Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRUNG DÀI TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.65 KB, 22 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ
RỦI RO TÍN DỤNG TRUNG DÀI TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG
VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHNT Việt Nam trong
thời gian tới
3.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hoạt động tín dụng trung dài hạn của
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới
Hoạt động tín dụng vốn chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường bên ngoài. Dự
báo được các yếu tố tác động của môi trường sẽ giúp NHNT hoạt động một cách
chủ động và hiệu quả hơn. Dự đoán trong năm 2007 và các năm tiếp sau, hoạt động
NHNT sẽ phải đối mặt với các vấn đề sau:
Theo dự đoán năm 2007, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng với
tốc độ 8,2-8,5%, GDP bình quân đầu người có thể đạt trên 820 USD. Ngay trong
quý I năm 2007 kết quả đã rất khả quan GDP đạt 7,7% là mức tăng cao nhất so với
cùng kỳ trong vòng 10 năm trở lại đây, con số này làm người ta kỳ vọng sẽ vượt
mục tiêu 8,5%. Với tốc độ tăng trưởng như vậy là một điều kiện tốt cho ngành
Ngân hàng tăng nguồn vốn huy động của mình.
Giá vàng còn biến động theo hình răng cưa nhưng theo xu hướng tăng. Giá
USD cơ bản ổn định, chỉ tăng lên trên dưới 1% và chỉ ở mức trên 16,2 nghìn
VND/USD. Thị trường bất động sản nóng lên về giao dịch, ấm lên về giá, đặc biệt
là xây dựng khách sạn, siêu thị, trung tâm, thương mại, cửa hàng tiện lợi... Đây sẽ
là một nguồn cầu về vốn tín dụng của Ngân hàng, hơn nữa khi giá bất động sản
nóng lên Ngân hàng có thể dễ dàng phát mại tài sản đảm bảo là bất động sản và có
khả năng thu hồi vốn cho vay từ những khách hàng vay để đầu tư bất động sản
trong năm trước. Thị trường chứng khoán hạ nhiệt, chỉ số chứng khoán biến động
theo hình răng cưa, nhưng khối lượng giao dịch, giá trị vốn hoá thị trường sẽ vượt
10% GDP. Hiện nay, thị trường chứng khoán là một kênh tài chính cạnh tranh với
Ngân hàng, cạnh tranh về vốn huy động làm giảm nguồn cung vốn tín dụng của
Ngân hàng, đồng thời các doanh nghiệp cũng thông qua thị trường chứng khoán để
huy động vốn cho mình thay vì huy động từ Ngân hàng, từ đó làm giảm cầu về
nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng, đến năm 2007 thị trường chứng khoán bớt


nóng các nhà đầu tư sẽ quan tâm hơn đến các sản phẩm của Ngân hàng.
Xuất nhập khẩu tiếp tục tăng, quý I 2007 giá trị xuất nhập khẩu đều tăng với
mức kỷ lục 17,9% và 33,6% tương ứng. Đây có thể là một điều kiện thuận lợi thúc
đẩy hoạt động hỗ trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng.
Năm 2007 Việt Nam bắt đầu thực hiện các cam kết với WB, ABD, IMF về
cải cách hệ thống Ngân hàng và nhất là cam kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ và
Việt Nam phải thực hiện các cam kết của tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Các
quy định trong hoạt động Ngân hàng đã từng bước giảm dần sự bảo hộ đối với các
NHTM trong nước. Các quy định hạn chế các hoạt động của chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài dần bị xoá bỏ, như giới hạn về huy động vốn tiền gửi, về các điều kiện
cho vay, cầm cố thế chấp, cho phép các Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được
thành lập, cho phép các TCTD nước ngoài được phát hành thẻ ATM theo đối xử
quốc gia. Như vậy các NHTM VN nói chung và NHNT nói riêng sẽ vấp phải sự
cạnh tranh gay gắt từ phía các Ngân hàng nước ngoài là những Ngân hàng có tiềm
lực rất lớn về vốn, về trình độ quản lý, trình độ chuyên môn...
Không chỉ hệ thống các Ngân hàng thương mại trong nước mất dần sự bảo
hộ của nhà nước và vấp phải áp lực cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài, mà
các doanh nghiệp – các khách hàng của Ngân hàng cũng cùng tình trạng: mất dần
sự bảo hộ trong hoạt động sản xuất biểu hiện là thuế nhập khẩu giảm hàng nhập
khẩu sẽ càng có sức cạnh tranh lớn trên thị trường Việt Nam. Dự đoán trong năm
2007, Việt Nam tiếp tục trở thành nước nhập siêu, riêng quý I năm 2007 Việt Nam
đã nhập siêu tới 1,3 tỷ USD, với giá trị nhập khẩu tăng 33,6% so với năm 2006.
Đây cũng sẽ là yếu tố bất lợi đối với ngành Ngân hàng, bởi khi khách hàng của
Ngân hàng gặp rủi ro thì Ngân hàng cũng gặp rủi ro.
Thiên tai dịch bệnh diễn biến phức tạp khó lường. Hạn hán diễn ra nặng trên
diện rộng và kéo dài hiếm thấy, ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng và
thuỷ điện, dịch bệnh, cây trồng, gia súc, gia cầm vẫn có khả năng tái phát.
3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHNT VN
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành Ngân hàng và thực hiện
định hướng của hệ thống NHNT VN, ban lãnh đạo NHNT đã thông qua chương

trình hành động cho năm 2007, trong đó mục tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng 18-
20% so với năm 2006, tăng trưởng dư nợ tín dụng trung dài hạn sẽ là 16% (so với
tỷ lệ 11,3% năm 2006).
Cho vay trung dài hạn sẽ thay đổi theo hướng mở rộng thêm các địa bàn
mới, khách hàng mới, tăng tỷ trọng cho vay đối thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh lên 59% trong tổng dư nợ trung dài hạn. Cơ cấu đầu tư sẽ thay đổi theo
hướng tiếp tục đầu tư vào các ngành công nghiêp chủ lực như dầu khí, điện lực,
bưu chính viễn thông, giữ vững đầu tư với thuỷ sản, gạo...; thận trọng đầu tư đối
với cà phê, chè, cao su và hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn
phòng cho thuê, sản xuất ximăng...
Về chất lượng tín dụng, NHNT phấn đấu tỷ lệ nợ xấu trung dài hạn (nhóm 3-
5) dưới 3% và tỷ lệ nợ xấu trung dài hạn tồn đọng xuống dưới 15% dư nợ xấu (so
với 31,4% năm 2006). Để đạt được chỉ tiêu này, trong năm 2007, nợ quá hạn trung
dài hạn phát sinh không được vượt quá 154 tỷ đồng và phải xử lý được ít nhất 900
triệu đồng nợ tồn đọng. Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng, đòi hỏi NHNT phải
tập trung nhiều công sức và chi phí để hoàn thành.
3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn
Rủi ro tín dụng luôn là loại rủi ro có tác động mạnh nhất và nguy hiểm nhất
đến hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như sự ổn định của nền kinh tế. Ở Việt
Nam, trong bối cảnh tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt theo tiến trình thực
hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ, những tồn tại trong chất lượng tín dụng tại
NHNT đã phân tích ở chương 2 như: nợ quá hạn, nợ xấu lớn, nguồn vốn hoạt động
mất cân đối... cần được giải quyết, điều chỉnh một cách hợp lý, kịp thời. Có rất
nhiều giải pháp để ngăn ngừa, khắc phục và xử lý rủi ro, song trong phạm vi bài
khoá luận này, em xin chỉ nêu các biện pháp thật sự cần thiết với NHNT.
3.2.1. Xử lý nợ tồn đọng
Sau rất nhiều nỗ lực nhằm xử lý nợ tồn đọng, tính đến hết năm 2006, số nợ
xấu trung dài hạn ở NHNT hiện là 303 tỷ đồng. Số nợ xấu hiện vẫn đang ở mức
cao này không những làm xấu đi bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng mà còn gây
ra những khó khăn trong hoạt động của Ngân hàng khi NHNT phải gồng mình lên

để đạt được một mức doanh thu lớn vừa để trang trải cho các chi phí phát sinh, vừa
tự bù đắp cho các khoản cho vay không sinh lời mà vẫn phải trả lãi tiền gửi. Việc
này sẽ đặc biệt khó khăn cho NHNT khi phải cạnh tranh với các chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài, mà hoạt động kinh doanh của họ phải bù đắp cho những khoản
cho vay không sinh lời. Trước hết NHNT cần phải có tiềm lực về vốn mạnh,
NHNT đã trình NHNN phê duyệt kế hoạch cổ phần hoá, nhằm tăng vốn điều lệ,
đồng thời cơ cấu lại Ngân hàng từ đó giảm tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
Sau đó có thể xử lý các khoản nợ tồn đọng này theo các hướng sau:
• Xin trợ cấp từ NHNN:
Đối với số nợ của ngân sách nhà nước và nợ không có tài sản đảm bảo,
không còn đối tượng thu nợ đã được khoanh, NHNT cần làm việc với bộ tài chính
và NHNN để tìm cách giải quyết sớm. Để giải quyết số nợ này, cách tốt nhất là bộ
tài chính, NHNN cấp nguồn cho NHNT để xoá nợ, nếu không chính phủ có thể cho
phép NHNT tiếp tục hạch toán nợ vào chi phí hoạt động. Song để thực hiện cách
thứ hai, đòi hỏi NHNT phải tiếp tục nỗ lực cao để hoạt động kinh doanh có lãi lớn
để có thể hạch toán vào chi phí mà vẫn duy trì được lợi nhuận.
• Thu nợ trực tiếp từ khách hàng:
Thu nợ trực tiếp từ khách hàng là biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc các
khoản nợ tồn đọng, tuy nhiên biện pháp này chỉ có hiệu quả đối với các doanh
nghiệp còn hoạt động và còn khả năng trả nợ. Cách nhanh chóng nhất để thu hồi
nợ vay là NHNT miễn giảm một phần nợ lãi cho khách hàng và động viên doanh
nghiệp bán một phần tài sản không thật cần thiết để trả nợ. Cách thứ hai, công phu
hơn là Ngân hàng lập lại lịch trả nợ cho doanh nghiệp, cùng doanh nghiệp xem lại
kế hoạch kinh doanh, dùng các biện pháp mềm mỏng “nuôi con nợ để thu nợ”,
đồng thời hạn bớt lãi suất, giảm phí dịch vụ... để doanh nghiệp có thể phục hồi việc
kinh doanh và trả nợ cho Ngân hàng. Trong trường hợp này, NHNT cần phối hợp
với doanh nghiệp để tìm ra nguyên nhân dẫn đến khó khăn của doanh nghiệp, từ đó
có hướng khai thác thích hợp, chẳng hạn doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu
tiêu thụ sản phẩm, cần có các biện pháp giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí, giải
phóng hàng tồn kho, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm, thay đổi phương thức

bán hàng... Doanh nghiệp khó khăn do vốn bị chiếm dụng quá nhiều thì hướng
tháo gỡ cần bắt đầu từ các đối tác mua hàng chịu của doanh nghiệp... Nguyên nhân
dẫn đến rủi ro cho doanh nghiệp rất đa dạng bởi vậy phương pháp khai thác, khắc
phục áp dụng đối với từng doanh nghiệp cũng khác nhau, NHNT cần phối hợp với
khách hàng để xây dựng một phương án thu nợ chặt chẽ, xác định chính xác các
công việc khách hàng phải làm, các kết quả cần đạt được cũng như mốc thời gian
đạt được kết quả đó.
• Thu hồi nợ từ việc xử lý tài sản
Hiện nay, thị trường bất động sản đang biến động theo hướng có lợi cho
Ngân hàng, thêm vào đó, sự ra đời của thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN
–BTP-BCA-BTC-TCĐC cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng bán
tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay, bởi vậy Ngân hàng nên tranh thủ bán những tài
sản đảm bảo mặc dù giá bán chưa thể bù đắp khoản cho vay để nhanh chóng thu
hồi vốn, tránh trường hợp tài sản bị xuống cấp, hư hỏng, lấn chiếm...
• Nhờ đến sự can thiệp của pháp luật để thu hồi nợ
Nhờ đến sự can thiệp của toà án là phương thức không Ngân hàng nào muốn
thực hiện, song là một cơ quan kinh doanh, NHNT cần thiết kiên quyết khởi kiện
ra toà án đối với các con nợ không thiện chí hợp tác với Ngân hàng để có thể
nhanh chóng thu hồi nợ.
• Tăng cường tích luỹ dự phòng rủi ro
Trong điều kiện bán tài sản đảm bảo và thu nợ của khách hàng còn nhiều
khó khăn như hiện nay thì quỹ dự phòng rủi ro là nguồn quan trọng để xử lý nợ tồn
đọng.
Với các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng, Ngân hàng cần có kế hoạch
theo dõi, tiếp tục thu hồi nợ nếu có thể để làm tăng nguồn thu cho Ngân hàng.
3.2.2. Tăng cường vốn tự có
Trong hoạt động Ngân hàng, vốn tự có được coi là “tấm đệm” để phòng
chống rủi ro. Hơn nữa hiện nay, ở NHNT quỹ dự phòng rủi ro được thiết lập trên
cơ sở kết quả tài kinh doanh của năm tài chính cho phép, do vậy NHNT hoạt động
càng hiệu quả thì nguồn tài chính trích dự phòng ngày càng nhiều. Muốn vậy,

NHNT cần phải bỏ vốn nhiều hơn nữa vào các hoạt động có mức sinh lời cao như
tín dụng, góp vốn liên doanh, mua cổ phần, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư ra nước
ngoài, tận thu các khoản cho vay chưa thu được. Để làm được điều này thì trước
tiên NHNT cần phải có nguồn lực tài chính mạnh, thể hiện trước tiên là ở nguồn
vốn tự có.
NHNT trải qua nhiều lần tăng vốn tự có, hiện nay có vốn tự có là 9014 tỷ
đồng, một con số khá cao trong hệ thống Ngân hàng giai đoạn hiện nay. NHNT
cũng là Ngân hàng đầu tiền đạt tỷ lệ an toàn vốn là 8,5%, đạt tiêu chuẩn theo quy
định 457/2005/QĐ-NHNN. Tuy nhiên với tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu vẫn còn ở
mức cao như hiện nay, đặc biệt nếu được đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế thì
những tỷ lệ này còn cao hơn con số hiện nay, trong khi thời gian tới các NHTM
VN nói chung và NHNT nói riêng sẽ vấp phải sự cạnh tranh từ những Ngân hàng
nước ngoài với tiềm lực vốn vô cùng lớn, do đó NHNT vẫn phải tiếp tục tăng vốn
tự có để nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời nâng cao khả năng chống chịu
với rủi ro.
Về nguyên tắc, vốn tự có phải được bổ sung dần dần từ lợi nhuận song nếu
theo cách đó thì sẽ phải mất rất nhiều thời gian thì NHNT mới có thể tăng được
lượng vốn đáng kể. Theo kế hoạch gần đây nhất của NHNN và NHNT thì sẽ tiến
hành cổ phần hoá NHNT, đây có thể coi là một phương pháp tối ưu nhằm tăng
cường vốn tự có của NHNT trong thời gian tới.
3.2.3. Đa dạng hoá danh mục đầu tư tín dụng
Như đã phân tích ở chương 2, hoạt động tín dụng trung dài hạn ở NHNT còn
tập trung và thiếu định hướng. Để khắc phục tình trạng, NHNT cần xây dựng một
danh mục tín dụng cụ thể trong đó có phân bổ chỉ tiêu tín dụng cho từng lĩnh vực
để chỉ đạo cho các cán bộ tín dụng. Chẳng hạn như NHNT tính toán thấy dư nợ
cho vay đối với ngành xây dựng cơ sở hạ tầng ở NHNT hiện đang quá chỉ tiêu dự
định, Ngân hàng sẽ chỉ thị cho cán bộ tín dụng ngừng cho vay đối với ngành này,
trừ trường hợp dự án xin vay đặc biệt tốt, làm như vậy sẽ tránh được tình trạng cho
vay còn thiếu định hướng như hiện nay.
Danh mục tín dụng trung dài hạn tại NHNT nên mở rộng thêm các lĩnh vực

công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu mà Việt
Nam hiện đang có triển vọng trên thị trường quốc tế; Các lĩnh vực công nghiệp
nặng như cho vay với các doanh nghiệp ở khu công nghệ cao, khu chế xuất... Để
thực hiện đa dạng hoá, Ngân hàng cần có chính sách khách hàng linh hoạt, mềm
dẻo, phục vụ khách hàng tốt ở tất cả loại dịch vụ, đồng thời không ngừng nâng cao
uy tín của Ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới để các khách hàng đều
cảm thấy uy tín của họ cũng tăng lên khi có giao dịch với NHNT.
3.2.4. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào quá trình cho vay ngay từ
khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng, do đó cán bộ tín dụng đóng một vai trò vô
cùng quan trọng đến chất lượng các khoản cho vay.
Một cán bộ tín dụng tốt đòi hỏi phải có các phẩm chất sau: có kiến thức
chuyên môn về kinh tế, Ngân hàng, có khả năng phân tích tài chính tốt, tư cách đạo
đức tốt và giỏi giao tiếp. Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn phải am hiểu các kiến thức
về thị trường, pháp luật, có trực giác nhạy bén, và đặc biệt, cán bộ tín dụng chuyên
cho vay các dự án trung dài hạn phải có những hiểu biết nhất định về lĩnh vực kỹ
thuật mà Ngân hàng đầu tư.
Vì vậy, NHNT VN cần chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực, ngay
từ khâu tuyển dụng đến khâu bố trí, đề bạt cán bộ. Việc tuyển dụng cán bộ tín dụng
nên có những tiêu chuẩn riêng khác với việc tuyển dụng cán bộ nghiệp vụ khác
trong đó cần coi trọng các yêu cầu về trình độ chuyên môn, hiểu biết kiến thức về
thị trường, pháp luật và các kiến thức khác, có đạo đức nghề nghiệp tốt… Sau đó
trong quá trình làm việc cần phải thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao trình độ,
cập nhật kiến thức cho cán bộ tín dụng, đưa cán bộ tín dụng ra nước ngoài để học
tập, nâng cao trình độ. Cán bộ tín dụng có triển vọng cần được cử đi học thêm về
quản lý để giúp hoạt động tín dụng tại NHNT hiệu quả và an toàn hơn trong tương
lai.
3.2.5. Thẩm định tốt trước khi cho vay
• Nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho công tác thẩm định
Thẩm định dự án trước khi cho vay là giải pháp tốt nhất có thể loại trừ tận

gốc rủi ro. Khó khăn lớn nhất trong quá trình thẩm định ở NHNT là thiếu thông tin.
Trong thời gian tới, NHNT nên thu thập và lưu trữ thông tin thành kho dữ liệu
trong đó tập hợp thông tin thành các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nếu phòng thông
tin có thể cung cấp được các thông tin một cách chi tiết và cập nhật thì các rủi ro
trong cho vay sẽ được hạn chế rất nhiều.

×