Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TỰ LUẬN MÁC LÊNIN TRIET HOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.94 KB, 32 trang )

1.

Những nguyên lí chủ nghĩa tư bản Mác Lenin 2 2017-2018
Đề & Đáp án
Định nghĩa về hàng hóa? Giải thích tại sao khi nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mác lại nghiên cứu từ hàng hóa?
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn những nhu
cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
+Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mác bắt đầu
bằng sự phân tích hàng hóa, vì:
Thứ nhất, hàng hóa là hình thái biểu hiện phổ biến nhất của của cải
trong xã hội tư bản.
Thứ hai, hàng hóa là hình thái nguyên tố của của cải, là tế bào kinh tế
trong đó chứa đựng mọi mầm mống mâu thuẫn của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, phân tích hàng hóa là phân tích giá trị - phân tích cái cơ sở của
tất cả các phạm trù chính trị kinh tế học của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa.

2.

Trình bày hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ giữa hai
thuộc tính của hàng hóa?
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có
những bản chất khác nhau nhưng hàng hóa thì đều có hai thuộc tính là
giá trị sử dụng và giá trị.
* Giá trị sử dụng



Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa để


thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.



Giá trị sử dụng là do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quy
định, nó không phụ thuộc vào chế độ xã hội cho nên giá trị sử dụng là
phạm trù vĩnh viễn và giá trị sử dụng cấu thành nội dung vật chất của
của cải. Giá trị sử dụng xác định mặt chất của hàng hóa và nó là căn
cứ để phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác.




Mỗi hàng hóa có nhiều thuộc tính tức nhiều công dụng, chúng
được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học và
công nghệ và của lực lượng sản xuất nói chung.



Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ được thể hiện đầy đủ thông
qua quá trình sử dụng, tiêu dùng hàng hóa. Vì thế nếu hàng hóa chưa
được sử dụng thì nó mới chỉ có giá trị sử dụng khả năng, nó chỉ có giá
trị sử dụng, cụ thể khi ở trong quá trình tiêu dùng của con người.



Giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng cho
người trực tiếp sản xuất ra nó mà cho người khác, cho xã hội thông qua
trao đổi, mua bán. Nên giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị
trao đổi.

* Giá trị hàng hoá



Giá trị của hàng hóa là 1 phạm trù trừu tượng, để hiểu được
giá trị của hàng hóa thì trước hết phải hiểu được giá trị trao đỏi của
hàng hóa.



Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi giữa những
hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau.



Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.



Giá trị hàng hóa là cái ẩn dấu bên trong làm cơ sở cho sự so
sánh, trao đổi giữa các hàng hóa với nhau. Sở dĩ hàng hóa có giá trị
trao đổi là vì hàng hóa có giá trị. Do vậy, giá trị hàng hóa là nội dung
còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.



Giá trị hàng hóa là 1 quan hệ xã hội, nó biểu thị mối quan hệ
giữa nhùng ng sản xuất hàng hóa. 1 hàng hóa này trao đổi với hàng
hóa khác thì có nghĩa là hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa

này đứng đối diện, quan hệ với hao phí lao động của người sản xuất
khác.




Giá trị hàng hóa là 1 phạm trù lịch sử, có sản xuất hàng hóa
mới có giá trị hàng hóa. Trong nền kinh tế tự cấp tự túc thì phạm trù
giá trị của hang hóa chưa xuất hiện.

c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn
nhau. Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao
đổi là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản
phẩm cho nhau, những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu
trong hàng hóa với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta
trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng
hóa. Vì vậy, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hóa. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là thuộc
tính xã hội của hàng hóa.+
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự đối lập và mâu
thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: Đối với người sản
xuất hàng hóa, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không
phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử dụng là
để đạt được mục đích giá trị. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ
quan tâm là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.
Nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra
nó. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá
trị sử dụng: Giá trị được thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới

được thực hiện.
3.

Giải thích tại sao hàng hóa có 2 thuộc tính? Phân tích tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa?
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao
động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. Chính tính hai


mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định tính hai của bản
thân hàng hóa. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu
tượng.
a. Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định, mỗi lao động cụ thể có mục
đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng và
kết quả riêng.+
Mỗi loại lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao
động cụ thể càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác
nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã
hội.
Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì vậy lao động cụ thể cũng là
phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, nó là điều kiện không
thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào.
Cần chú ý rằng hình thức của lao động cụ thể cũng có thể thay đổi.
Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị sử
dụng do nó tạo ra. Giá trị sử dụng của các vật thể hàng hóa bao giờ
cũng do hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động.
b. Lao động trừu tượng

Lao động của người sản xuất hàng hóa, nếu coi đó là sự hao phí sức óc,
sức thần kinh và sức cơ bắp nói chung của con người, chứ không kể
đến hình thức cụ thể của nó thế như thế nào, thì gọi là lao động trừu
tượng.


Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực nói chung của con người,
xét về mặt sinh lý…nhưng không phải mọi lao động nào về mặt sinh lý
cũng là lao động trừu tượng. Lao động từu tượng chỉ có trong nền sản
xuất hàng hoá, do mục đích sản xuất là để trao đổi. Từ đó làm nảy sinh
sự cần thiết phải quy đổi các lao động cụ thể vốn rất khác nhau, không
thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng chất và có thể
so sánh được với nhau, đó là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng
tạo ra giá trị của hàng hoá, làm cơ sở so sánh ngang bằng trong trao
đổi. Nếu không có sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá thì không
cần quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy lao động
trừu tượng là một phạm trù lịch sử.
Nếu lao động cụ thể chỉ là một trong hai nhân tố tạo ra giá trị sử
dụng, thì lao động trừu tượng là nhân tố duy nhất tạo ra giá trị của
hàng hoá. Giá trị của mọi hàng hoá chỉ là sự kết tinh của lao động trừu
tượng.
Lưu ý: Không phải có hai loại lao động tách biệt nhau, mà thực chất
lao động cụ thể và lao động trừu tượng song song tồn tại trong hoạt
động của một con người, cùng thời điểm, cùng thời gian.
- Xét lao động cụ thể tức là xét người đó làm ra giá trị sử dụng gì…, lao
động như thế nào
- Xét lao động trừu tượng tức là xét người đó tốn bao nhiêu sức lực tức
là tốn bao nhiêu thời gian…
Việc nghiên cứu tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý
nghĩa to lớn về mặt lý luận; nó đem đến lý thuyết lao động sản xuất

một cơ sở khoa học thực sự.
Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như
sự vận động trái ngược, khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên
đi liền khối lượng giá trị của nó ngày càng giảm xuống.


Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, phản ánh tính chất tư
nhânvà tính chất xã hội của sản xuất hàng hoá. Lao động của mỗi
người sản xuất là lao động tư nhân và lao động cụ thể của họ biểu hiện
thành lao động tư nhân. Nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công
lao động xã hội, và lao động tư nhân của họ phải trở thành một bộ
phận của lao động xã hội, lao động trừu tượng biểu hiện ra là lao động
xã hội. Đây là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá…
-

Biểu hiện của mâu thuẫn: Sản phẩm do người sản xuất tạo ra có

thể không ăn khớp hoặc không phù hợp nhu cầu xã hội…
-

Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hoặc

thấp hơn hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận.
Và đây là mầm mống chứa đựng khủng hoảng “sản xuất thừa”.
4.











Nguồn gốc ra đời của tiền tệ trãi qua những hình thái nào( nêu tên)?
Hãy phân tích hình thái cơ bản của tiền tệ? Bản chất của tiền tệ?
Hình thái:
Tiền tệ hàng hóa(hóa tệ)
Hóa tệ phi kim loại
Hóa tệ kim loại
Tiền danh nghĩa- tiền là dấu hiệu giá trị
Tiền xu kim loại
Tiền giấy
Bút tệ
Tiền điện tử
Phân tích hình thái cơ bản của tiền tệ:
Tình trạng nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa
phương vấp phải khó khăn, do đó dẫn đến đòi hỏi khách quan phải
hình thành vật ngang giá chung thống nhất mà tất cả mọi người đều
thừa nhận, đó là vàng. Và lúc đó hình thái tiền tệ ra đời.
Ví dụ:
10 kg thóc

hoặc


2 con gà

hoặc


1 m vải

hoặc

= 0,1 chỉ vàng


Tiền tệ ra đời làm thế giới hàng hóa phân thành hai cực: một bên là các
hàng hóa thông thường, một bên là các hàng hóa đóng vai trò tiền tệ.
+
Lúc đầu nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định
ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ vàng đóng vai trò
tiền tệ là do những ưu điểm của nó: dễ phân biệt (về màu sắc, độ dẻo,
âm thanh khi va chạm); bền vững, dễ chia nhỏ; ổn định về số lượng
sẵn có; giá trị nội tại ít bị biến động.

b. Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa
làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể
hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hóa.
5.

Trình bày nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ? Ý nghĩa của việc
nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ
Với chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình
trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng lưu thông hàng hóa thì ta phải có
tiền mặt. Trao đổi hàng hóa lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng
hóa.

Công thức lưu thông hàng hóa là: H – T – H, khi tiền làm môi giới trong
trao đổi hàng hóa đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách


rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và
bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.+
Lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ là hai mặt của quá trình thống
nhất. Lưu thông tiền tệ xuất hiện và dựa trên cơ sở của lưu thông hàng
hóa.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức càng thoi, bạc
nén. Sau này, tiền vàng dần được thay thế bằng tiền giấy. Tiền giấy
không có giá trị mà chỉ ký hiệu của tiền vàng, là dấu hiệu của giá trị.
ý nghĩa:quan điểm của Max đưa ra được xem là cơ sở,là tiền đề cho các
mức tiếp theo xác định lượngtiền cần thiết trong lưu thong ,đặt nền
tảng cho cơ sở khoa học và phương pháp luận của việc quản lýlưu
thông tiền tệ.
6.

Hãy phân tích công thức chung của tư bản? Cho biết điều kiện
quyết định để tiền biến thành tư bản?
Công thức chung của tư bản: Mọi tư bản mới đầu đều biểu hiện dưới
một số tiền nhất định nhưng tiền tệ chỉ biến thành tư bản trong những
điều kiện nhất định. Nếu là tiền thông thường thì hoạt động theo
phương thức hàng - tiền - hàng (H-T-H). Công thức này gọi là công thức
lưu thông hàng hoá giản đơn, còn nếu tiền là tư bản thì vận động theo
công thức tiền - hàng - tiền (T-H-T). Công thức này gọi là công thức lưu
thông của tư bản. Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị
sử dụng. Vì vậy sự vận động sẽ kết thúc khi những người trao đổi có
được giá trị sử dụng mà anh ta cần đến. Trái lại, mục đích sự vận động
của tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Hơn nữa là giá trị

tăng thêm vì vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì sự vận
động trở nên vô nghĩa. Vì vậy số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng
ra. Do đó công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’=
T + t. Số dôi ra đó (t) Mác gọi là giá trị thặng dư và số tiền ban đầu
chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng


dư. Sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. Vì vậy sự vận động của
tư bản cũng không có giới hạn. Mác gọi công thức T-H-T’ là công thức
chung của tư bản vì mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới
dạng tổng quát đo dù là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay
tư bản cho vay.
Điều kiện gì quyết định tiền tệ biến thành tư bản. Tại sao?

7.

8.

Nghiên cứu công thức chung của tư bản chính là nghiên cứu những
điều kiện chuyển hoá tiền tệ thành tư bản mà thực chất là sự chuyển
hoá quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá đơn giản
thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì khi đó đã có hai điều kiện:
có một lớp người được tự do về thân thể những lại không có tư liệu sản
xuất, vì vậy muốn sống họ phải đem bán sức lao động của mình và
một số ít người tập trung được nhiều tiền đủ để lập xí nghiệp, mua sức
lao động tiến hành sản xuất nhằm bóc lột lao động làm thuê.
Để giải đáp mâu thuẫn của công thức chung của tư bản phải
nghiên cứu tiền tệ trong lưu thông và ngoài lưu thông. Hãy chứng minh
rằng trong lưu thông và ngoài lưu thông tiền tệ không thể tăng thêm?
Sức lao động là gì? Phân tích những điều kiện để sức lao động trở

thành hàng hóa ? Tại sao trong xã hội chiếm hữu nô lệ sức lao động
không thể trở thành hàng hóa
Sức lao động: là toàn bộ những năng lực( thể lực, trí lực) khả năng sản
xuất tồn tại trong 1 con người. sức lao động là cái có trước, là tiềm
năng sẵn có trong con người, còn lao động chính là quá trình vận
dụng sức lao động trong quá trình sản xuất.
Điều kiện để sức lao đọng trở thành hàng hóa
Người lao động phải được tự do về thân thể của mình, có thể chi phối
sức lao động hay năng lực lao động của mình.
Người lao động không có TLSX cân thiết để tự mình thực hiện lao động
và cũng không còn của cải gì khác, muốn sống chỉ còn cách bán sức
lao động.
Như vậy, để sức lao động trở thành hang hóa thì ng có tiền phải tìm
được người lao động tự do trên thị trường, tự do theo 2 nghĩa: theo


nghĩa là 1 con người tự do chi phối dức lao động của mình với tư cách
la 1 hàng hóa; và mặt khác anh ta không có 1 hàng hóa nào khác để
bán, nói 1 cách khác la trần như nhộng, hoàn toàn không có những
vật cần thiết để thực hiện sức lao động của mình.
Sự tồn tại đồng thời 2 điều kiện trên biến sức lao động thành hàng
hóa. Đến lượt mình, sức lao động lại biến thành TB.

9.

Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động ? Hàng hóa sức
lao động có những đặc điểm gì khác với những hàng hóa thông thường.
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai
thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
-


Giá trị hàng hoá sức lao động

+ Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức co động củng do
thời gian lao động xã hội cần thiết để xuất và tái sản xuất sức lao động
quyết định.
+ Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sông của con người. Muốn tái
sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư
liệu sinh hoạt nhất định để mặc, ở, học nghề. V.V.. Ngoài ra người lao
động còn phải thoả mãn những nhu cầu của gia đình và con cái anh
nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất
ra một cách liên tục.
Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao
động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt nuôi sống bản thân người công nhân và gia
đình anh ta; hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo
gián tiếp rằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản
xuất ra sức lao động.
+ Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng
hoá thông thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân
còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hoá...
Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử
của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điểu
kiện địa lý, khí hậu của nước đó.


+ Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử nhưng đối với mỗi
một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những
tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất

định, do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hoá sức lao động
do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết
để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công
nhân;
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân;
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho
con cái và gia đình người công nhân.
-

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động

+ Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá
trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công
nhân.
+ Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức động khác với quá
trình tiêu dùng hàng hoá thông thường ở chỗ:
*
Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử
dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo
thời gian.
*
Đối với hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là quá
trình sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo
ra một giá trị mới lớn hơn giá của bản thân hàng hoá sức lao động.
Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt.
Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có chất đặc biệt,
nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho

sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ
chuyển hóa thành tư bản.




2. So sánh hàng hoá sức lao động với hàng hoá thông thường
+ Giống nhau: đều là hàng hoá và cũng có hai thuộc tính giá
trị và giá trị sử


dụng
Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng
+ Khác nhau:
Hàng hoá sức lao động :
Là hàng hóa đặc biệt,bao hàm cả yếu tố lịch sử và yếu tố tinh thần
Hàng hóa sức lao động gắn liền với cơ thể sống của con người
Người mua có quyền sử dụng, ko có quyền sở hữu, người bán phải phục
tùng người mua
Mua bán có thời hạn Mua đứt, bán đứt
Giá cả nhỏ hơn giá trị Giá cả có thể tương đương với giá tri
Giá trị sử dụng đặc biệt : là nguồn gốc sinh ra giá trị,tạo ra giá trị mới
lớn
hơn giá trị của bản thân nó,
Quá trình sử dụng hay tiêu dung,là quá trình sản xuất ra một loạt hàng
hóa
nào đó, đồng thời tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân
hàng
hóa sức lao động.



Hàng hóa thường:
Người mua và người bán hoàn toàn độc lập với nhau
Giá trị: cả yếu tố tinh thần, vật chất và lịch sử Chỉ thuần tuý là yếu tố
vật
chất
Giá trị trao đổi,giá trị sử dụngthông thường
Là nguồn gốc của giá trị trao đổi:Biểu hiện của của cải
Hàng hóa thông thường có thể đem ra trao đổi
Sau quá trình tiêu dung hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng
của nó
đều tiêu biến mất theo thời gian
10.

Mục đích sản xuất hàng hóa TBCN là gì? Phân tích những đặc điểm
của sản xuất hàng hóa TBCN?
Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không
phải giá trị sử dụng.

b. Đặc trưng của sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá có những đặc trưng cơ bản sau:
- Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua-bán.
+ Trong lịch sử loài người tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau:
sản xuất tự cung, tự cấp và sản xuất hàng hoá.


+ Sản xuất tự cung, tự cấp: sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản
xuất của người nông dân trong thời kì công xã nguyên thuỷ, sản
xuất của những nông dân gia trưởng dưới chế độ phong kiến v.v.

+ sản xuất hàng hoá: để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người
khác, thông qua việc trao đổi, mua-bán.
- Lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính tư nhân, vừa
mang tính xã hội.
+ Mang tính chất xã hội: sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng
nhu cầu của người khác trong xã hội.
+ Nhưng tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thì lao động của
người sản xuất hàng hoá đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì
việc sản xuất cái gì, như thế nào là công việc riêng, mang tính độc
lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không
phù hợp với tính chất xã hội.
Là cơ sở dẫn đến khủng hoảng.
=>Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở,
mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hoá.
11. Khái niệm tư bản bất biến và tư bản khả biến? Trình bày căn cứ
và ý nghĩa tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến?
1. TB bất biến:


ĐN: Bộ phận tb biến thành TLSX mà giá trị được bảo toàn và
chuyển hóa vào sản phẩm, tức là không thay đổi về lượng
giá trị của nó. Ký hiệu là C.



Cấu trúc: về mặt hiện vật, TB bất biến gồm: máy móc, thiết
bị, nhà xưởng(C1); nguyên, nhiên vật liệu (C2).





Đặc điểm: giá trị của chúng được lao động cụ thể của ng
công nhân bảo tồn và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị
sản phẩm. Trong đó C1 chuyển giá trị nhiều lần, C2 chuyển
giá trị 1 lần. Giá trị sử dụng của TLSX được bảo tồn dưới hình
thức giá trị sử dụng mới.

2. TB khả biến:


ĐN: là bộ phận TB biến thành sức lao động không tái hiện ra,
nhưng thông qua lao động trưu tượng của công nhân làm
thuê tăng lên, tức là không biến đổi về lượng. Ký hiệu V.



Cấu trúc: TB khả biến dùng để thuê ng lao động làm việc
trong khoảng thời gian nhất định. TB khả biến tồn tại dưới
hình thức tiền lương.



Đặc điểm: Sử dụng TB khả biến sẽ tạo ra 1 giá trị mới lớn
hơn giá trị của chính TB khả biến bỏ ra ban đầu. Lượng giá
trị đó được chia thành 2 bộ phận: 1 bộ phận chuyển thành tư
liệu sinh hoạt của ng công nhân, bù lại giá rị sức lao động
của ng công nhân và mất đi trong quá trình tiêu dùng của
họ; bộ phận còn lại chính là giá rị thựng dư thuộc về nhà TB.




Nhà TB không sở hữu được sức lao động đã mua bằng TB
khả biến, mà chỉ sử dụng sức lao động đó trong thời gian
nhất định trong ngày.

- Tư bản bất biến ( C ) : là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư
liệu sx mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sp tức là giá trị k thay
đổi về lượng trong quá trình sx. Bao gồm: máy móc, nhà xưởng,
nguyên liệu, nhiên liệu… Nó có đặc điểm là giá trị của chúng được
bảo toàn và di chuyển vào sp. Giá trị tư liệu sx được bảo tồn dưới
hình thức giá trị thặng dư mới.


- Tư bản khả biến ( V ) : là bộ phận tư bản biến thành sức lao động k
tái hiện ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của công x làm
thuê mà tăng lên tức là tăng lên về lượng. Nó có đặc điểm là giá trị
của nó biến thành tư liệu sinh hoạt của công x và biến đi trong quá
trình tiêu dùng của công x. Trong quá trình lao động công x tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động nó bằng giá trị sức lao động
cộng với giá trị thặng dư. vd: tiền thuê nhân công, lương trả cho
người lao động.
- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao
động làm thuê. Nếu hiểu theo nghĩa này thì tư bản là một phạm trù
lịch sử biểu hiện quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư bản và giai cấp
công nhân làm thuê.
Cơ sở và ý nghĩa:
- Tư bản bất biến, tư bản khả biến
Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản ứng tiến ra để mua tư liệu sản
xuất và sức lao động, nghĩa là tạo ra các yếu tố của quá trình sản
xuất. Các yếu tổ này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị

thặng dư.
+ Tư bản bât biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu
sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu phụ…) mà giá trị của nó được lao động cụ thể của người công
nhân chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm mới, tức là giá trị không
thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất gọi là tư bản bất biến (c).
+ Tư bản khả biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao
động trong quá trình sản xuất đã có sự thay đổi về lượng. Sự tăng
lên về lượng do giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính
chất đặc biệt khi được tiêu dùng thì nó tạo ra một lượng giá trị mới
lớn hơn giá trị của bản thân nó, kí hiệu là (v).
- Cơ sở và ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến
và tư bản khả biến
Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến là


công lao vĩ đại của Mác. Sự phân chia này đã vạch rõ nguồn gốc
thực sự của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra, còn tư bản
bất biến tuy không phải là nguồn gốc của giá trị thặng dư nhưng là
điều kiện cần thiết không thể thiếu được. Như vậy, Mác đã chỉ ra vai
trò khác nhau của các bộ phận tư bản trong quá trình hình thành
giá trị nhờ sự phân chia này.
12. Trình bày tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư?
Ý nghĩa của nội dung nghiên cứu


Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá
trị thặng dư với tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá
trị thặng dư đó




Công thức: m’ = M/v x 100 %



Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trình độ bóc lột của nhà TB đói
với công nhân. Nó phản ánh trong tổng số giá trị mới do
công nhân tạo ra thì công nhân được hưởng bao nhiêu và
nhà TB chiếm đoạt bao nhiêu. Tỷ suất giá trị thặng dư còn
chỉ rõ ngày lao động của công nhân được chia thành thời
gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư theo tỉ
lệ nào. Vì thế tỷ suất giá trị thặng dư còn được tính:

m’ = thời gian lao động thặng dư( t’) / thời gian lao động cần thiết(t)
x 100 %



Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư
mà nhà tư bản bóc lột được trong một thời gian sản xuất
nhất định.



Công thức:nó được tính bằng tích số giữa tỷ suất giá trị
thặng dư và tổng TB khả biến: M = m’ x V.




Khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào trình độ bóc lột
của nhà TB và số lượng công nhân bị nhà TB bóc lột.




Khối lượng giá trị thặng dư chỉ rõ quy mô bóc lột của nhà TB.

13. Phân tích bản chất của tiền công trong Chủ nghĩa tư bản? Trong
chủ nghĩa tư bản có những hình thức tiền công nào(nêu tên)

1. Bản chất của tiền công:
- Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, là
giá cả của hàng hoá sức lao động.
Tuy vậy, dễ có sự lầm tưởng, trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả
của lao động bởi vì:
+ Nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao
động để sản xuất ra hàng hóa.
+ Tiền công được trả theo thời gian lao động, hoặc theo số lượng hàng
hóa đã sản xuất được.
- Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động mà là
sức lao động. Do đó, tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao
động mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao động.
2. Hình thức tiền công cơ bản:
- Tiền công tính theo thời gian
- Tiền công tính theo sản phẩm
14. Phân tích xu hướng tiền công trong CNTB?
Nghiên cứu sự vận động của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản, C.Mác
vạch ra rằng, xu hướng chung có tính quy luật của sự vận động của
tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là: trong quá trình phát triển của chủ

nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức
tăng của nó nhiều khi không theo kịp với mức tăng giá cả tư liệu tiêu
dùng và dịch vụ. Khi đó, tiền công thực tế có xu hướng hạ thấp.


15. Tích tụ tư bản? Tập chung tư bản ? Động cơ của tích tụ và tập
chung tư bản? Điểm giống và khác giữa tích tụ và tập chung tư bản? Ý
nghĩa của nghiên cứu tích tụ và tập chung tư bản?
Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá
biệt tăng lên thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách
tư bản hóa giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết
quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Tích lũy tư bản xét về mặt làm
tăng thêm quy mô của tư bản cả biệt là tích tụ tư bản.
Tích tụ tư bản, một mặt là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng, của sự
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; mặt khác sự tăng lên của khối lượng giá
trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ
nghĩa tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng
cách hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một
tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn
bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới
sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập các tư bản cá biệt. Tín dụng tư
bản chủ nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi
trong xã hội vào tay các nhà tư bản.
Tích tụ và tập trung tư bản có điểm giống nhau là chúng đều làm
tăng quy mô của tư bản cá biệt. Nhưng giữa chúng lại có những
điểm khác nhau:
Một là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư
bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời kìm tăng quy mô

của tư bản xã hội. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản
cá biệt có sẵn trong xã hội, do đó tập trung tư bản chỉ làm tăng quy
mô của tư bản cá biệt, mà không làm tăng quy mô của tư bản xã
hội.
Hai là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư xét về mặt đó, nó
phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động: nhà tư bản
tăng cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư
bản. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn
trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sáp nhập,
xét về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội
bộ giai cấp các nhà tư bản; đồng thời nó cũng tác động đến mối
quan hệ giữa tư bản và lao động.


Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư
bản làm tăng thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó
cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại,
tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị
thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói trên
của tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích lũy tư bản ngày càng
mạnh. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của
sản xuất tu bản chủ nghĩa Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được
những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Như vậy, quá trình tích lũy tư bản gẳn với quá trình tích tụ và tập
trung tư bản ngày càng tăng, do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
trở thành nền sản xuất xã hội hóa cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh
tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm.
16. Trình bày khái niệm tuần hoàn và chu chuyển tư bản?
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản trải qua ba giai
đoạn, lần lượt mang ba hình thái, thực hiện ba chức năng rồi trở về

hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng
lên.
Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường trong điều
kiện các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng được chuyển
tiếp. Mặt khác, tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong
một thời gian nhất định. Vì vậy, sự vận động tuần hoàn của tư bản
là sự vận động liên tục không ngừng; đồng thời là sự vận động đứt
quãng không ngừng.
Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của
tư bản công nghiệp: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng
hóa.
*Chu chuyển của tư bản là sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là
một quá trình định kỳ đổi mới, và lặp đi lặp lại không ngừng. Chu
chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản cá biệt.


17. Tư bản cố định ? Tư bản lưu thông ? Trình bày căn cứ và ý nghĩa
của việc phân chia tư bản thành hai loại tư bản như trên ?
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển
khác nhau về mặt giá trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển
của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức
(đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ
phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và
tư bản lưu dộng.
Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng
máy móc, thiết bị, nhà xưởng, V.V. tham gia toàn bộ vào quá trình
sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết mệt lần vào sản
phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong
thời gian sản xuất.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và

bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao
mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
+ Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có
thể nhận thấy. Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác
động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần
hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.
+ Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao
mòn vô hình xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá
vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương
đương, nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các
nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động,
tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng máy móc trong thời gian
càng ngắn càng tốt.
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, v.v.. Giá trị của
nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản
xuất, khi hàng hóa được bán xong.
- Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư
bản lưu động là phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng
bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất.
- Ý nghĩa:


+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp
quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư
bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình do tự
nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó, mà có điều kiện
đổi mới thiết bị nhanh, nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.
+ Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng
tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một

mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng
lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm
được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư
bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng
giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.
18. Hiểu biết thế nào về giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất TBCN ?
Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất TBCN có sự khác nhau như
thế nào?
Nếu gọi giá trị hàng hóa là W, thì ta có công thức: W = c + v + m.
Đó chính là những chi phí lao động thực tế của xã hội để sản xuất
hàng hóa. Nhưng đối với nhà tư bản, để sản xuất hàng hóa, họ chỉ
cần chi phí một lượng tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức
lao động (v). Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa,
được ký hiệu là k. Theo đó, k = c + v. Nếu dùng k để chỉ chi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức W = c + v + m sẽ chuyển hoá
thành: W = k + m.

Giữa chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị hàng hóa có sự
khác nhau cả về chất và về lượng. Về chất, chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa chỉ là sự chi phí về tư bản còn giá trị hàng hóa là sự chi
phí thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng hóa. Chi phí thực tế là chi
phí về lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.
Về lượng, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí
thực tế, tức là giá trị của hàng hóa, vì rằng W = k + m thì k = W m. Đối với nhà tư bản, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giới hạn
thực tế của lỗ lãi kinh doanh nên họ ra sức "tiết kiệm" chi phí sản
xuất này bằng mọi cách.
19. Thực chất của lợi nhuận là gì? Điểm giống và khác nhau giữa lợi
nhuận và giá trị thặng dư?





Nếu hàng hóa được bán đúng giá thị trường thì chủ TB sẽ thu
được phàn thặng dư đúng bằng giá trị thặng dư. Họ không
quan tâm phần thặng dư đó do cái gì tạo ra mà chỉ biết kết
thúc quá trình đầu tư TB, họ thu vè 1 phần thặng dư, họ gọi
đó là lợi nhuận.



Lợi nhuận là giá trị thặng dư khi được coi là kết quả của toàn
bộ TB ứng trước, là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và
chi phí sản xuất. Ký hiệu P.



Công thức: P= w-k



-

So sánh giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận:



+ Giống nhau, cả lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) đều có
chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của
công nhân.




+ Khác nhau: phạm trù giá trị thặng dư phản ánh đúng nguồn
gốc và bản chát của nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao động
không công của công nhân, còn phạm trù lợi nhuận chẳng qua
chỉ là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư.



Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản
xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho
người ta hiểu lầm rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao
dộng làm thuê tạo ra. Nguyên nhân của hiện tượng đó là:



+ Thứ nhất, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
xóa nhoà sự khác nhau giữa c và v.



+ Thứ hai, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn
chi phí sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng
hoá cao hơn chi phi sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thế thấp
hơn giá trị hàng hoá là đã có lợi nhuận rồi.



Nhìn vào hình thức, lý luận giai cấp tư sản cho rằng, lợi nhuận
là do lưu thông sinh ra. Vì nếu:




Giá cả = giá trị thì p = m



Giá cả > giá trị thì p > m



Giá cả < giá trị thì p < m




Nhưng xét trong toàn xã hội thì tổng giá cả luôn băng tổng giá
trị, do đó tổng p luôn luôn bằng tổng m.

20. Tỷ suất lợi nhuận là gì? Điểm giống và khác nhau giữ tỷ suất lợi
nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư?
Tỷ suất lợi nhuận
- Khái niệm : Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá
trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
+ So sánh tỷ suất lợi nhuận với tỷ suất giá trị thặng dư:
Lợi nhuận là hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư, nên tỷ suất
lợi nhuận cũng là sự chuyển hoá của tỷ suất giá trị thặng dư, vì vậy
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng giữa m’ và p’ lại có
sự khác nhau cả về chất và lượng.
+ Về mặt chất: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với

công nhân làm thuê, còn p’ không thể phản ánh được điều đó, mà
chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào
đâu thì có lợi hơn. Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi
nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh
của các nhà tư bản.
Về mặt lượng: p’ luôn luôn nhỏ hơn m’
21. Nguồn gốc và bản chất của tư bản thương nghiệp trong CNTB
Nguồn gốc tư bản thương nghiệp
Tư bản thương nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Nó tồn tại
trên cơ sở lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Trước chủ nghĩa
tư bản, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp chủ yếu là do mua rẻ,
bán đắt.
Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư
bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng
hóa. Như vậy, hoạt động của tư bản thương nghiệp chỉ là những


hoạt động phục vụ cho quá trình thực hiện giá trị hàng hóa của tư
bản công nghiệp. Công thức vận động của nó là: T - H - T'.
Tư bản thương nghiệp có đặc điểm vừa phụ thuộc vào tư bản công
nghiệp, vừa có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ:
tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận của tư bản công nghiệp
tách rời ra. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở chỗ: chức năng
chuyển hóa cuối cùng của hàng hóa thành tiền trở thành chức năng
riêng biệt tách khỏi tư bản công nghiệp, nằm trong tay người khác.
Khi tư bản thương nghiệp xuất hiện, nó có vai trò và lợi ích to lớn đối
với xã hội, bởi vì:
- Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua - bán hàng hóa nên
lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi

những người sản xuất trực tiếp đảm nhiệm chức năng này.
- Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua - bán hàng hóa, người
sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất, giảm dự
trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư.
- Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua - bán hàng hóa, sẽ rút
ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh chu chuyển tư bản, từ đó tăng
tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm.
22. Nguồn gốc và bản chất lợi nhuận thương nghiệp trong CNTB? Ý
nghĩa nội dung nghiên cứu?
Lợi nhuận thương nghiệp
+Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra
trong trình sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản
thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cho mình.
Lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá trị thặng


×