Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Trách nhiệm xã hội của tổ chức khoa học và công nghệ ( Nghiên cứu trường hợp Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn) : Luận văn ThS. Kinh doanh và quản lý: 60 34 72

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ GẤM

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA TỔ CHỨC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP ĐẠI HỌC KỸ THUẬT LÊ QUÝ ĐÔN)

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Quản lý KH&CN

Hà Nội-2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ GẤM

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA TỔ CHỨC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP ĐẠI HỌC KỸ THUẬT LÊ QUÝ ĐÔN)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Quản lý KH&CN
Mã số: 60 34 72

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Ngọc Thanh


Hà Nội-2011


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 4
1. Lý do nghiên cứu............................................................................................5
2. Lịch sử nghiên cứu. ........................................................................................7
3. Mục tiêu nghiên cứu. .....................................................................................8
4. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................9
5. Mẫu khảo sát. .................................................................................................9
6. Vấn đề nghiên cứu. ........................................................................................9
7. Giả thuyết nghiên cứu. ...................................................................................9
8. Phương pháp chứng minh luận điểm. ...........................................................9
9. Kết cấu của luận văn. ................................................................................... 10
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 11
Chương 1. TỔ CHỨC KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ VÀ VẤN ĐỀ TRÁCH
NHIỆM XÃ HỘI .......................................................................................... 11
1.1. Tổ chức khoa học và công nghệ. ............................................................... 11
1.1.1. Khái niệm tổ chức. .............................................................................. 11
1.1.2. Khái niệm tổ chức khoa học và công nghệ. ........................................ 12
1.2. Trách nhiệm xã hội. .................................................................................. 15
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm. ....................................................................... 15
1.2.2. Trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, trách nhiệm tổ chức. ...... 17
1.2.3. Khái niệm trách nhiệm xã hội. ............................................................ 19
1.2.4. Các khía cạnh và các nhóm vấn đề liên quan của trách nhiệm xã hội.24
1.2.5. Đặc trưng trong trách nhiệm xã hội của tổ chức khoa học và công nghệ.
...................................................................................................................... 30
1.2.6. Lợi ích của trách nhiệm xã hội ........................................................... 36
Chương 2: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA ĐẠI HỌC KỸ THUẬT LÊ QUÝ ĐÔN


..................................................................................................................... 40
2.1. Tổng quan về Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn........................................... 40
2.2. Trách nhiệm xã hội của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn: bản chất và quá
trình thực hiện. ................................................................................................ 42
2.2.1. Bản chất trách nhiệm xã hội của đại học kỹ thuật Lê Quý Đôn. ....... 42
2.2.2. Trách nhiệm xã hội trong công tác đào tạo. ....................................... 42
1


2.2.3. Trách nhiệm xã hội trong hoạt động khoa học và công nghệ............. 50
2.2.4. Trách nhiệm xã hội trong công tác hậu cần, hành chính................... 61
2.2.5. Trách nhiệm xã hội trong các chính sách đối với cán bộ, giảng viên, học
viên. ............................................................................................................... 67
2.2.6. Chính sách hậu cần, hậu phương quân đội và các hoạt động từ thiện,
phúc lợi xã hội. ............................................................................................. 70
Chương 3: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI HỌC KỸ THUẬT LÊ QUÝ ĐÔN .......... 74
3.1. Ảnh hưởng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với hoạt động của
Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn. ........................................................................ 74
3.1.1. Thu hút lượng lớn thí sinh có chất lượng tham gia dự thi và học tập tại
Trường. ......................................................................................................... 74
3.1.2. Sự tín nhiệm của đơn vị sử dụng sản phẩm đào tạo và nghiên cứu khoa
học và các đối tác trong và ngoài nước. ........................................................ 77
3.1.3. Thu hút và phát huy năng lực đội ngũ nhân lực khoa học chất lượng
cao. ................................................................................................................ 79
3.2. Khuyến nghị nhằm thực hiện tốt hơn trách nhiệm xã hội của Đại học Kỹ
thuật Lê Quý Đôn. ........................................................................................... 83
3.2.1. Xây dựng văn hóa tổ chức, văn hóa quản lý phù hợp với giai đoạn mới.
...................................................................................................................... 83
3.2.2. Quan tâm đến hệ đào tạo dân sự nhiều hơn. ...................................... 84

3.2.3. Đẩy mạnh việc xây dựng, chuyển đổi việc đào tạo của Nhà trường theo
học chế tín chỉ, phù hợp với xu hướng giáo dục trên thế giới và đáp ứng yêu
cầu thực tiễn. ................................................................................................ 85
3.2.4. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính hơn nữa. ............................ 85
3.2.5. Làm phong phú, đa dạng các hình thức sinh hoạt của các tổ chức quần
chúng. ........................................................................................................... 86
3.2.6. Khai thác phòng thí nghiệm hiệu quả hơn nữa. ................................. 87
3.2.7. Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học với các đối tác trong và ngoài
nước. ............................................................................................................. 87
3.2.8. Tăng lượng đầu sách, tài liệu tham khảo phục vụ nhu cầu học tập của
học viên. ....................................................................................................... 88
3.2.9. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
...................................................................................................................... 88
2


PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 93

3


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

1. Bảng 2.1. Xếp loại tốt nghiệp đối với kỹ sư quân sự và kỹ sư dân sự (%)
2. Bảng 2.2: Các công trình nghiên cứu khoa học của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn
(2006-2010).
3. Bảng 2.3: Doanh thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn (2003-2008).
4. Bảng 2.4: Các mức hỗ trợ đăng báo cho cán bộ, giảng viên của Đại học Kỹ thuật Lê

Quý Đôn.
5. Bảng 2.5: Phân bổ cho các quỹ của Nhà trường từ nguồn thu các hợp đồng dịch vụ
khoa học và công nghệ (%).
6. Bảng 3.1: Số lượng người dự thi và nhập học hệ đại học vào Đại học Kỹ thuật Lê
Quý Đôn giai đoạn 2003 - 2008.
7. Bảng 3.2: Số lượng đề tài nghiên cứu của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng viên
Nhà trường giai đoạn 2003-2008.
8. Bảng 3.3: Số lượng đề tài nghiên cứu các cán bộ tham gia đảm nhiệm (2003-2008).
9. Bảng 3.4: Số lượng bài báo đăng trên các tạp chí trong và ngoài nước của cán bộ
nghiên cứu Nhà trường (2003 -2008).
10. Bảng 3.5: Doanh thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn (2003-2008).

4


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu.
Trong bối cảnh hiện nay, khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão tạo
nên những công cụ đắc lực làm cho sức mạnh con người được nhân lên gấp bội, mang
lại nhiều thành tựu lớn cho đời sống con người, nhưng bên cạnh đó cũng đem lại nhiều
thách thức và mối đe dọa như tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng giữa các
quốc gia đang tiếp tục gia tăng mạnh hơn, khủng hoảng sinh thái đang là nguy cơ đe
dọa sự sống còn của loài người. Kinh tế thị trường đang có những tác động đa chiều
đến các quốc gia và đời sống của con người. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu ngày
càng lan rộng và trở nên nghiêm trọng hơn. Nhân loại đang đứng trước những nguy cơ
lớn về khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực, trái đất ấm lên do hiệu ứng
khí thải. Tất cả các hiện tượng này có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về
trách nhiệm xã hội của Chính phủ, của các tổ chức chính trị - xã hội, của doanh

nghiệp, của người dân và xã hội dân sự.
Trong khi đó, một trong những vấn đề có tính sống còn hiện nay đối với tất cả
các quốc gia trên thế giới, đó là làm thế nào để xây dựng một xã hội phát triển bền
vững. Một trong những yếu tố góp phần xây dựng xã hội phát triển bền vững, đó là
giải quyết tốt vấn đề trách nhiệm xã hội. Chính vì vậy, vấn đề trách nhiệm xã hội hiện
nay đang được đề cao trên tất cả các phương diện, các lĩnh vực, các cấp độ của chủ thể
xã hội và của nền văn minh nhân loại.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, ở nước ta, trách nhiệm xã hội cần
được xem như là một trong những động lực của sự phát triển xã hội. Nâng cao trách
nhiệm xã hội trong mọi lĩnh vực, ở mọi khía cạnh là một đòi hỏi bức thiết của xã hội
hiện đại để có thể phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Vai trò của trách nhiệm xã hội
đã được xã hội nhận thấy và ngày càng quan tâm, chú ý, coi trọng, tuy nhiên không
phải ai, tổ chức nào cũng hiểu biết được đầy đủ về nó, cũng như các hướng dẫn thực
hiện để đưa tổ chức mình vào thực hiện một cách quy củ, bài bản. Những thông tin
cũng như hướng dẫn thực hiện trách nhiệm xã hội đối với mọi loại hình tổ chức cần
được đề cập đến nhiều hơn để các tổ chức này dễ dàng tiếp cận và biết cách thực hiện
đối với tổ chức của mình.
Ở nước ta, trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đã được đề cập đến khá
nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là mạng internet. Các doanh
nghiệp ngày càng quan tâm đến vấn đề trách nhiệm xã hội một cách thực sự vì nó ảnh
5


hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh cũng như lợi nhuận của họ.
Hiện nay, trên thế giới, có những thị trường yêu cầu vấn đề trách nhiệm xã hội là bắt
buộc đối với các doanh nghiệp. Khi có các bằng chứng chứng thực doanh nghiệp này
thực hiện đúng quy định về trách nhiệm xã hội thì họ mới cho phép hàng hóa của
doanh nghiệp lưu hành trên thị trường. Nếu doanh nghiệp nào bị phát hiện ra là làm ăn
không có trách nhiệm xã hội thì sẽ dễ dàng bị các đối tác, người tiêu dùng và toàn thể
xã hội tẩy chay. Chính vì vấn đề trách nhiệm xã hội đang ngày càng tác động trực tiếp

và mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động cũng như lợi nhuận của các doanh nghiệp như vậy
nên các doanh nghiệp đang ngày càng quan tâm và thực hiện tốt hơn vấn đề này để
mang lại sự phát triển bền vững cho bản thân mình và cho toàn xã hội.
Vấn đề trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở nước ta đã được quan tâm
như vậy, nhưng đối với các tổ chức khoa học và công nghệ thì vấn đề này chỉ mới
được bàn đến khá ít. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng internet, các tài
liệu, sách tham khảo, chúng ta có thể dễ dàng tra cứu và bắt gặp những thông tin về
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhưng với các tổ chức khoa học và công nghệ thì
dường như chưa có hoặc có rất ít. Phải chăng các tổ chức khoa học và công nghệ của
Việt Nam không cần quan tâm và thực hiện trách nhiệm xã hội? Hay là các tổ chức
này đã thực hiện rất tốt nên không cần bàn tới nữa? Thực tế hiện nay có nhiều tổ chức
khoa học và công nghệ trong đó có nhiều trường đại học chưa thực hiện tốt trách
nhiệm xã hội của mình mà biểu hiện dễ nhìn thấy nhất là các nhà trường cung cấp sản
phẩm đào tạo chất lượng thấp, không đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Điều đó không
chỉ gây ảnh hưởng xấu đến danh tiếng, thương hiệu của các tổ chức, các nhà trường
mà còn gây lãng phí các nguồn lực và ảnh hưởng xấu, lâu dài đến xã hội. Trong nền
kinh tế thị trường và toàn cầu hóa hiện nay, nếu các trường đại học không khẳng định
được uy tín, chất lượng và lấy được niềm tin của người học thì sẽ không thể cạnh tranh
được với các trường ở nước ngoài và sẽ dễ dàng bị mất một lượng lớn học sinh, sinh
viên đi du học thay vì chọn hình thức học tập trong nước. Điều đó đặt ra một yêu cầu
bức thiết hiện nay là các trường đại học cần phải thực hiện trách nhiệm xã hội tốt hơn
để phát huy hiệu quả của các nguồn lực, tạo sự phát triển bền vững cho mình cũng như
đóng góp vào sự phát triển bền vững của xã hội.
Với những suy nghĩ, băn khoăn như vậy, tác giả muốn đi tìm hiểu, nghiên cứu
bản chất của trách nhiệm xã hội, vai trò, ý nghĩa của nó đối với các tổ chức, đối với sự
phát triển của xã hội đặc biệt là trách nhiệm xã hội của các tổ chức khoa học và công

6



nghệ trong đó chú trọng đến trách nhiệm xã hội của trường đại học với trường hợp
nghiên cứu là Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Vấn đề trách nhiệm xã hội đã được thế giới quan tâm và đề cập đến trong một
khoảng thời gian khá dài. Vào thập niên 70 của thế kỷ XX, trên thế giới đã bắt đầu
xuất hiện thuật ngữ trách nhiệm xã hội cũng như những nội dung liên quan đến nó.
Các nước phát triển quan tâm đến vấn đề này sớm hơn và chú ý thực hiện tốt hơn. Ban
đầu, các khía cạnh, vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội đề cập đến còn ít và khá
đơn giản như việc làm từ thiện của các tổ chức, giúp đỡ những người nghèo khó, gặp
hoạn nạn... Xã hội càng phát triển thì các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội càng
được mở rộng hơn, càng sâu sắc hơn. Nó không chỉ là những vấn đề liên quan đến
phúc lợi xã hội nữa mà nó tập trung nhiều vào những hoạt động chính của các cá nhân,
tổ chức. Một tổ chức có trách nhiệm xã hội hay không sẽ thể hiện trong toàn bộ các
quyết định và hoạt động của nó và được thực hiện trong tất cả các mối quan hệ của tổ
chức đó với các đối tác hữu quan.
Các nước đang phát triển và chậm phát triển thì quan tâm đến vấn đề này muộn
hơn. Việt Nam cũng mới chỉ quan tâm nhiều đến vấn đề trách nhiệm xã hội trong một
số năm gần đây. Khi mà khoa học và công nghệ phát triển vượt bậc, tạo ra nhiều thành
tựu cho cuộc sống con người nhưng bên cạnh đó cũng tạo ra rất nhiều mặt tiêu cực mà
loài người đang lợi dụng, cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường với những mặt tiêu cực của nó đã đẩy nước ta vào nhiều nguy cơ lớn của sự
phát triển không bền vững và sự tổn thất nặng nề về kinh tế, môi trường và xã hội thì
vấn đề trách nhiệm xã hội bắt đầu được quan tâm và yêu cầu thực hiện gắt gao.
Vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở nước ta trong những năm gần
đây được đề cập đến rất nhiều. Trên mạng internet cũng như các phương tiện thông tin
đại chúng, chúng ta có thể dễ dàng tìm kiếm được các thông tin liên quan đến các yêu
cầu trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp, tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp hiện nay, giải thưởng trách nhiệm xã hội,...
Vấn đề trách nhiệm xã hội của các loại hình tổ chức khác thì mới được đề cập,
phản ánh đến ít hơn. Trên các mạng truyền thông, thông tin về việc thực hiện trách

nhiệm xã hội của các tổ chức không phải là doanh nghiệp rất hiếm gặp và nếu có cũng
chỉ là những nội dung hết sức chung chung, chưa cụ thể. Tại Việt Nam, đã có 2 hội
thảo lớn bàn về vấn đề trách nhiệm xã hội với các chủ đề: “Công bằng xã hội, trách
nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội” và “Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị
7


trường”. Tháng 10 năm 2007 tại Hà Nội diễn ra cuộc hội thảo với chủ đề “Công bằng
xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội”. Từ ngày 11 đến ngày 15 tháng 2 năm
2009 tại Đồ Sơn, Hải Phòng, Viện Triết học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam
cùng phối hợp với Hội hành động vì sự phát triển con người của Giáo hội Thiên chúa
giáo Đức (MISEREOR) và Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa
học quốc tế với chủ đề “Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường” – một
chủ đề có ý nghĩa lý luận quan trọng và giá trị thực tiễn đặc biệt to lớn, là một trong
những mối quan tâm hàng đầu không chỉ của những nhà hoạt động chính trị, các nhà
khoa học, mà của toàn nhân loại, của tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Hội thảo này là sự tiếp tục và phát triển những nội dung đã được đặt ra từ Hội thảo
“Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội”. Hội thảo đã tổng hợp
được nhiều bài viết của các độc giả trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan đến
trách nhiệm xã hội. Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được hơn 90 báo cáo khoa học tập
trung vào 4 chủ đề chính về trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường:
Trách nhiệm xã hội của nhà nước; Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; Trách
nhiệm xã hội của các tổ chức xã hội, và Trách nhiệm xã hội của công dân.
Các báo cáo được trình bày trong hội thảo và rất nhiều ý kiến phát biểu thảo
luận vấn đề trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường đã được các đại biểu
tham dự Hội thảo phân tích từ nhiều góc độ khác nhau: triết học, kinh tế học, luật
pháp, đạo đức, lịch sử tư tưởng, giá trị học, xã hội học, tôn giáo, kinh nghiệm nước
ngoài,… Có thể nói, gần như tất cả các khía cạnh khác nhau của vấn đề trách nhiệm xã
hội đã được xới lên trong Hội thảo này.
Nhưng những báo cáo tại hội thảo cũng mới chỉ dừng lại ở việc phân tích chung

chung và bàn tới những vấn đề mang tính vĩ mô. Những vấn đề cụ thể về trách nhiệm
xã hội của một tổ chức thì lại chưa được bàn luận đến đặc biệt là trách nhiệm xã hội
của các trường đại học trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tác giả muốn đi tìm
hiểu một cách thống nhất những vấn đề chính liên quan đến trách nhiệm xã hội: trách
nhiệm xã hội là gì? Trách nhiệm xã hội của một tổ chức bao gồm những vấn đề cụ thể
nào? Đặc trưng trong trách nhiệm xã hội của tổ chức khoa học và công nghệ trong giai
đoạn hiện nay là gì đặc biệt là của một trường đại học? Tác giả đã tiến hành nghiên
cứu trường hợp Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề trách nhiệm xã hội của tổ chức khoa học và
công nghệ.
8


- Nhận diện trách nhiệm xã hội của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
- Phân tích ảnh hưởng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với hiệu quả
hoạt động của tổ chức nói chung, đặc biệt đối với hoạt động khoa học và công nghệ
của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
4. Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi về nội dung:
Nghiên cứu thực trạng trách nhiệm xã hội của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn và
tác động của việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với hoạt động của Nhà trường, đặc
biệt là hoạt động khoa học và công nghệ.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2003 – 2010.
5. Mẫu khảo sát.
- Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
Luận văn đã tiến hành khảo sát việc thực hiện trách nhiệm xã hội trên các mặt
hoạt động: đào tạo, nghiên cứu khoa học, công tác hậu cần, hành chính và các chính
sách đối với cán bộ, học viên của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
Luận văn tiến hành khảo sát đối với nhóm cán bộ quản lý đào tạo, quản lý khoa

học và công nghệ, giảng viên, học viên của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
6. Vấn đề nghiên cứu.
- Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn thực hiện trách nhiệm xã hội như thế nào?
- Việc thực hiện trách nhiệm xã hội ảnh hưởng đến hiệu quả các hoạt động nói
chung đặc biệt là hoạt động khoa học và công nghệ của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn
như thế nào?
7. Giả thuyết nghiên cứu.
- Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn luôn quan tâm và cố gắng đáp ứng tốt nhất
những nhu cầu, quyền lợi chính đáng của các bên liên quan, luôn sử dụng hiệu quả các
nguồn lực để đạt kết quả cao nhất trong các hoạt động, tích cực tham gia phát triển
cộng đồng và góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội.
- Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội đã tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động
của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn, làm cho lực lượng cán bộ, nhân viên thêm yêu
nghề và gắn bó với đơn vị, thực hiện nhiệm vụ tốt hơn, trong đó có hoạt động khoa
học và công nghệ và tạo được niềm tin tưởng, mong muốn hợp tác của các bên liên
quan.
8. Phương pháp chứng minh luận điểm.

9


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phân tích, thống kê, tổng hợp tài liệu sơ
cấp và tài liệu thứ cấp (kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đi trước) có liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra thực tế: Tác giả luận văn tìm hiểu thực trạng thực hiện
trách nhiệm xã hội tại Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn, thu thập, thống kê, tổng hợp và
xử lý các số liệu liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của Đại học kỹ thuật
Lê Quý Đôn cũng như những tác động của việc thực hiện này đối với hoạt động của
Nhà trường.
- Phương pháp phỏng vấn: Để thu thập thông tin định tính và hiểu sâu hơn về

quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn cũng như
những ảnh hưởng của nó đến hoạt động của Nhà trường đặc biệt là hoạt động khoa học
và công nghệ, tác giả luận văn đã tiến hành phỏng vấn sâu cán bộ quản lý và cán bộ
nghiên cứu của Nhà trường cũng như các bên có liên quan đến các quyết định và hoạt
động của Nhà trường.
Yêu cầu của phỏng vấn sâu: Mỗi cuộc phỏng vấn sâu đều có bảng hỏi phát
trước cho từng đối tượng. Tác giả luận văn trực tiếp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp so sánh: Tác giả tiến hành so sánh các hoạt động của Đại học
Kỹ thuật Lê Quý Đôn với hoạt động của các tổ chức khác để thấy rõ được việc thực
hiện tốt trách nhiệm xã hội của Nhà trường.
9. Kết cấu của luận văn.
Kết cấu của Luận văn bao gồm các phần sau:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung: gồm có 3 chương:
+ Chương 1: Tổ chức khoa học và công nghệ và vấn đề trách nhiệm xã hội.
+ Chương 2: Trách nhiệm xã hội của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
+ Chương 3: Tác động của việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với hoạt động
của Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn.
- Phần kết luận

10


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. TỔ CHỨC KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ VÀ VẤN ĐỀ
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
1.1. Tổ chức khoa học và công nghệ.
1.1.1. Khái niệm tổ chức.
Xuất phát từ thuật ngữ organon cho nên nhiều khi tổ chức được định nghĩa hết
sức đơn giản.

“Tổ chức là công cụ thực hiện mục tiêu” [45, tr. 1].
Định nghĩa này thật đơn giản nhưng đột phá vào sự thần bí của tổ chức vốn tồn
tại nhiều thập kỷ, với sự kín đáo, kém cởi mở tới mức công việc tổ chức như là việc
riêng của ai đó chứ không phải việc chung của cộng đồng, mang đầy sự bí hiểm, ai
nắm được điều bí hiểm đó sẽ làm chủ thực sự.
Theo ngôn ngữ thông thường:
“Tổ chức được xem như tập hợp của nhiều người, nhiều nhóm người nhằm thực
hiện một mục tiêu chung mà nếu chỉ một người hay một nhóm người không thực hiện
được” [45, tr. 1].
Cách hiểu tổ chức như vậy cũng vẫn còn đơn giản và nhiều khi còn gây ra tranh
cãi, đặc biệt trong giới khoa học. Tổ chức là nơi có nhiều cá nhân tập hợp lại, liên kết
lại để cùng nhau thực hiện một mục tiêu chung nào đó. Mục tiêu đó nếu các cá nhân
đứng riêng lẻ thì sẽ không thể thực hiện được. Tổ chức giúp nhân sức mạnh của con
người lên gấp bội để thực hiện những mục tiêu chung cao cả.
Trong khoa học tổ chức thì:
“Tổ chức là một thực thể xã hội do các cá nhân hoặc các nhóm kết hợp để thực
hiện mục tiêu chung, có 3 đặc trưng cơ bản ngang nhau:
- Tổ chức được tạo ra nhằm thực hiện các mục tiêu chung của cộng đồng.
- Có cấu trúc phân công lao động nghĩa là mọi người tham gia tổ chức không
phải đều được nhận việc như nhau mà được giao những việc phù hợp với yêu cầu của
tổ chức, trình độ và năng lực cá nhân. Tổ chức càng phát triển thì phân công lao động
càng triệt để.
- Có một ban quản lý: Ban quản lý có bổn phận đại diện cho cộng đồng với
công việc trong và ngoài tổ chức. Ban quản lý chịu trách nhiệm đảm bảo sự điều phối
và thực hiện mục tiêu của tổ chức”. [45, tr. 1]
Các tổ chức được phân thành 2 loại dựa trên: tính năng động, mềm dẻo hay
cứng nhắc của cơ cấu, của chính sách, thủ tục, phong cách hoạt động, sự kiểm soát và
11



thậm chí cả triết lý và chủ thuyết của chúng. Những tổ chức nào thể hiện chi li, chi tiết
các quyền lực với quan hệ đẳng cấp, những thủ tục làm việc với phương pháp cứng
nhắc thì được liệt vào loại tổ chức cơ học. Những tổ chức có tính thích ứng cao hơn về
cơ cấu của chúng, về các thủ tục, phương pháp và chính sách thì được xếp vào loại tổ
chức hữu cơ. Trong khi những tổ chức được xây dựng trên các nguyên tắc truyền
thống đều rơi vào loại cơ học thì các tổ chức hiện đại thường được hình thành theo lý
thuyết tổ chức hữu cơ. Gần đây với sự phát triển của công nghệ thông tin thì dần hình
thành những loại hình tổ chức mới mà người ta tạm gọi là tổ chức ảo.
1.1.2. Khái niệm tổ chức khoa học và công nghệ.
Tổ chức khoa học và công nghệ có thể được định nghĩa như sau:
“Tổ chức khoa học và công nghệ là tổ chức được thành lập theo quy định của
Luật Khoa học và công nghệ và pháp luật có liên quan để tiến hành hoạt động khoa
học và công nghệ” [45, tr .29].
Để tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ thì các tổ chức khoa học và
công nghệ phải nắm rõ mục tiêu và nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước,
của ngành và đơn vị mình.
Mục tiêu của hoạt động khoa học và công nghệ là xây dựng nền khoa học và
công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản
lý, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng
con người mới, góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động khoa học và công nghệ là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và vận dụng vào thực tế khoa học về xã hội
và nhân văn để xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách,
luật pháp và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần làm giàu kho tàng văn
hóa khoa học của thế giới;
- Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ và sáng tạo công nghệ;
- Tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ và thực hiện chuyển giao công
nghệ tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao.

Hoạt động khoa học và công nghệ phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
- Hoạt động khoa học và công nghệ phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh;

12


- Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ của đất
nước, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới phù hợp
với thực tiễn của đất nước;
- Kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ với khoa
học xã hội và nhân văn, gắn khoa học với công nghệ và công nghệ với giáo dục và đào
tạo;
- Phát huy khả năng lao động và sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân;
- Trung thực, khách quan đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng tạo, dân chủ,
tự chủ.
Trong thực tiễn hiện nay có rất nhiều kiểu phân loại tổ chức khoa học và công
nghệ khác nhau tùy theo tiêu chí, mục tiêu đã định. Thông thường có một số cách phân
loại sau:
- Phân loại theo lĩnh vực khoa học và công nghệ, có thể chia thành các loại sau:
+ Khoa học tự nhiên
+ Khoa học kỹ thuật
+ Khoa học xã hội và nhân văn
+ Khoa học nông nghiệp
+ Khoa học y, dược học
- Phân loại theo các hoạt động khoa học và công nghệ, có 3 hoạt động khoa học
và công nghệ chính đó là: Nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công nghệ và dịch vụ
khoa học và công nghệ, tương ứng với 3 loại hình hoạt động là các loại hình tổ chức
khoa học và công nghệ.
- Phân loại theo chủ thể sở hữu:
+ Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực Nhà nước

+ Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực tư nhân
+ Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực tập thể
+ Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc khu vực đa quốc gia.
- Phân loại theo Luật Khoa học và công nghệ của Việt Nam, có các loại hình tổ
chức khoa học và công nghệ sau:
+ Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ (sau đây gọi chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển);
+ Trường đại học, học viện, trường cao đẳng (sau đây gọi chung là trường
đại học) ;
+ Các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ.
13


Như vậy, chúng ta thấy rằng có thể có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các
tổ chức khoa học và công nghệ nhưng theo cách phân loại của Luật Khoa học và Công
nghệ thì mang tính khái quát và vẫn thể hiện được các hoạt động khoa học và công
nghệ.
Các tổ chức khoa học và công nghệ sẽ thực hiện các hoạt động khoa học và
công nghệ. Đội ngũ nhân lực trong các tổ chức này là những người có trình độ cao,
được đào tạo bài bản, chuyên sâu về lĩnh vực chuyên môn.
Một trong các loại hình tổ chức khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn hiện nay là trường đại học. Đây là một loại hình tổ chức khoa học và
công nghệ đóng góp rất lớn vào sự phát triển của các quốc gia, của xã hội loài người.
Các trường đại học không chỉ góp phần tạo ra nguồn lao động chất lượng cao cho xã
hội ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề mà đó cũng là đầu mối của nhiều công trình
nghiên cứu tạo ra sản phẩm ứng dụng vào thực tiễn để nâng cao đời sống con người.
Đây cũng là loại hình tổ chức khoa học và công nghệ có rất nhiều đặc trưng riêng.
Trường đại học là nơi đào tạo nguồn nhân lực khoa học chất lượng cao cho xã
hội. Nhiệm vụ đào tạo của trường đại học là phải đào tạo chất lượng cao, gắn liền với
nhu cầu thực tiễn của xã hội. Các trường đại học không chỉ đào tạo những con người

giỏi về chuyên môn mà còn phải có phẩm chất đạo đức tốt, những con người vừa
hồng, vừa chuyên.
Như chúng ta đã biết, một trong ba nhiệm vụ chính của các trường đại học là
nghiên cứu khoa học. Điều này đúng ở tất cả các nền giáo dục đại học và được thể
hiện ở chỗ các trường đại học không chỉ là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
mà còn là trung tâm nghiên cứu khoa học, sáng tạo tri thức mới, sử dụng, phát triển và
chuyển giao công nghệ. Trường đại học là nơi tập trung đội ngũ cán bộ trình độ cao
(giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ), giàu tiềm năng chất xám và được trang bị cơ sở vật chất,
thư viện, phòng thí nghiệm hiện đại... để triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học.
Giảng viên đại học đồng thời là nhà nghiên cứu, vừa hoạt động giảng dạy vừa hoạt
động nghiên cứu. Hai hoạt động này có tác dụng tương hỗ với nhau, bổ sung lẫn nhau
tạo nên kết quả tổng hợp là nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng nghiên cứu, xác
định vai trò quan trọng của trường đại học trong phát triển giáo dục, phát triển kinh tế xã hội.
Các nhiệm vụ chủ yếu trong hoạt động khoa học và công nghệ của trường đại
học bao gồm:

14


- Thực hiện các đề tài, dự án thuộc các chương trình khoa học và công nghệ,
các chương trình khoa học xã hội và nhân văn cấp Nhà nước; các đề tài, dự án sản xuất
thử nghiệm độc lập cấp Nhà nước, các đề tài hợp tác với nước ngoài theo Nghị định
thư, các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, các đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp cơ sở và các hoạt động khoa học và công nghệ khác
(thông tin khoa học, sở hữu trí tuệ, hội nghị, hội thảo khoa học, sinh viên nghiên cứu
khoa học...).
- Gắn kết quả nghiên cứu khoa học với đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học;
liên kết giữa các trường đại học, các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp trong việc
phục vụ sản xuất và đời sống.
- Nghiên cứu ứng dụng, triển khai các thành tựu khoa học và công nghệ phục

vụ phát triển giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chú trọng
các ứng dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn, bảo vệ sức khỏe
cộng đồng và phòng chống thiên tai.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ thống giáo
dục đại học Việt Nam đã có những bước phát triển mới cả về lượng và chất, cung cấp
nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các trường đại học đã
có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngành giáo dục và đào tạo và sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn nhiều
trường đại học chưa nghiêm túc trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, chất
lượng đào tạo còn thấp, sản phẩm đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn.
Điều đó đang đặt ra một yêu cầu cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các trường
đại học để sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội.

1.2. Trách nhiệm xã hội.
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm.
Trách nhiệm (responsibility) là một khái niệm rất rộng và được nhiều khoa học
cùng nghiên cứu. Trong thực tế hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về trách nhiệm
tùy theo cách tiếp cận cũng như mục đích sử dụng.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 4, trách nhiệm được hiểu như sau:

15


“Trách nhiệm là khái niệm của ý thức đạo đức và ý thức pháp luật, nói lên
nhân cách con người trong việc thực hiện nghĩa vụ do xã hội đặt ra cho con người”1.
Nội dung vấn đề trách nhiệm đặt ra là: con người hoàn thành và hoàn thành đến
mức độ nào, hoặc không hoàn thành những yêu cầu xã hội đặt ra cho họ. Theo khái
niệm này thì trách nhiệm thuộc về khía cạnh đạo đức và pháp luật. Con người có trách
nhiệm thì phải hoàn thành các nghĩa vụ do xã hội đặt ra. Trách nhiệm cũng thể hiện

nhân cách của con người.
Bên cạnh đó còn có khái niệm khác về trách nhiệm:
“Trách nhiệm là sự tương xứng giữa hành động và nghĩa vụ, là hệ quả của tự
do ý chí của con người, là đặc điểm cho hành động có ý thức của con người”2.
Quyền tự do hành động là nguồn gốc của trách nhiệm. Chỉ có quyền tự do mới
có thể nói lên trách nhiệm của con người. Nếu không có quyền tự do thì không thể có
trách nhiệm. Quyền tự do và trách nhiệm gắn bó với nhau. Nhưng người ta không thể
nói mọi hành vi tự do đều là hành vi có trách nhiệm. Ngược lại, trách nhiệm đòi hỏi
những quy tắc ứng xử. Những qui tắc này phải bị chi phối bởi đức tính thận trọng.
Cách ứng xử thận trọng là đặc điểm của một tổ chức có trách nhiệm. Nhưng đó không
phải là thận trọng tràn lan, làm tê liệt mọi hoạt động, đó là sự thận trọng đối với người
khác, có nghĩa là đối với môi trường bên trong và bên ngoài tổ chức dù đó là môi
trường con người, xã hội, kinh tế, môi sinh hay sinh thái.
Con người ngày càng nhận thức được các quy luật khách quan của tự nhiên, xã
hội thì năng lực chi phối tự nhiên, xã hội càng lớn và trách nhiệm con người đối với
hành vi của mình càng lớn hơn.
Theo Từ điển Triết học (Nxb Mátxcơva, 1986):
“Trách nhiệm là phạm trù đạo đức và luật học phản ánh thái độ đạo đức, pháp
luật của cá nhân đối với xã hội (đối với nhân loại nói chung). Thái độ này biểu thị ở
sự hoàn thành nghĩa vụ đạo đức của mình và các tiêu chuẩn pháp luật”3.
Khái niệm này cũng như khái niệm trách nhiệm được đề cập đến trong từ điển
Bách khoa đều nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức và pháp luật của trách nhiệm. Trách
nhiệm là phải hoàn thành các nghĩa vụ đạo đức và tiêu chuẩn pháp luật. Nếu một cá

1 2

www.vientriethoc.com.vn, Lê Thi, Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức trách nhiệm của
Nhà nước.

3


www.vientriethoc.com.vn, Lê Thi, Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức trách nhiệm của
Nhà nước

16


nhân nào đó không hoàn thành các nghĩa vụ đạo đức hay các tiêu chuẩn pháp luật thì
cá nhân đó chưa thể là người có trách nhiệm được.
Luật học xác định các khái niệm trách nhiệm khác nhau, như trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm tài
chính và trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, v.v., kèm theo đó là những quy
định chặt chẽ về trách nhiệm bồi thường, các mức phạt cao thấp khác nhau nếu vi
phạm. Về mặt pháp lý, việc xem xét trách nhiệm cá nhân phải xuất phát từ sự thống
nhất giữa quyền và nghĩa vụ, quyền càng rộng thì trách nhiệm càng lớn.
Như vậy, chúng ta thấy rằng thực tế có nhiều khái niệm trách nhiệm khác nhau
và cũng có nhiều khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Nhưng tiếp cận theo hướng nào
thì chúng ta thấy rằng một cá nhân, một tổ chức có trách nhiệm thì mọi quyết định,
hành động đều phải phù hợp với các tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức, xã hội và pháp
luật. Trách nhiệm luôn luôn gắn với ý thức của con người và nó thể hiện nhân cách của
con người.
1.2.2. Trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, trách nhiệm tổ chức.
Khi nói đến trách nhiệm, chúng ta thấy có trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm
tập thể, trách nhiệm tổ chức.
Các cá nhân khi tham gia vào các nhóm, các tổ chức sẽ được phân công những
công việc nhất định. Các cá nhân này phải luôn luôn có tinh thần trách nhiệm trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ và chịu trách nhiệm đối với những kết quả do hành động
của mình gây ra. Các cá nhân có trách nhiệm là khi họ thực hiện các hành động vì lợi
ích của mình thì họ cũng luôn chú ý để hành động đó không xâm phạm đến quyền lợi
của người khác, của tổ chức. Khi các cá nhân đều có trách nhiệm thì các công việc đều

được hoàn thành một cách tốt nhất và an toàn nhất. Khi đó mọi cá nhân, mọi tổ chức
và cả xã hội sẽ luôn được đảm bảo an toàn. Trách nhiệm cá nhân là cơ sở, là tiền đề
cho sự phát triển bền vững.
Trách nhiệm cá nhân đề cập đến trách nhiệm của nhà quản lý các tổ chức và
các cá nhân là những thành viên của các tổ chức ấy. Mỗi người trong tổ chức, từ nhà
quản lý cho đến người nhân viên nhỏ nhất, đều có trách nhiệm giữ đúng quy trình công
việc, thực hiện tốt công việc của mình để công đoạn của mình sẽ đóng góp vào sự an
toàn cho người khác, cho tổ chức, cho xã hội. Khi tất cả các cá nhân trong tổ chức đều
có trách nhiệm thì sẽ giúp chế ngự rủi ro và đó sẽ là tiền đề cho sự phát triển vững
mạnh của tổ chức.

17


Trách nhiệm của nhóm là một hình thức trách nhiệm tập thể lạc hậu, từ lâu đời.
Trách nhiệm của nhóm là “chỉ một tình hình trong đó các thành viên của một nhóm
chịu hình phạt vì lỗi của một người”[50, tr.202].
Khái niệm này về mặt lịch sử mà nói là loại hình cổ nhất. Nó đã tồn tại dưới
thời Cổ đại, dưới tên gọi: “hòa bình kiểu Macédoine”: nếu một người sống ở thành phố
Athens bị kết án vì tội giết người mà nhận được sự trợ giúp trong một thành phố
Macédoine, thành phố Athens có thể bắt tất cả người dân Macédoine đang ở trong
thành phố Athens và trừng phạt họ. Việc phải trả tiền phạt hộ người khác không bị coi
như bất công bởi vì nhóm có quyền lực khá lớn đối với các thành viên của nhóm.
Người ta biện hộ cho loại hình trách nhiệm này thông qua một “quan niệm hữu cơ về
trách nhiệm”: một thành phố có khả năng thống nhất và liên tục như một cơ thể sống.
Vì vậy nó không ngừng chịu trách nhiệm và kế tục những tinh hoa của mọi hành động
đã cùng nhau hoàn thành trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi đề cập đến trách nhiệm tập thể chúng ta
thường hay đề cập đến trách nhiệm của tổ chức.
“Trách nhiệm của tổ chức là việc truy cứu trách nhiệm không nhằm vào các

thành viên của tổ chức mà chính bản thân tổ chức đó (cơ quan nhà nước, tổ chức quân
sự, doanh nghiệp,…) được quan niệm như có sự tồn tại khác biệt với các thành viên
của nó”. [50, tr.206]
Trách nhiệm của tổ chức đòi hỏi một tổ chức có thể chịu trách nhiệm về những
hành vi diễn ra nhân danh tổ chức. Điều đó đòi hỏi tổ chức là một pháp nhân hay một
đoàn thể. Tổ chức hoạch định các chính sách chung làm cơ sở cho một số hoạt động cụ
thể. Tổ chức hành động theo lợi ích riêng của mình độc lập với lợi ích riêng của các
nhà quản lý. Các cá nhân chỉ là nơi chứa đựng các lý do hành động và chỉ là người
thừa hành. Chính tổ chức là người chịu trách nhiệm về tinh thần của hành động chứ
không phải là người thừa hành. Mỗi tổ chức được coi như một cơ thể sống. Mọi cơ thể
sống đều có khả năng nhận biết mình “khả năng nhận thức được vị trí của mình trong
tương quan với thế giới xung quanh trong lĩnh vực lòng tin và giá trị. Như vậy, một tổ
chức sống luôn luôn tự hỏi về quan hệ giữa hệ thống giá trị của mình và hệ thống giá
trị của thế giới bên ngoài. Tổ chức này được tạo nên từ những cơ thể sống khác. Chất
gắn kết tổ chức này chính là văn hóa tổ chức bao gồm toàn bộ các giá trị, lòng tin,
cách ứng xử, tập tục là tài sản chung của tất cả các thành viên của tổ chức. Nó tạo ra
trách nhiệm tập thể nhưng trách nhiệm đó có nguy cơ làm cho các thành viên trong tổ
chức rũ bỏ trách nhiệm của mình với tư cách là chủ thể. Chính vì vậy trong mỗi tổ
18


chức, bên cạnh trách nhiệm tập thể thì cũng cần quy định rõ ràng trách nhiệm cá nhân
của từng thành viên trong các hoạt động để mọi người luôn luôn có tinh thần, trách
nhiệm trong công việc của mình.
1.2.3. Khái niệm trách nhiệm xã hội.
Trên thế giới, thuật ngữ trách nhiệm xã hội được sử dụng rộng rãi vào đầu
những năm 1970, mặc dù các khía cạnh khác nhau của trách nhiệm xã hội liên quan
đến hành động của các tổ chức và các chính phủ đã có từ khá lâu vào khoảng những
năm cuối thế kỷ 19, và thậm chí trong một số trường hợp còn trước đó.
Trước đây, trách nhiệm xã hội được đề cập tập trung chủ yếu vào hoạt động

kinh doanh. Đối với mọi người, thuật ngữ "trách nhiệm xã hội doanh
nghiệp"(Corporate Social Responsibility - CSR) quen thuộc hơn là thuật ngữ "trách
nhiệm xã hội" (Social Responsibility). Trách nhiệm xã hội được áp dụng cho tất cả các
tổ chức nổi lên khi các loại hình tổ chức khác nhau nhận ra rằng họ cũng phải có trách
nhiệm góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội. Các yếu tố trách nhiệm xã hội
phản ánh kỳ vọng của xã hội tại một thời điểm cụ thể, và do đó nó có khả năng thay
đổi.
Trước hết chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu một số khái niệm trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có thể được định nghĩa ngắn gọn
như:
“Một sự cam kết của công ty trong ứng xử phù hợp với lợi ích của xã hội trong
các hoạt động liên quan đến lợi ích của khách hàng, nhà cung ứng, nhân viên, cổ
đông, cộng đồng, môi trường”4.
Theo đó, trách nhiệm xã hội được coi là một phạm trù của đạo đức kinh doanh,
có liên quan đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được
coi là có trách nhiệm xã hội thì nó phải luôn coi trọng lợi ích của những người liên
quan và của toàn xã hội. Mọi hoạt động của nó đều phải được cân nhắc kỹ lưỡng, phù
hợp với lợi ích của các bên liên quan cả trong doanh nghiệp (nhân viên, cổ đông) và
ngoài doanh nghiệp (nhà cung ứng, khách hàng, cộng đồng, môi trường). Doanh
nghiệp không chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà phải luôn luôn đặt lợi ích của
mình bên cạnh lợi ích của các bên liên quan, phải làm sao để đáp ứng được lợi ích của
tất cả các bên hay nói một cách khác là các bên luôn luôn cùng nhau chia sẻ lợi ích.

4

www.dddn.com.vn, Nguyễn Diệp, Trách nhiệm xã hội – Công cụ phát triển bền vững của doanh nghiệp
28/3/2010.

19



Doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội sẽ không bao giờ vì lợi ích của bản thân mà chèn
ép, bỏ qua hay lấy đi lợi ích của các bên liên quan khác. Khi thực hiện trách nhiệm xã
hội tốt, doanh nghiệp mới có thể phát triển ổn định, lâu dài và góp phần vào sự phát
triển bền vững của xã hội.
“Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là phương pháp tiến hành tự nguyện có tầm
nhìn về phát triển bền vững, kết hợp xã hội và khả năng cạnh tranh”5.
Ở khái niệm này, trách nhiệm xã hội bao gồm những tác động liên quan đến xã
hội, môi trường và kinh tế. Trách nhiệm xã hội được các doanh nhiệp thực hiện tự
nguyện để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình cũng như đóng góp vào sự phát
triển bền vững của doanh nghiệp và toàn xã hội nói chung. Theo khái niệm này thì
trách nhiệm xã hội mang tính chất tự nguyện. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, khi
xét trách nhiệm xã hội ở khía cạnh luật pháp thì trách nhiệm xã hội không chỉ dừng lại
ở mức độ tự nguyện nữa mà nó bao gồm cả việc bắt buộc tuân theo những quy định
của pháp luật hiện hành và tiêu chuẩn quốc tế.
Thực tế có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
và một trong các định nghĩa có tính khái quát và được sử dụng phổ biến nhất hiện nay
là định nghĩa do Hội đồng kinh doanh thế giới về Phát triển bền vững (World Business
Council for Sustainable Development) đưa ra:
“Trách nhiệm xã hội là cam kết của công ty đóng góp cho việc phát triển kinh
tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng giới,
an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân
viên, phát triển cộng đồng… theo cách có lợi cho cả công ty cũng như phát triển
chung của xã hội”6.
Khái quát lên, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự cam kết của doanh
nghiệp đó hành động vì sự phát triển bền vững của xã hội, luôn chăm lo nâng cao đời
sống của người lao động, gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội. Một doanh
nghiệp có trách nhiệm xã hội không chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế mà phải
đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội bao gồm cả các khía cạnh tinh thần, văn
hóa, xã hội,... Doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội phải tuân thủ theo các chuẩn mực

được quy định trong các lĩnh vực cụ thể: về bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, an toàn
lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên,
5

www.vietnamforumcsr.net, Diễn đàn trách nhiệm xã hội Việt Nam, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp:
công cụ tạo dựng lợi thế cạnh tranh, 01/01/2007
6
www.vientriethoc.com.vn, Trần Anh Phương, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận dụng ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí triết học số 8 năm 2009.

20


phát triển cộng đồng… Trách nhiệm xã hội nó cũng có khía cạnh bắt buộc bên cạnh sự
tự nguyện của doanh nghiệp đó là việc tuân thủ các tiêu chuẩn, quy định của luật pháp
hiện hành và các tiêu chuẩn quốc tế.
Cụ thể hơn, chúng ta có thể hiểu một doanh nghiệp hiện đại chỉ được xem là có
trách nhiệm xã hội khi:
- Doanh nghiệp đó phải đảm bảo hoạt động của mình không gây ra những tác
hại đối với môi trường sinh thái, tức là phải thể hiện sự thân thiện với môi trường
trong quá trình sản xuất, hoạt động của mình. Đây là một tiêu chí rất quan trọng đối
với người tiêu dùng châu Âu hiện nay. Họ tẩy chay những sản phẩm mà họ cho là có
ảnh hưởng tới môi trường sinh thái như đồ gỗ chẳng hạn vì gỗ chắc chắn được lấy từ
rừng, mà phá rừng để lấy gỗ tức là đã làm nguy hại đến môi trường sinh thái của địa
phương và toàn cầu.
- Doanh nghiệp đó phải biết quan tâm đến người lao động, người làm công cho
mình không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần. Buộc người lao động làm
việc đến kiệt sức hoặc không có giải pháp giúp họ tái tạo sức lao động của mình là
điều hoàn toàn xa lạ với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp đó phải tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ, tức là không được

phân biệt đối xử về mặt giới tính trong tuyển dụng lao động và trả lương mà phải dựa
trên sự công bằng về năng lực của mỗi người.
- Doanh nghiệp đó không được phân biệt đối xử về mặt sắc tộc, không được
phân biệt đối xử giữa người bình thường và người bị khiếm khuyết về mặt cơ thể hoặc
quá khứ của họ, tức là tổ chức không được từ chối hoặc trả lương thấp vì lý do sắc tộc
hoặc vì lý do khiếm khuyết hay lành lặn về mặt cơ thể hay quá khứ của người lao
động.
- Doanh nghiệp đó phải cung cấp những sản phẩm có chất lượng tốt, không gây
tổn hại đến sức khỏe người tiêu dùng. Những doanh nghiệp chỉ vì lợi nhuận mà bất
chấp sức khỏe của người tiêu dùng là những doanh nghiệp không có trách nhiệm xã
hội.
- Doanh nghiệp đó phải biết dành một phần lợi nhuận của mình đóng góp cho
các hoạt động trợ giúp cộng đồng, bởi tổ chức luôn tồn tại trong lòng một cộng đồng
nào đó nên không thể chỉ biết có bản thân mình.
- Doanh nghiệp đó còn phải tham gia việc kiến tạo hòa bình và an ninh của
quốc gia cũng như thế giới, tức doanh nghiệp không được dùng một phần doanh thu

21


của mình để tài trợ các cuộc chiến tranh hoặc các hoạt động gây mất an ninh trật tự tại
địa phương cũng như trên thế giới.
Như vậy chúng ta thấy rằng có khá nhiều khái niệm khác nhau về trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp. Các khái niệm có thể được diễn tả khác nhau nhưng về bản
chất chúng đều nhấn mạnh đến việc các doanh nghiệp phải quan tâm, chú ý đến những
tác động của những quyết định và hành vi của mình đối với các bên liên quan, môi
trường và xã hội. Các doanh nghiệp phải làm sao để phát huy các tác động tích cực và
giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực từ những hoạt động của mình đối với xã hội.
Bên cạnh khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được đề cập đến khá
nhiều như vậy thì khái niệm trách nhiệm xã hội nói chung dùng cho mọi loại hình tổ

chức thì mới được đề cập đến khá ít. Một khái niệm chính thống và chuẩn mực nhất về
trách nhiệm xã hội mới được đưa ra trong ISO 26000 ban hành ngày 1/11/2010.
ISO 26000:2010 đã đưa ra một hướng dẫn cụ thể hơn về trách nhiệm xã hội cho
mọi loại hình tổ chức ở tất cả các lĩnh vực với những quy mô khác nhau. Theo tiêu
chuẩn quốc tế này thì trách nhiệm xã hội được định nghĩa như sau:
“Trách nhiệm xã hội của tổ chức là trách nhiệm của tổ chức đó đối với những
tác động của các quyết định và hoạt động của nó đối với xã hội và môi trường, thông
qua hành vi minh bạch và có đạo đức mà:
- Góp phần vào sự phát triển bền vững, bao gồm cả sức khỏe và phúc lợi xã
hội;
- Có tính đến sự mong đợi của các bên liên quan;
- Phù hợp với luật pháp hiện hành và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế của hành
vi ;
- Được tích hợp trong tổ chức và thực hành trong các mối quan hệ của nó”.
[37, pg. 3]
Trong khái niệm về trách nhiệm xã hội này chúng ta cần lưu ý đến một số thuật
ngữ:
Môi trường là môi trường tự nhiên xung quanh một tổ chức hoạt động, bao gồm
cả không khí, nước, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, hệ thực vật, động vật, con người,
không gian bên ngoài và mối quan hệ của nó. Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay
thì môi trường của tổ chức kéo dài từ bên trong tổ chức ra hệ thống toàn cầu.
Hành vi đạo đức là hành vi theo các nguyên tắc được cho là đúng đắn trong
từng bối cảnh, tình hình cụ thể và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế của hành vi.

22


Minh bạch là sự cởi mở về các quyết định và hoạt động có ảnh hưởng đến xã
hội, kinh tế và môi trường, và sẵn sàng thảo luận về những vấn đề này một cách rõ
ràng, chính xác, kịp thời, trung thực và đầy đủ.

Tác động của một tổ chức là tác động thay đổi tích cực hoặc tiêu cực cho xã
hội, kinh tế và môi trường từ các quyết định và hoạt động trong quá khứ và hiện tại
của một tổ chức.
Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không ảnh
hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Phát triển bền vững là
tổng hợp các mục tiêu về một cuộc sống có chất lượng cao, sức khỏe, sự thịnh vượng
với công bằng xã hội và duy trì năng lực của trái đất để hỗ trợ cuộc sống trong sự đa
dạng của nó. Những mục tiêu xã hội, kinh tế, môi trường phụ thuộc lẫn nhau và tăng
cường cho nhau.
Các bên liên quan là cá nhân hoặc nhóm có quan tâm đến bất kỳ một quyết
định hoặc hoạt động nào của một tổ chức. Tổ chức xác định và cam kết với các bên
liên quan là nền tảng cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội. Một tổ chức nên xác định
xem ai có quan tâm trong các quyết định và hoạt động của mình để có thể hiểu những
tác động có thể xảy ra và làm thế nào để giải quyết.
Như vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội trên đã khái quát cho mọi loại hình tổ
chức từ tổ chức công cho đến tổ chức tư, từ tổ chức doanh nghiệp cho đến các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Một tổ chức có trách nhiệm xã hội phải có những
hành vi minh bạch và có đạo đức. Những quyết định và hành vi của tổ chức phải luôn
luôn xem xét đến những tác động có thể gây ra đối với những bên liên quan cả trong
và ngoài tổ chức, đến môi trường và xã hội. Các tổ chức phải làm sao để những tác
động của mình ảnh hưởng tích cực đến những yếu tố liên quan và hạn chế tối đa những
tác động tiêu cực. Trách nhiệm xã hội của tổ chức được tích hợp trong toàn bộ tổ chức
và được thực hiện trong mọi mối quan hệ của nó. Một tổ chức có trách nhiệm xã hội
luôn luôn đặt lợi ích của các bên liên quan bên cạnh lợi ích của mình và sẵn sàng chia
sẻ lợi ích.
Trách nhiệm xã hội có những phần bắt buộc phải tuân theo những quy định của
pháp luật, của tiêu chuẩn quốc tế và những khía cạnh thể hiện sự tự nguyện của các tổ
chức như việc làm từ thiện hay đóng góp phúc lợi xã hội. Những khía cạnh trách
nhiệm xã hội mang tính chất bắt buộc thì các tổ chức phải có trách nhiệm giải trình với
cơ quan chủ quản, cơ quan pháp luật và các bên liên quan. Những khía cạnh thể hiện


23


×