Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NHCT ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.23 KB, 11 trang )

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NHCT ĐÀ NẴNG:
1. Quá trình thành lập NHCTVN chi nhánh TP Đà Nẵng:
Quá trình thành lập:
NHCTVN chi nhánh TP Đà Nẵng được tách ra từ chi nhánh NHCT tỉnh Quảng Nam Đà
Nẵng, chính thức hoạt động từ 01/01/1997 5 theo Quyết định số 14/ NHCT- QĐ ngày 17/12/1996
của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, trên cơ sở chia tách địa giới hành chính của Nhà nước thành
hai đơn vị là tỉnh Quảng Nam và TP Đà Nẵng. Chi nhánh NHCT Đà Nẵng là đơn vị thành viên của
NHCT Việt Nam. Tiền thân của NHCT Đà Nẵng sau 1975 là NHNN TP Đà Nẵng. Từ tháng
07/1988 đến nay, sau khi hệ thống NHVN chuyển từ một cấp quản lý sang hai cấp (Hệ thống
NHNN và Hệ thống NHTM) thì đổi thành NHCT tỉnh QNĐN (nay là NHCT Đà Nẵng).
Quá trình hoạt động kinh doanh cho đến nay đã phát triển lớn mạnh về nhiều mặt, số lượng
khách hàng giao dịch ngày càng tăng, doanh số huy động vốn, cho vay ngày càng lớn, chất lượng
hoạt động kinh doanh ngày càng được nâng lên và đã mở ra nhiều hình thức huy động, cho vay
phong phú, đa dạng các dịch vụ ngân hàng để đáp ứng phục vụ ngày càng tốt hơn cho quá trình
phát triển kinh tế và hoạt động kinh doanh. Từ những thành quả nổi bật đã được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương lao động hạng ba.
Hiện nay cùng với sự phát triển chung, chi nhánh NHCT Đà Nẵng từng bước đổi mới, xây
dựng phong cách giao dịch của người cán bộ NHCT, đổi mới hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
chuẩn bị các điều kiện để hội nhập.
2. Về cơ cấu tổ chức:
Tổ chức bộ máy quản lý tốt sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả kinh
doanh của Chi nhánh. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Chi nhánh được thể hiện qua sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA CHI NHÁNH NHCT ĐÀ NẴNG


3. Nhiệm vụ của Ban Giám đốc và các phòng ban:
- Ban Giám đốc Chi nhánh do NHCT Việt Nam quyết định bổ nhiệm theo Quy chế bổ
nhiệm và bổ nhiệm lại của Nhà nước.
* Giám đốc Chi nhánh chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, điều hành
chung toàn bộ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh từ Hội sở chính đến các chi nhánh trực thuộc
Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn. Trực tiếp chỉ đạo các phòng chức năng Cân đối tổng hợp, Tổ chức cán


bộ, Kiểm tra nội bộ, Phòng giao dịch Hải Châu, Phòng thông tin điện toán.
* Các Phó giám đốc: Thay mặt giám đốc, chỉ đạo điều hành hoạt động về mặt kinh doanh
(Phòng Tín dụng), các phòng chuyên đề Tiền tệ Kho quỹ, Quản lý tiền gửi dân cư, Hành chính, Kế
toán tài chính. Chịu trách nhiệm cá nhân trước giám đốc và Pháp luật về những công việc do mình
giải quyết, chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của Chi nhánh khi được Giám đốc uỷ quyền.
- Các phòng chức năng:
1> Phòng kinh doanh đối ngoại: Thực hiện chức năng kinh doanh trên các lĩnh vực Ngoại
hối như mở L/C, cho vay, thu đổi ngoại tệ, chuyển tiền nhanh và các dịch vụ khác...
2> Phòng quản lý tiền gửi dân cư: Thực hiện nghiệp vụ huy động vốn trong dân cư như
Tiết kiệm, Trái phiếu, các dịch vụ khác...
3> Phòng Tín dụng: Thực hiện chức năng kinh doanh như cho vay cá thể, các tổ chức kinh
tế Quốc doanh, ngoài Quốc doanh.
4> Phòng cân đối tổng hợp: Tổng hợp số liệu báo cáo thống kê, cân đối vốn kinh doanh,
xây dựng chiến lược kinh doanh, tiếp thị, khai thác thị trường, phát triển các dịch vụ ngân hàng.
5> Phòng kế toán tài chính: Thực hiện hạch toán kế toán theo chế độ quy định và các dịch
vụ khác...
6> Phòng tổ chức cán bộ: Thực hiện các chính sách chế độ và các quyền lợi cho người lao
động, tham mưu cho ban Giám đốc về quy hoạch, đề bạt bổ nhiệm, đào tạo bồi dưỡng, điều động
cán bộ, tổ chức bộ máy mạng lưới của Chi nhánh.
7> Phòng Tiền tệ Kho quỹ: Thực hiện các nghiệp vụ về kho quỹ ngân hàng, thu chi tiền
cho khách hàng.
8> Phòng kiểm tra nội bộ: Thực hiện chức năng kiểm tra kiểm soát các hoạt động của nội
bộ NHCT.
9> Phòng thông tin Điện toán: Cập nhật lưu trữ số liệu của chi nhánh, triển khai các
chương trình điện tử quản lý trên mạng của hệ thống và các chương trình ứng dụng có liên quan
đến khách hàng.
10> Phòng hành chính: Thực hiện chức năng hổ trợ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh,
mua sắm dụng cụ, trang thiết bị, sắp xếp, tổ chức hội họp, hội nghị, tiếp khách, quan hệ đối nội,
đối ngoại, quản lý, bảo vệ tài sản của ngân hàng...
11> Phòng giao dich Hải Châu: Là đơn vị phụ thuộc, thực hiện chức năng kinh doanh của

ngân hàng như cho vay, thu tiền gửi, và các dịch vụ khác... trong phạm vi uỷ quyền của Giám đốc
Chi nhánh.
12> Các chi nhánh trực thuộc: Thực hiện chức năng kinh doanh của một ngân hàng, hạch
toán phụ thuộc.
II. MẠNG LƯỚI HOẠT ĐỘNG: gồm có:
- Hội sở chính tại 172 Nguyễn Văn Linh Quận Thanh Khê Đà Nẵng
- Hai Chi nhánh trực thuộc là NHCT Liên Chiểu tại Quận Liên Chiểu Đà Nẵng, NHCT
Ngũ Hành Sơn đóng tại Quận Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng.
- Một phòng giao dịch là Phòng giao dịch Hải Châu tại 36 Trần Quốc Toản Đà Nẵng.
Ngoài ra còn có Các Tổ công tác làm nghiệp vụ cho vay huy động vốn, tiết kiệm, chuyển
tiền nằm rải rác trên địa bàn TP.
III. TÌNH HÌNH NHÂN SỰ:
- Số lượng nhân viên : 300
+ Trình độ chuyên môn:
. Sau đại học : 07
. Đại học : 200
. Cao đẳng, cao cấp NH : 03
. Trung học : 50
IV. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TÍN DỤNG
CỦA CHI NHÁNH TRONG HAI NĂM (2002-2003)
Trong những năm qua cùng với sự đổi mới của hệ thống NHCT Việt Nam, chi nhánh NHCT
Đà Nẵng đã có một quá trình phấn đấu và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
1. Tình hình nguồn vốn, huy động vốn.
a) Tình hình nguồn vốn.
Như chúng ta đã biết, trong bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào của bất kỳ một doanh nghiệp
nào, nguồn vốn luôn là yếu tố quyết định quy mô hoạt động, doanh thu và hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với ngân hàng cũng vậy, nguồn vốn là yếu tố quyết định đến quy mô hoạt động của ngân
hàng, quyết định đầu ra của mọi lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể,
từng ngân hàng mà nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn có khác nhau.
Nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn của Chi nhánh NHCT Đà Nẵng được thể hiện qua bảng sau :

Bảng 1 : BẢNG CƠ CẤU NGUỒN VỐN
Đvt: triệu đồng
Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
ST TT% ST TT% ST TL%
1. Vốn huy động
2. Thanh toán vốn
3. Tài sản nợ khác
994.377
497.039
190.059
59,14
29,56
11,30
1.273.011
452.305
260.506
64,11
22,77
13,12
278.634
-44.734
70.447
28,02
-9,00
37,07
Tổng 1.681.475 100 1.985.822 100 304.347 18,10
Qua bảng trên, ta thấy nguồn vốn của ngân hàng đã có sự biến động lớn về cả số tuyệt đối
lẫn số tương đối. Nếu năm 2002, nguồn vốn của ngân hàng là 1.681.475 triệu đồng, thì đến cuối
năm 2003 nguồn vốn đã đạt 1.985.822 triệu đồng. Về tuyệt đối, nguồn vốn ngân hàng đã tăng lên
một lượng là 304.347 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng 18,10% so với năm 2002. Điều này đã

chứng tỏ quy mô hoạt động của ngân hàng ngày càng được mở rộng, dấu hiệu của sự phát triển lớn
mạnh hơn trong tương lai .
Nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ 3 nguồn, đó là vốn huy động, thanh toán vốn
và tài sản nợ khác. Với 994.377 triệu đồng năm 2002, chiếm 59,14% trong tổng nguồn vốn, vốn
huy động là nguồn chiếm tỷ trọng cao nhất tổng nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh - đây là
nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của mỗi ngân hàng. Năm 2003, Nguồn này tăng lên đến
1.273.011 triệu đồng chiếm 64,11% trong tổng nguồn. Với tỉ trọng cao và ngày càng tăng như vậy
chứng tỏ ngân hàng ngày càng trở nên độc lập hơn, tự chủ hơn, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn
vốn từ Trung Ương. Vốn huy động qua hai năm về tuyệt đối đã tăng một giá trị là 278.634 triệu
đồng tức tăng 28,02% so với năm 2002. Đây là một điều kiện để mở rộng cho vay đáp ứng nhu
cầu vốn của các đơn vị, cá nhân mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu, từ đó tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Tài sản nợ khác là nguồn chiếm tỷ trọng thấp nhất nhưng lại có tốc độ tăng cao nhất: Năm
2002 tài sản nợ khác đạt 190.059 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 11,30% tổng nguồn; Năm 2003 nguồn
này đạt 260.506 triệu đồng chiếm tỷ trọng 13,12% so với tổng nguồn. Như vậy, so với năm 2002
nguồn này đã tăng với tốc độ 37,07%.
Năm 2002, thanh toán vốn có giá trị 497.039 triệu đồng chiếm 29,56% tổng nguồn; đến
cuối năm 2003, thanh toán vốn còn lại 452.305 triệu đồng tương ứng 22,77% so với tổng nguồn.
Như vậy, thanh toán vốn đã giảm 44.734 triệu đồng tức đã giảm 9,00%. Thanh toán vốn bao gồm
hai bộ phận: thanh toán với TCTD khác và tài khoản điều chuyển vốn.
Tóm lại, nguồn vốn ngân hàng ngày càng tăng là một dấu hiệu đáng mừng, thể hiện được sự
lớn mạnh của ngân hàng cả về thế và lực. Do đó cần tiếp tục phát huy hơn nữa.
b) Tình hình huy động vốn.
Việc thu hút vốn đầu vào đối với các ngân hàng là rất quan trọng. Các ngân hàng đã tích cực
phát huy những nguồn tiền gửi có lãi suất thấp để giảm nhẹ chi phí trả lãi một cách hợp lý để giữ
và thu hút được khách hàng. Trong năm qua, nguồn vốn huy động tăng và chiếm 64,11% trên tổng
nguồn, đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô đầu tư tín dụng. Để thấy rõ nguồn vốn huy động trong
năm qua, chúng ta xem xét nguồn vốn này qua bảng sau:
Bảng 2 : TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN
Đvt: Triệu đồng

Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
ST TT% ST TT% ST TL%
1. Tiền gửi doanh nghiệp 485.790 48,85 592.664 46,56 106.874 22,00
2. Tiền gửi dân cư 481.615 48,43 649.949 51,06 168.334 34,95
- Tiền gửi tiết kiệm 463.178 46,58 631.696 49,62 168.518 36,38
- Phát hành công cụ nợ 18.437 1,85 18.253 1,44 -184 -0,10
3.Tiền gửi của các TCTD 18.313 1,84 21.921 1,72 3.608 19,70
4. Vay TCTD 8.659 0,88 8.477 0,66 -182 -2,1
Tổng 994.377 100 1.273.011 100 278.634 28,02
Qua hai năm, doanh số huy động vốn tăng cao từ 994.377 triệu đồng lên 1.273.011 triệu
đồng, tương ứng với mức tăng 278.634 triệu đồng, tức tăng 28,02%. Sự gia tăng này có sự đóng
góp đáng kể của những bộ phận sau:
Tiền gởi của các doanh nghiệp chủ yếu là tiền gởi không kỳ hạn dùng để thanh toán giữa các
doanh nghiệp với nhau thông qua ngân hàng. Thông qua đó ngân hàng thực hiện việc kiểm soát
hoạt động của doanh nghiệp, đảm bảo an toàn vốn cho vay. Trong năm 2002 tiền gởi doanh nghiệp
là 485.790 triệu đồng, chiếm 48,85% tổng nguồn. Năm 2003 nguồn này đạt 592.664 triệu đồng,
chiếm tỷ trọng 46,56%. Như vậy, so với 2002 thì nguồn này tăng 106.874 triệu đồng tương ứng
với tốc độ tăng là 22,00% góp phần "hạ giá thành" sản phẩm tín dụng, tăng khả năng cạnh tranh về
mặt lãi suất. Có được kết quả như vậy là do ngân hàng đã xác định đây là nguồn vốn quan trọng
với lãi suất huy động thấp nhất, do đó ngân hàng ngày càng có những chính sách thu hút và giữ
khách hàng- ưu tiên khuyến khích khách hàng tham gia thanh toán qua ngân hàng, thực hiện chính
sách ưu tiên thanh toán tín dụng đối với các đơn vị có tiền gởi thường xuyên tại ngân hàng. Tuy
nhiên cũng cần thấy rằng, mặc dù trong năm vừa qua nguồn này đã có tốc độ tăng rất cao
(22,00%) nhưng tỷ trọng so với tổng nguồn huy động thì lại giảm 2,29%. Do vậy, trong thời gian
tới ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt, đưa các sản phẩm
thanh toán mới vào phục vụ.
Tiền gởi dân cư tăng cả về tổng số tiền gửi lẫn tỷ trọng so với tổng nguồn huy động. Nếu
năm 2002, tiền gởi dân cư đạt 481.615 triệu đồng chiếm 48,43% so với tổng nguồn huy động thì
đến năm 2003 đã lên đến 649.949 triệu đồng, chiếm 51,06% tổng nguồn huy động, tăng 34,95%
tương ứng với mức tăng 168.334 triệu đồng so với năm 2002. Việc tiền gởi dân cư tăng là do tiền

gởi tiết kiệm (chiếm trên 96,00% tiền gửi dân cư) tăng lên. Cụ thể: Năm 2002 tiền gửi tiết kiệm là
463.178 triệu đồng, chiếm 46,58% tổng nguồn huy động; Năm 2003 nguồn này đạt 631.696 triệu

×