, vùng miền.
Với những lý do trên, tôi quyết định thực hiện đề tài “Mối liên quan
giữa mức độ sử dụng internet với trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trung
học”. Nghiên cứu nhằm góp phần tìm hiểu việc sử dụng Internet của học sinh
và mối liên hệ của việc sử dụng này với các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu tình hình sử dụng Internet theo các mức độ
của học sinh; Đánh giá về các mối quan hệ tiềm ẩn giữa việc sử dụng Internet
với các vấn đề về trầm cảm, lo âu và stress ở học sinh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Nhiệm cụ nghiên cứu lý luận
- Đọc và tìm hiểu cơ sở lý luận về nghiện Internet; tổng quan nghiên
cứu về Internet với các vấn đề về trầm cảm, lo âu và stress ở các nhóm đối
tượng.
- Xây dựng các khái niệm công cụ liên quan đến đề tài: sử dụng
Internet là gì? Biểu hiện các vấn đề trầm cảm, lo âu, stress là gì?...
2.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn
Tìm hiểu thực trạng, mức độ sử dụng internet hiện nay của học sinh
trường trung học và ảnh hưởng của việc sử dụng internet đến các vấn đề trầm
cảm, lo âu và stress của học sinh.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Mối liên quan giữa mức độ sử dụng internet với vấn đề trầm cảm, lo âu,
stress ở học sinh trường trung học.
3


3.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh THCS và THPT trên địa bàn 2 tỉnh Khánh Hòa và thành phố
Đà Nẵng
4. Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng sử dụng internet ở học sinh trung học trên địa bàn 2 tỉnh
Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng là như thế nào?
Mức độ sử dụng internet và điểm số lo âu, trầm cảm, stress có mối liên
hệ với nhau như thế nào?
5. Giả thuyết nghiên cứu
Học sinh THCS và THPT trên địa bàn 2 tỉnh Khánh Hòa và thành phố
Đà Nẵng thường xuyên sử dụng internet. Có một tỉ lệ không nhỏ đáp ứng dấu
hiệu nghiện internet.
Mức độ sử dụng internet và điểm số lo âu, trầm cảm, stress có tương
quan thuận và có ý nghĩa thống kê
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp này được sử dụng để khai thác và tìm kiếm các nguồn tài
liệu, bao gồm sách báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu trên thế giới và ở
Việt Nam nhằm thu thập các thông tin về vấn đề sử dụng internet, nghiện
internet và mối liên hệ giữa việc sử dụng internet với các vấn đề về trầm cảm,
lo âu, stress để làm nền tảng lý luận cho đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng để thu thập và đánh
giá thực trạng việc sử dụng internet cũng như bảng hỏi về các vấn đề trầm
cảm, lo âu, stress ở học sinh, cụ thể:

+ Sử dụng bằng trắc nghiệm mức độ sử dụng Internet s-IAT (phiên bản
rút gọn) do Trần Xuân Bách và cộng sự (2017) thích nghi tại Việt Nam với 12
câu [112];
4


+ Thang đo về trầm cảm, lo âu, stress: Dass – 21 (Depression Anxiety
and Stress Scales) [83].
6.3. Phương pháp xử lý số liệu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS để
sử lý kết quả nghiên cứu, nhằm xác định độ tin cậy, độ mạnh của mối liên hệ
giữa mức độ sử dụng Internet với các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress.
7. Phạm vi nghiên cứu
7.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 12/2017 – 12/2019
Địa điểm nghiên cứu. Nghiên cứu được tiến hành với khối lớp 7, 8
(THCS) và 10,11 (THPT) trên địa bàn 2 thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh
Hòa.
7.2. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu là 562 học sinh được chọn ngẫu nhiên từ 4 trường
THCS và 04 trường THPT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh
Hòa
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và các phụ lục khác, nội dung chính của luận văn sẽ được trình bày
trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu


5


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Thực trạng chung về sử dụng Internet, nghiện Internet
Các nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành tìm kiếm, thống kê số
lượng, tỷ lệ sử dụng Internet, nghiện Internet.
Nghiên cứu đầu tiên có quy mô là nghiên cứu của David Greenfield
(Trung tâm nghiện Internet và công nghệ Hoa Kỳ) vào năm 1999 với một
bảng khảo sát chạy trên ABCNews.Com với 17.251 người tham gia trả lời
câu hỏi, và trong đó có khoảng 6% người đủ tiêu chuẩn nghiện Internet
[54].
Tại Hoa Kỳ, Moreno và cộng sự (2011) đã sử dụng các ứng dụng tìm
kiếm như: PubMed, PsycINFO và Web of Knowledge từ khi thành lập đến
tháng 7 năm 2010. Kết quả tìm kiếm mang lại 658 bài viết, trong đó có 18
nghiên cứu, 8 báo cáo ước tính tỷ lệ nghiện Internet ở thanh thiếu niên và sinh
viên dao động từ 0% đến 26,3% [89].
Kaess và cộng sự (2014) đã tiến hành nghiên cứu tỷ lệ nghiện Internet
tại 11 quốc gia khu vự châu Âu với tuổi trung bình là 14.9, kết quả cho thấy
khoảng 4.4% được đánh giá là nghiện Internet [62]. Một nghiên cứu khác
được tiến hành trên 31 quốc gia thuộc 7 khu vực trên thế giới cho thấy ước
tính tỷ lệ nghiện Internet là 6.0%, cao nhất là ở Trung Đông với 10,9% và
thấp nhất là ở Bắc và Tây Âu với 2,6% [36].
Gần đây nhất, Laconi và cộng sự (2018), đã tiến hành nghiên cứu việc
sử dụng Internet tại 9 quốc gia châu Âu gồm Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Ba
Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, Hy Lạp và Anh, với độ tuổi từ 18 đến 87, kết quả
cho thấy tỷ lệ nghiện dao động trong khoảng 14,3% đến 54,9% [74].


6


Spada và cộng sự (2014) đã mô tả mức độ phổ biến của việc sử dụng
Internet có vấn đề, nghiên cứu chỉ ra rằng có sự khác biệt theo từng khu vực,
tỷ lệ sử dụng Internet có vấn đề là 1,0 đến 9,0% ở thanh thiếu niên châu Âu,
1,0 đến 12,0% ở thanh thiếu niên Trung Đông và 2,0 đến 18,0% ở thanh thiếu
niên châu Á [103].
Tại khu vực Đông Nam Á, nghiên cứu của Yatan Pal Singh Balhara và
cộng sự (2018), dựa trên các cơ sở dữ liệu điện tử của PubMed và Google
Scholar được công bố có liên quan đến việc sử dụng Internet. Kết quả cho
thấy tỷ lệ lạm dụng Internet/ nghiện Internet có thể dao động từ 7,4% đến
46,4% [25].
Martin Mihajlov & Lucija Vejmelka (2017) trong báo cáo tóm tắt các
nghiên cứu về nghiện Internet trong vòng 20 năm bắt đầu từ 1996 cho thấy, tỷ
lệ người nghiện Internet trên toàn thế giới khoảng 6% [85].
1.1.1.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng Internet ở thanh thiếu niên
Tại Mỹ, Liu và cộng sự (2011) nghiên cứu trên 3.560 học sinh châu Á
và gốc Tây Ba Nha tại các trường trung học ở Connecticut. Kết quả cho thấy:
4% học sinh thuộc nhóm sử dụng internet có vấn đề [82].
Nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ năm (2013) về sử dụng Internet với 4311
thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 đến 19, kết quả cho thấy 5% thanh thiếu niên
được chẩn đoán là sử dụng Internet quá mức [21].
Aysegul Yolga Tahiroglu, M.D và cộng sự nghiên cứu trên 3975 thanh
thiếu niên Thổ Nhĩ Kỳ đã phát hiện có 7,6% sử dụng internet trên 12 tiếng
mỗi tuần [23].
Ở Ý, nghiều nghiên cứu về sử dụng Internet đã được thực hiện. Milani
và cộng sự (2009) tìm thấy 36,7% thanh thiếu niên tuổi từ 14–19 có dấu hiệu
sử dụng Internet có vấn đề [88]. Nghiên cứu của Poli, R., & Agrimi, E. (2012)

nghiên cứu trên 2533 học sinh cho thấy 5,01 % nghiện ở mức vừa phải, 0,79
% nghiện ở mức nghiêm trọng [99]. Gần đây, Bruno và cộng sự (2014) tiến
7


hành nghiên cứu 1035 học sinh trung học. Kết quả cho thấy 3,9% được chẩn
đoán là nghiện Internet [30].
Siomos và cộng sự (2012) tiến hành một nghiên cứu cắt ngang của toàn
bộ 2017 học sinh từ 12-19 tuổi và 1214 cha mẹ ở đảo Kos, Hy Lạp. Kết quả
15,2% được chẩn đoán nghiện Internet ở mức độ nặng, 26,9% nghiện ở mức
vừa phải [102].
Fisoun và cộng sự (2012) tiến hành một cuộc khảo sát cắt ngang đánh
giá toàn bộ số học sinh vị thành niên (N = 1270, 14–18 tuổi) của đảo Kos ở
Hy Lạp. Kết quả cho thấy: 5,3% nghiện Internet ở mức vừa phải và 14,7%
nghiện Internet ở mức nặng [47]. Cũng trên nhóm đó, nghiên cứu khác chỉ ra
rằng 7.2% nam và 5.1% nữ nghiện Internet [48].
Tại Hy Lạp, các nhà khoa học báo cáo có khoảng 8,2% thanh thiếu
niên ở đô thị được đánh giá là nghiện Internet, trong đó chủ yếu là các em trai
[71].
Johansson và cộng sự (2004) nghiên cứu trên mẫu đại diện là 3237
thanh thiếu niên, độ tuổi từ 12 đến 18 tuổi tại Na Uy. Kết quả cho thấy tỷ lệ
trung bình được chẩn đoán nghiện Internet là 1,98%; 8,68% có nguy cơ cao
nghiện Internet [61].
Kaltiala-Heino và cộng sự (2004) nghiên cứu trực tuyến trên 7292
thanh thiếu niên tại Phần Lan, độ tuổi từ 12 đến 18 cho thấy 1,7% nam và
1,4% nữ được đánh giá nghiện Internet, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những
người nghiện Internet đã dành nhiều thời gian trực tuyến nhiều hơn người
không nghiện (2,7 với 1,3) [63]. Một nghiên cứu khác, cho thấy có khoảng
4,7% nữ và 4,6% nam trên cộng đồng thanh thiếu niên từ 12 - 18 tuổi đủ
tiêu chuẩn của nghiện Internet (Cooper, 2002).

Kuss và cộng sự (2013) nghiên cứu trên 3105 thanh thiếu niên với độ
tuổi trung bình là 14.2 ở Hà Lan cho thấy 3,7% được phân loại là nghiện
Internet. Nghiên cứu cũng cho thấy: Việc sử dụng các ứng dụng xã hội và trò
8


chơi trực tuyến (các trang web mạng xã hội trực tuyến và Twitter) là yếu tố
làm tăng nguy cơ nghiện Internet [72].
Carbonell X và cộng sự (2012) nghiên cứu trên 1879 thanh thiếu niên ở
Tây Ban Nha. Kết quả cho thấy 6.1% có vấn đề với việc sử dụng Internet,
không có khác biệt về giới tính với vấn đề sử dụng Internet [34].
Gomez và cộng sự (2017) tiến hành nghiên cứu trên 40955 học sinh
trong độ tuổi từ 12 đến 17 ở Tây Ba Nha. Kết quả cho thấy cho thấy khoảng
16,3% được chẩn đoán là nghiện Internet [52].
Nghiên cứu tại Đức năm 2010, cho thấy: 1,5 % - 3,5% thanh thiếu niên
có dấu hiệu nghiện internet hoặc sử dụng quá mức [98].
Nghiên cứu tại Croatia (2017) trên 352 thanh thiếu niên tại 9 trường
trung học. Kết quả cho thấy 3,4% được chẩn đoán là nghiện Internet [115].
Nghiện Internet cũng đang được báo cáo như là một vấn đề sức khỏe
cộng đồng nghiêm trọng tại các quốc gia châu Á. Ở Trung Quốc, có khoảng
2,4% đến 6,0% thanh thiếu niên có dấu hiệu nghiện Internet [32]. Những
nghiên cứu gần đây về nghiện Internet (Cui, Zhao, Wu & Xu, 2006,...) cho
thấy có khoảng từ 9,72% đến 11,06% thanh thiếu niên Trung Quốc có biểu
hiện nghiện Internet [41].
Cao và cộng sự (2011) thực hiện nghiên cứu cắt ngang trên 17599
thanh thiếu niên tại 8 thành phố ở Trung Quốc với độ tuổi trung bình 16,1.
Kết quả cho thấy 8,1% được đánh giá là sử dụng Internet có vấn đề [33].
Wang và cộng sự (2011) tiến hành nghiên cứu trên 14296 học sinh tại
tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Kết quả cho thấy 12,2% học sinh được chẩn
đoán là sử dụng Internet có vấn đề [117]. Một nghiên cứu khác được tiến

hành năm 2013 trên 10.988 thanh thiếu niên đến từ 9 thành phố khác nhau ở
Trung Quốc, với độ tuổi từ 13 đến 23. Kết quả cho thấy: 7,5% được đánh giá
là nghiện Internet [118].

9


Lam và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 1618 học sinh từ 13 đến 18 tuổi
tại thành phố Quảng Châu, Trung Quốc. Kết quả cho thấy, 10,2% học sinh sử
dụng Internet ở mức độ vừa phải, 0,6% là nghiện Internet [76].
Guo và cộng sự (2012) đã tiến hành nghiên cứu cắt ngang với 3254 trẻ
từ 8-17 tuổi tại Trung Quốc. Kết quả cho thấy: 3,7% trẻ em ở nông thôn,
6,4% trẻ em di cư, 3,2% trẻ em bị bỏ rơi được chẩn đoán nghiện Internet [56].
Gong và cộng sự (2009) tiến hành nghiên cứu trên 3018 học sinh (47%
nam, 53% nữ), từ 15 trường trung học và một trường đại học với độ tuổi từ
11- 23 ở Vũ Hán, Trung Quốc. Kết quả cho thấy: tỷ lệ nghiện Internet được
chẩn đoán là 5% [53].
Nghiên cứu của Xu J và cộng sự (2012) trên 5.122 thanh thiếu niên
được chọn ngẫu nhiên từ 16 trường trung học thuộc các loại trường học khác
nhau ở Thượng Hải. Kết quả cho thấy: 8,8% được xác định là người nghiện
internet [121].
Kim và cộng sự (2006) nghiên cứu trên 1573 học sinh ở Hàn Quốc, tuổi
từ 15 đến 16. Kết quả cho thấy, 1,6% được chẩn đoán là người nghiện
Internet, trong khi 38,0% có thể được phân loại là người nghiện Internet [65].
Choi và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 2336 học sinh trung học ở Hàn
Quốc (nam, 57,5%; nữ, 42,5%). Kết quả cho thấy tỷ lệ nghiện Internet và
nghiện Internet có thể xảy ra: 2,5% và 53,7% với nam; 1,9% và 38,9% với nữ.
[38].
Sung và cộng sự (2013), đã tiến hành khảo sát trực tuyến về dựa trên
hành vi rủi ro của thanh thiếu niên Hàn Quốc với 73.238 thanh thiếu niên

tham gia. Kết quả cho thấy: 11.9% được đánh giá có nguy cơ nghiện Internet,
3.0% được đánh giá nghiện internet [106].
Tại Nhật Bản, nghiên cứu trên 853 học sinh từ 12 đến 15 tuổi cho thấy
khoảng 2% được chẩn đoán là nghiện Internet [64]. Gần đây, một cuộc khảo

10


sát dịch tễ học lớn của Morioka và cộng sự (2016) đã báo cáo rằng tỷ lệ sử
dụng Internet có vấn đề ở học sinh là 8,1% [90].
Shek và cộng sự (2012) tiến hành khảo sát theo chiều dọc tại 28 trường
trung học ở Hồng Kông, được đánh giá 2 lần/năm, mẫu lần 1 là: 3328 học
sinh, lần 2: 3580 học sinh. Kết quả cho thấy lần 1 có: 26,4% được chẩn đoán
nghiện Internet, lần 2: 26,7% được chẩn đoán là nghiện Internet. Nghiên cứu
cũng cho thấy những học sinh được chẩn đoán nghiện Internet ở lần 1 có khả
năng nghiện Internet cao hơn 7,55 lần so với học sinh được chẩn đoán nghiện
Internet ở lần 2 [101].
Tại Đài Loan, nhiều tác giả nghiên cứu cho thấy có khoảng từ 10,8%
đến 23,4% học sinh được chẩn đoán là nghiện Internet [68][69] [70] [123]
[124] [79] [125] [81].
Nghiên cứu tại Qatar (2013) trên 1624 học sinh từ 12-18 tuổi. Kết quả
cho thấy: Tỷ lệ nghiện Internet là 19,8% [27].
Tại Ấn Độ, Goel D và cộng sự (2013) nghiên cứu trên 987 thanh thiếu
niên ở Ấn Độ với độ tuổi trung bình 16,82. Kết quả cho thấy 0,7% được chẩn
đoán nghiện internet [50].
Một nghiên cứu tại Singapore trên 2735 thanh thiếu niên, độ tuổi trung
bình là 13,9. Kết quả cho thấy: 17,1% thanh thiếu niên báo cáo sử dụng nó
trong hơn 5 giờ mỗi ngày và được đánh giá là sử dụng Internet quá mức [92].
1.1.2. Những công trình nghiên cứu tại Việt Nam
Việt Nam là quốc gia với với khoảng xấp xỉ 93.6 triệu dân [120], đứng

thứ 2 khu vực Đông Nam Á và thứ 14 thế giới. Tỷ lệ người dùng Internet đã
tăng lên đáng kể, chẳng hạn như đến tháng 1 năm 2017, Việt Nam có 50.05
triệu người dùng Internet chiếm 53% dân số, và tỷ lệ tăng là 6% so với năm
2016. Tỷ lệ người sử dụng Internet ở Việt Nam được xem là ở mức cao trên
thế giới với 46 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 48% dân số [44].

11


Khoảng 83% sinh viên chơi trò chơi trực tuyến khi truy cập Internet theo
báo cáo của nhóm tác giả tại Trung tâm nghiên cứu Phụ Nữ (ĐH Quốc Gia Hà
Nội). Nghiên cứu cho thấy người dùng phải đối mặt với các vấn đề về nhận
thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi khi chơi trò chơi trực tuyến. Tuy vậy, đa
phần phụ huynh không quan tâm đến những ảnh hưởng tiêu cực mà trò chơi trực
tuyến mang đến cho trẻ [8].
Báo cáo của Hồ Thị Luyến, Viện Nghiên cứu phát triển Tp.HCM
(2007) cho thấy nghiện game online đang trở thành hiện tượng cần phải được
cảnh báo đến xã hội, khi các em chơi game online không chỉ đơn thuần giải
trí mà dần cho thấy sự lệ thuộc vào trò chơi dẫn đến không tự điều chỉnh
được thói quen chơi trò chơi trực tuyến của mình. Hậu quả là kết quả học
tập bị ảnh hưởng cùng với các vấn đề tâm lý xã hội khác [11].
Tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo (2008) cho rằng nguyên nhân
nghiện game thường là do thiếu quan tâm của gia đình, lôi kéo của bạn bè
cùng với sự hấp dẫn của các loại hình Game online. Những tác động đã được
tác giả liệt kê như vấn đề hành vi học tập, sức khỏe, giờ giấc sinh hoạt, đạo
đức của học sinh trong và sau khi chơi game [16].
Lê Minh Công (2009, 2010) gợi ý rằng, Internet đã thực sự trở thành
yếu tố gây nghiện như là các loại hình nghiện truyền thống khác và xảy
ra ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Bên cạnh đó còn có xuất hiện đồng bệnh với
nhiều rối loạn sức khỏe tâm thần khác, đặc biệt là trầm cảm và rối loạn lo âu

đối với người lạm dụng internet nên việc điều trị cho nhóm này là một vấn đề
khó khăn và cần phải sử dụng đa trị liệu. Điều này không chỉ được phát
hiện ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước khác trên thế giới [3][4][5].
Lê Minh Công (2011) đã tiến hành nghiên cứu về thực trạng nghiện
Internet ở các em học sinh thuộc khối THCS tại Đồng Nai. Kết quả cho
thấy: có khoảng 12,3% được đánh giá là nghiện Internet theo các cấp độ.

12


Đồng thời, những học sinh bị nghiện internet ở mức độ vừa và nhẹ có đáp
ứng đáng kể sau khi được trị liệu nhận thức hành vi (CBT) [5].
Do đặc thù, Internet trở thành nguồn cung cấp thông tin tình dục, giới
tính, là nơi thanh thiếu niên có thể hẹn hò, nảy sinh cảm xúc và tình yêu và là
yếu tố tác động đến nhân dạng và hành vi tình dục ở thanh thiếu niên Việt
Nam [93].
Đề tài “Khảo sát xã hội về dịch vụ trò chơi trực tuyến ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ” (2010) của Viện xã hội học do TS Trịnh
Hòa Bình làm chủ nhiệm được thực hiện trên phạm vi 6 tỉnh, thành Hà
Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, Đồng Nai và Hải Dương với 1.320
người tham gia. Theo kết quả khảo sát, mức độ chơi game online phụ thuộc
vào nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi. Cụ thể, lứa tuổi 16-20%, nhóm tuổi đã
có khả năng nhận thức đầy đủ về các hành vi của mình, có số lượng tham
gia nhiều nhất với 42. Tiếp đến là nhóm tuổi 10-15 chiếm 26,3%; trong khi
nhóm tuổi từ 26-30 chỉ chiếm 9,5% số người được hỏi. Báo cáo này cũng
cho biết, 34% người chơi game online với tần suất hàng ngày; 25% số người
chơi với tần suất 3-4 lần/tuần; tỷ lệ người trả lời chơi ở mức độ một vài lần
trong tháng chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nhóm nghiên cứu cho rằng nếu căn
cứ theo tiêu chí của WHO thì tỷ lệ người có dấu hiệu “nghiện” game online
chỉ 5,2%; trong khi 69,3% không có các biểu hiện nào của tiêu chuẩn nghiện

[2].
Đề tài “Tương quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề về
sức khỏe tâm thần ở học sinh Trung học cơ sở” năm 2013 của Nguyễn Thị
Phương cho thấy có khoảng 10% học sinh THCS sử dụng Internet thường
xuyên. Nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ sử dụng Intrernet có tương quan với
các vấn đề về sức khỏe tâm thần như: trầm cảm, lo âu, hành vi hung
tính….[13].

13


Đề tài “Nghiện Internet và chất lượng giấc ngủ của thanh thiếu niên
Việt Nam” năm 2017 do Trần Xuân Bách và cộng sự cho thấy có khoảng
21,2% người tham gia được chẩn đoán là nghiện Internet [111].
1.2. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm,
lo âu, stress
1.2.1. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề
sức khoẻ tâm thần
Cooper (2002) nghiên cứu trên cộng đồng thanh thiếu niên từ 12 - 18
tuổi tại Phần Lan, cho thấy có khoảng 9% thanh thiếu niên rơi vào tình trạng
nghiện hành vi tình dục trực tuyến (Cooper, 2002).
Choi K và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 2336 học sinh trung học ở
Hàn Quốc cho thấy những người nghiện Internet gặp các vấn đề liên quan đến
giấc ngủ (37,7%) [38]. Theo thống kế, ở Hàn Quốc năm 2007 đã có 10
trường hợp đột tử do gián đoạn tuần hoàn máu vì ngồi chơi game quá lâu
[20].
Cao H và cộng sự (2011) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang để ước
tính tỷ lệ sử dụng Internet có vấn đề và mối liên hệ của nó với các triệu chứng
tâm lý và sự hài lòng cuộc sống giữa các thanh thiếu niên ở Trung Quốc đại
lục. Kết quả cho thấy: so với người dùng internet bình thường, thanh thiếu

niên sử dụng internet có nhiều khả năng bị các triệu chứng tâm thần (p
<0,001), bao gồm thiếu năng lượng, rối loạn sinh lý, suy giảm miễn dịch, triệu
chứng cảm xúc, triệu chứng hành vi và các vấn đề thích ứng xã hội. Nghiên
cứu kết luận rằng có mối liên hệ đáng kể giữa việc sử dụng internet có vấn đề
và các triệu chứng tâm thần [33].
Koyuncu và cộng sự (2014) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang về
đánh giá nghiện internet và sự cô đơn giữa học sinh trung học cơ sở và trung
học phổ thông ở Anatolia, Thổ Nhĩ Kỳ tuổi từ 11 đến 19. Kết quả cho thấy:
những học sinh béo phì; là người bận rộn, nhiệt tình, nóng nảy và thiếu kiên
14


nhẫn; lần đầu tiên sử dụng internet trước 12 tuổi; sử dụng internet mỗi ngày
và sử dụng internet hơn 2 giờ mỗi ngày là các yếu tố nguy cơ gây nghiện
internet (p <0,05). Một mối tương quan tích cực đã được tìm thấy giữa nghiện
internet và sự cô đơn (rs = 0.121; p <0,001) [73].
Lin I.H và cộng sự, (2014) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang về
mối tương quan giữa ý tưởng tự tử và tự sát với nghiện internet ở nhóm từ 1218 tuổi ở Đài Loan. Nghiên cứu cho thấy nghiện internet có liên quan đáng kể
với ý tưởng tự sát và tự sát, thanh thiếu niên nghiện internet có nguy cơ cao
về ý tưởng tự sát hơn những người không có nghiện internet [80].
Ozturk C và cộng sự (2015) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả cắt
ngang để phân tích các đặc điểm tính cách và nghiện internet của 328 thanh
thiếu niên theo học hai trường trung học ở vùng Aegean của Thổ Nhĩ Kỳ.
Nghiên cứu xác định rằng những học sinh có tính cách cởi mở, có trải nghiệm
có nguy cơ nghiện Internet gấp 1,79 lần với nhóm khác [95].
Ngoài ra, việc sử dụng Internet quá mức của thanh thiếu niên đã được
tìm thấy làm trầm trọng thêm các hành vi chống đối xã hội (di Gennaro &
Dutton, 2007) [43].
Zhang và cộng sự (2017), nghiên cứu trên 566 học sinh, độ tuổi từ 15
đến 25 cho thấy những người được chẩn đoán là nghiện Internet có khoảng

26,7% gặp khó khăn liên quan đến giấc ngủ, 77,2% đã phải tìm kiếm các dịch
vụ hỗ trợ về y tế [128].
1.2.2. Nghiên cứu mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề về
trầm cảm, lo âu, stress
Carli và cộng sự (2013), đã sử dụng chức năng tìm kiếm bằng cách sử
dụng cơ sở dữ liệu trên: MEDLINE, Psyc ARTICLES, PsychInfo và Web of
Science với trên 20 nghiên cứu riêng biệt. Kết quả cho thấy rằng 75% các
nghiên cứu đó cho thấy mối liên quan đáng kể giữa sử dụng Internet có vấn
đề và trầm cảm, 57% sử dụng Internet có vấn đề và rối loạn lo âu, 100% sử
15


dụng Internet có vấn đề và vấn đề tăng động giảm tập trung và 60% sử dụng
Internet có vấn đề với các triệu chứng ám ảnh cưỡng chế, ám ảnh xã hội và
66% sử dụng Internet có vấn đề với thái độ thù địch/ hành vi xâm kích [35].
Kim and cộng sự (2006), nghiên cứu về mối quan hệ nghiện Internet
với trầm cảm và ý tưởng tự sát trên 1573 thanh thiếu niên Hàn Quốc. Kết quả
cho thấy, 1,6% được chẩn đoán là nghiện Internet, 38% được phân loại là có
thể nghiện Internet. Tỷ lệ nghiện Internet không thay đổi theo giới tính. Mức
độ trầm cảm và ý tưởng tự tử là cao nhất trong nhóm nghiện Internet. Nghiên
cứu lưu ý rằng nghiện Internet có liên quan đến trầm cảm và hành vi tự sát
[65].
Yen CF và cộng sự (2007) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả về mức
độ nghiêm trọng của các triệu chứng nghiện internet với các triệu chứng lo âu,
trầm cảm và lòng tự trọng trong thanh thiếu niên với rối loạn chú ý/ tăng động
(ADHD) ở thanh thiếu niên ở Đài Loan. Nghiên cứu cho thấy: các vấn đề lo
âu, trầm cảm và lòng tự trọng có liên quan đáng kể với các triệu chứng nghiện
internet [123].
Lam L.T và cộng sự (2009) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang dựa
trên mẫu dân số là các học sinh trung học từ 13 – 18 tuổi tại Quảng Châu về

các yếu tố liên quan đến nghiện internet. Kết quả nghiên cứu cho thấy các vấn
đề liên quan đến stress có liên quan đến việc nghiện internet [76].
Bakken và cộng sự (2009), nghiên cứu về mức độ sử dụng Internet trên
3399 người tại Na Uy trên nhóm tuổi từ 17 đến 74. Nghiên cứu chỉ ra rằng:
nghiện Internet có liên quan đến thời gian trực tuyến, các rối lọan về giấc ngủ,
trầm cảm và các vấn đề tâm lý khác [24].
Weinstein và cộng sự (2010) đã tiến hành cuộc điều tra ở Mỹ và Châu
Âu, kết quả cho thấy tỷ lệ từ 1,5 % đến 8,2% được chẩn đoán là nghiện
Internet. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nghiện Internet có quan hệ với các rối

16


loạn tâm thần, bao gồm: rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn tăng động
giảm chú ý [109]
Ha JH và cộng sự (2013) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa trầm cảm và
nghiện Internet trong thanh thiếu niên tại Hàn Quốc. Nghiên cứu này cho thấy
một mối liên hệ đáng kể giữa nghiện Internet và các triệu chứng trầm cảm ở
thanh thiếu niên [57].
Một nghiên cứu được thực hiện bởi Sara Thomée Mats Eklöf và cộng
sự (2007) đã đánh giá liệu số lượng thông tin và công nghệ truyền thông
(ICT) cao có phải là yếu tố nguy cơ phát triển các triệu chứng tâm lý trong
giới trẻ hay không. Kết quả cho thấy rằng gửi thư điện tử và trò chuyện trực
tuyến có liên quan đến các triệu chứng trầm cảm [110].
Năm 2010, Morrison C.M. Gore đã khám phá khái niệm nghiện
Internet và kiểm tra mối quan hệ giữa các triệu chứng gây nghiện và trầm
cảm. Một bảng câu hỏi trực tuyến được sử dụng để đo lường việc sử dụng
Internet của người tham gia, các chức năng mà họ sử dụng Internet và các
khuynh hướng trầm cảm của họ. Kết quả cho thấy nghiện Internet có liên
quan đến trầm cảm [91].

TtuncaAy và cộng sự (2010) đã nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ
nghiện internet lên trầm cảm, cô đơn và lòng tự trọng của học sinh trung học.
Kết quả cho thấy mối quan hệ tích cực, trung bình và có ý nghĩa với nghiện
internet đã xuất hiện khi các biến trầm cảm, cô đơn và kém tự tin được xem
xét cùng nhau [114].
Mashhor N.Al-hantoushi, Saad H. Al-abdullateef (2013) tiến hành
nghiên cứu trên 716 học sinh trung học, từ 15 đến 18 tuổi tìm hiểu về mối liên
hệ giữa nghiện Internet với trầm cảm. Kết quả cho thấy nghiện Internet có
liên quan đến việc giảm hoạt động ở trường, kết quả học tập giảm sút, sử
dụng internet nhiều hơn, mức độ kiểm soát của cha mẹ thấp hơn và mức độ
trầm cảm cao hơn [86].
17


Subramanyam A và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu cắt
ngang về tỷ lệ nghiện internet và các vấn đề về tâm lý trên 681 học sinh nữ,
306 học sinh nam, độ tuổi trung bình 16,82. Kết quả cho thấy, những học sinh
sử dụng internet quá mức gặp các vấn đề liên quan đến rối loạn lo âu và trầm
cảm [105].
Yadav P và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu sơ bộ trên
internet nghiện và tương quan của nó với các đặc điểm giáo dục - xã hội, kiểu
sử dụng internet và các biến tâm lý cụ thể là trầm cảm, lo âu và căng thẳng
trong số 552 học sinh khối 11 và 12 của sáu trường trung học ở Ahmedabad,
Ấn Độ tham gia vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy có mối tương quan thuận
mạnh mẽ giữa nghiện internet và trầm cảm, lo âu, căng thẳng [122].
Tang J và cộng sự (2014) đã tiến hành nghiên cứu ngẫu nhiên với 755
học sinh là người dùng Internet ở Vũ Hán, Trung Quốc để đánh giá tỷ lệ
nghiện internet và sự liên kết của nó với các sự kiện căng thẳng trong cuộc
sống và triệu chứng tâm lý. Phân tích hồi quy cho thấy vấn đề liên quan đến
cá nhân, vấn đề liên quan đến trường học và các triệu chứng lo âu là liên quan

đáng kể với nghiện internet [107].
Lai và cộng sự (2015) tiến hành khảo sát về hành vi rủi ro trên 5366
thanh thiếu niên ở độ tuổi từ 12 đến 18 tại 6 quốc gia Châu Á (Trung Quốc,
Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines) đã tìm thấy mối liên
hệ đáng kể giữa nghiện Internet với lo âu xã hội và trầm cảm [75].
Park S và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả trên 795
học sinh ở Hàn Quốc về mối liên hệ giữa việc sử dụng internet có vấn đề với
trầm cảm, ý tưởng tự tử và các triệu chứng rối loạn lưỡng cực. Nghiên cứu kết
luận rằng: việc sử dụng internet có vấn đề có liên quan đáng kể đến ý tưởng
tự tử, trầm cảm và rối loạn lưỡng cực. Phân tích hồi quy cho thấy: sử dụng
internet có vấn đề cũng dự đoán đáng kể các triệu chứng trầm cảm; dự đoán ý

18


×