Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.56 KB, 27 trang )

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 THỰC TRẠNG THU BẢO HIỂM XÃ HỘI KHU VỰC KINH TẾ TƯ
NHÂN TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
3.1.1 Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân tỉnh Thừa
Thiên Huế
Quản lý thu BHXH trước hết phải quản lý sự đóng góp của người sử dụng
lao động. Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng góp BHXH cho người lao
động mà mình thuê mướn. Vì vậy, quản lý thu BHXH trước hết phải quản lý được
số lượng các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh có sử dụng lao động phải đóng
BHXH theo luật định; quản lý được sổ lương tại mỗi doanh nghiệp và quỹ lương
của doanh nghiệp đó. Đồng thời phải quản lý được năng lực tài chính và khả năng
đóng BHXH của các doanh nghiệp. Quản lý tốt các doanh nghiệp sẽ hạn chế sự
trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH của các doanh nghiệp đồng thời nắm được
thực trạng sản xuất kinh doanh của họ (thông qua quỹ lương, thông qua lợi nhuận
của doanh nghiệp…).
Trên địa bàn Thừa Thiên Huế, việc quản lý đối tượng tham gia BHXH luôn
được BHXH tỉnh quan tâm hàng đầu, đặc biệt là đối với khu vực KTTN bởi vì khu
vực này có số đơn vị và số lao động tham gia BHXH rất lớn nhưng cho đến nay
mới chỉ tham gia BHXH được rất ít.
Qua bảng 3.1 cho thấy từ năm 2003 đến nay, số đơn vị tham gia BHXH thuộc
khu vực KTTN tăng nhanh với tốc độ phát triển bình quân đạt 136,25%/năm. Năm
2004 là năm có số tăng cao nhất (159%) so với các năm. Nguyên nhân Nghị định
01/2003/NĐ-CP của Chính phủ đã mở rộng các doanh nghiệp có sử dụng dưới 10
lao động tham gia BHXH bắt buộc. Tính đến năm 2007, số đơn vị KTTN tham gia


BHXH tăng 329 đơn vị, gấp 3,4 lần so với năm 2003, là năm đầu tiên thực hiện Luật
BHXH đối với người lao động.
Bảng 3.1: Số đơn vị khu vực KTTN tham gia BHXH tại Thừa Thiên Huế.
Đơn
Chỉ tiêu



vị

2003

tính
đơn

Số đơn vị đã tham gia
BHXH
Tốc độ phát triển so với
năm trước
Tốc độ phát triển so với
năm 2003

BHXH so với tổng số

2006

2007

219

303

371

466

%


100

159

138

122

126

%

100

159

221

271

340

665

816

919

1.202 1.529


26,83 32,97

30,86 30,47

vị

Tỷ lệ đơn vị tham gia

2005

137

vị

đơn

Tổng số đơn vị KTTN

2004

%

20,60

(Nguồn: BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)
Tỷ lệ đơn vị KTTN tham gia BHXH so với tổng số đơn vị KTTN của Thừa
Thiên Huế ngày càng tăng. Nếu như năm 2003 số đơn vị tham gia chiếm 20.60%
thì đến năm 2007 đã chiếm 30,47%.
1600

1400
1200
1000

Số đơn vị tham gia

800

Tổng số đơn vị

600
400
200
0
2003

2004

2005

2006

2007

đồ: 3.1 Số đơn vị tham gia BHXH các đơn vị KTTN trên địa bàn TT Huế
Bảng 3.2: Số lao động khu vực KTTN tham gia BHXH tại TT Huế.





Đơn vị
tính
lao
động

Chỉ tiêu
Số lao động đã tham gia
Tốc độ phát triển so với năm trước

%

Tốc độ phát triển so với năm 2003

%
lao
Tổng số lao động khu vực KTTN
động
Tỷ lệ lao động tham gia
BHXH so với tổng số lao
%
động KTTN

2003

2004

2005

2006


2007

1.883

2.743

3.731

4.922

7.960

100

146

136

132

162

100

146

198

261


423

14.202 15.066 18.960 22.069

26.739

13.25

18.20

19,71

22.42

29.76

(Nguồn: BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)

Qua bảng 3.2 cho thấy, số lao động khu vực KTTN tham gia BHXH ngày
càng tăng. Tính đến hết năm 2007 có 7.960 lao động bằng 423% so với năm 2003,
tức là tăng gấp 4,23 lần so với năm 2003, đồng thời là năm có tốc độ tăng cao nhất
so với các năm, đánh dấu thành quả năm đầu tiên thực hiện Luật BHXH. Tỷ lệ
người lao động trong các doanh nghiệp khu vực KTTN tham gia BHXH các năm
đều tăng, nếu như năm 2003 chỉ có 13,25% thì đến năm 2007 đã đạt là 29,76%.
Tuy nhiên tỷ lệ lao động tham gia BHXH còn thấp so với tổng số lao động doanh
nghiệp khu vực KTTN. Xem sơ đồ 3.2
30000
25000
20000
Số lao động đã tham gia


15000

Tổng số lao động

10000
5000
0
2003

2004

2005

2006

2007

đồ: 3.2 Số lao động khu vực KTTN đã tham gia BHXH trên địa bàn TT Huế
3.1.2 Doanh số thu bảo hiểm xã hội




Quản lý việc tham gia BHXH của người lao động là một trong những yêu
cầu quan trọng quản lý thu BHXH, mà tập trung là quản lý việc đóng BHXH của
họ. Vì vậy quản lý quỹ BHXH đặt ra nhiệm vụ tiên quyết là phải quản lý được tiền
lương, thu nhập… của người lao động, để từ đó quản lý sự đóng góp BHXH của
họ.
Số phải thu BHXH được tính trên cơ sở quỹ tiền lương người lao động trích

nộp BHXH của doanh nghiệp. Từ năm 2003 đến nay, cùng với việc thực hiện thu
BHYT thì mức thu BHXH, BHYT được tính bằng 23% (20% BHXH, 3% BHYT)
quỹ tiền lương của doanh nghiệp.
Bảng 3.3: Doanh số BHXH theo số phải thu
Đơn vị tính: triệu đồng

Năm

2003
2004
2005
2006
2007
Bình
quân

Kinh tế tư nhân
Tốc độ
Số
phát triển
phải thu
(%)
1.949
100
3.325
171
5.606
169
8.881
158

10.735
121
6.099

155

Toàn tỉnh
Tỷ trọng số phải
Tốc độ
thu khu vực KTTN
Số phải
phát triển trong tổng số phải
thu
(%)
thu (%)
108.085
100
1,80
118.743
109
2,80
161.909
136
3,46
201.672
124
4,40
252.915
125
4,24

168.665

124

3,62

( Nguồn BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)
Cùng với sự phát triển không ngừng cả về số lượng doanh nghiệp và lao động
khu vực KTTN tham gia BHXH ngày càng tăng, số tiền phải thu BHXH ở khu vực
này ngày càng tăng qua các năm, bình quân giai đoạn 2003-2007 đạt gần 6 tỷ 100
triệu/năm chiếm 3,62% so với tổng số phải thu của tỉnh. Tốc độ phát triển so với
năm trước khu vực KTTN bình quân giai đoạn 2003-2007 đạt 155%/năm gấp hơn 2
lần so với tốc độ phát triển số phải thu toàn tỉnh (124%/năm). Năm 2004 là năm có


tốc độ phát triển cao nhất so với các năm. Nguyên nhân do Chính phủ đã mở rộng
phạm vi đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với các doanh nghiệp có sử dụng
dưới 10 lao động. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước bỏi vì hầu
hết các doanh nghiệp khu vực KTTN có quy mô vừa và nhỏ. Năm 2007 là năm đầu
tiên thực hiện Luật BHXH, số phải thu BHXH là 10.735 triệu đồng tăng 121% so
với năm 2006 . Tỷ trọng số phải thu khu vực KTTN so với tổng số phải thu toàn tỉnh
tăng nếu như năm 2003 chỉ chiếm 1,8% trong tổng số phải thu toàn tỉnh thì đến năm
2007 chiếm 4,24%.
Bảng 3.4: Doanh số BHXH theo số thực thu
Đơn vị tính: triệu đồng
Kinh tế tư nhân
Năm

Số thực
thu


2003
2004
2005
2006
2007
Bình quân

Tốc độ
phát triển

1.737
2.775
4.187
7.173
8.733
4.921

(%)
100
160
151
171
122
151

Toàn tỉnh
Số thực
thu
102.573

114.764
150.418
190.813
245.590
160.832

Tỷ trọng số thực

Tốc độ
phát triển
(%)
100
112
131
127
129
125

thu khu vực
KTTN trong tổng
số tiền thực thu
(%)
1,69
2,42
2,78
3,75
3,55
3,05

(Nguồn BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)

Qua bảng 3.5 cho ta thấy số tiền thực thu khu vực KTTN bình quân giai
đoạn 2003-2007 đạt gần 5 tỷ đồng, bằng 3,05% so với tổng số tiền thực thu toàn
tỉnh. Tốc độ phát triển liên hoàn bình quân giai đoạn này đạt 151% trong khi toàn
tỉnh chỉ đạt 125%. Điều này chứng tỏ tiềm năng thu BHXH khu vực KTTN ngày
càng có xu hướng tăng dần.
3.1.3 Doanh số bảo hiểm xã hội thực thu so với kế hoạch


Việc lập kế hoạch thu đóng vai trò rất quan trọng, căn cứ đánh giá hiệu quả
công tác quản lý thu BHXH của ngành BHXH. Có lập kế hoạch thu sát với tình
hình thực tiễn thì công tác thu sẽ thuận lợi, đảm bảo khai thác tối đa tiềm năng.
Ngược lại, công tác thu sẽ trở thành khó khăn do phải chạy theo chỉ tiêu kế hoạch
quá cao; hoặc sẽ bỏ qua những nguồn thu tiềm năng có thể khai thác, làm thất thu
quỹ BHXH. Do vậy, việc lập kế hoạch thu đóng vai trò rất quan trọng trong công
tác quản lý thu, đòi hỏi người làm kế hoạch phải nhạy bén tình hình phát triển kinh
tế đất nước và của địa phương. Trên cơ sở đó chúng ta tiến hành xây dựng kế
hoạch thu mới sát tình hình thực tế địa phương.
Bảng 3.5: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH hàng năm
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Bình quân

Số thực thu
102.573
114.764

150.418
190.813
245.590
160.832

Kế hoạch thu
99.000
114.000
143.500
176.020
236.000
153.704

% KH
103,60
100,67
104,82
108,40
104,06
104,64

(Nguồn BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)
Qua số liệu bảng 3.5 cho thấy bình quân giai đoạn 2003-2007 BHXH tỉnh vượt
4,64% so với kế hoạch BHXH Việt Nam giao. Năm 2006 là năm có tỷ lệ vượt kế hoạch
cao nhất (108,4%), năm 2004 là năm có tỷ lệ vướt thất nhất (100,67%). Điều này cho thấy
hàng năm công tác giao kế hoạch thu của BHXH Việt Nam cho BHXH tỉnh Thừa Thiên
Huế sát với tình hình thực tế của địa phương.
3.1.4 Mức thu bảo hiểm xã hội bình quân một doanh nghiệp và một lao động
Giai đoạn 2003-2006 khi chưa thực hiện Luật BHXH, mỗi năm bình quân
Thừa Thiên Huế có 257 đơn vị với 3.320 lao động tham gia BHXH, số tiền phải

thu BHXH đạt 4.940 triệu đồng. Từ khi thực hiện Luật BHXH năm 2007 có 466


đơn vị với 7.960 lao động và 10.735 triệu đồng. Tính chung cả giai đoạn 20032007 là 299 đơn vị với 4.248 lao động và 6.099 triệu đồng.
So sánh về tốc độ tăng số đơn vị, số lao động và số tiền phải đóng BHXH ta
thấy từ khi bắt đầu thực hiện Luật BHXH, các doanh nghiệp khu vực KTTN ngày
càng có ý thức trong việc tham gia BHXH
Qua bảng 3.6 cho thấy: Bình quân giai đoạn 2003-2007 cứ 1 đơn vị KTTN
có 14 lao động tham gia BHXH và phải nộp số tiền là 16,838 triệu đồng; mỗi một
lao động tăng làm số thu BHXH tăng 1,229 triệu đồng.
Bảng 3.6: Số lao động và số thu BHXH bình quân hàng năm
của khu vực KTTN tại tỉnh Thừa Thiên Huế
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Bình quân

Số lao động
bình quân
1 đơn vị
14
13
12
13
17
14


Số thu BHXH
bình quân 1 đơn vị
(đồng)
13.830.303
14.216.736
16.685.474
20.111.166
19.350.317
16.838.799

Số thu BHXH bình
quân 1 lao động
(đồng)
1.006.241
1.135.058
1.355.052
1.515.897
1.132.820
1.229.014

(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Thừa Thiên Huế)
Như vậy, khi chưa thực hiện Luật BHXH, số đơn vị KTTN hàng năm tăng
chậm hơn nhiều so với khi thực hiện Luật BHXH năm 2007. Tuy nhiên số phải thu
BHXH bình quân 1 đơn vị và bình quân 1 lao động năm 2007 lại giảm so với năm
2006. Nguyên nhân do Luật BHXH có hiệu lực từ tháng 01/2007 đã cụ thể hóa đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc. Còn về số thu BHXH bình quân thấp hơn là do
những lao động mới tham gia tăng nhanh hơn trước trong khi mức trả lương cho
những lao động này bao giờ cũng thấp.
3.1.5 Thu bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân phân theo các huyện thành
phố



Tình hình thu BHXH khu vực KTTN tại các huyện, thành phố Huế sẽ giúp
nhà quản lý quyết định nên tập trung thu BHXH ở các huyện, thành phố nào, đồng
thời phân bố các nguồn lực ở từng huyện, thành phố ra sao đế đảm bảo khai thác
hiệu quả công tác thu.
Bảng 3.7: Kết quả thu BHXH khu vực KTTN tại các huyện,
thành phố năm 2006
Số
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Huyện
Quảng điền
Phong điền
Hương trà
Phú vang
Hương thủy
Phú lộc
Nam đông
A lưới
Huế

Cộng

Số đơn vị
tham gia
BHXH
2
15
25
3
18
15
5
3
285
371

Lao
động
14
166
820
70
465
295
51
34
3.007
4.922

Phải thu

Thực thu
(triệu đồng) (triệu đồng)
24
306
1.277
243
917
784
159
129
5.042
8.881

11
248
1.232
164
807
742
159
129
3.681
7.173

Tỷ lệ
nợ
đọng
(%)
54,16
18,95

3,52
32,51
11,99
5,36
0
0
26,99
19,23

(Nguồn BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)

Số
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Bảng 3.8: Kết quả thu BHXH khu vực KTTN tại các huyện,
thành phố năm 2007
Số đơn vị
Phải thu
Tỷ lệ nợ
Lao
Thực thu

Huyện
tham gia
(triệu
đọng
động
(triệu đồng)
BHXH
đồng)
(%)
Quảng điền
3
22
56
55
1,78
Phong điền
14
170
461
457
0,86
Hương trà
28 1.015
898
844
6,01
Phú vang
4
68
284

213
25
Hương thủy
23
616
1288
1.155
10,32
Phú lộc
16
320
925
881
4,75
Nam đông
5
44
149
149
0
A lưới
6
45
118
118
0
Huế
367 5.660
6.556
4.861

25.85


Cộng

466

7.960

10.735

8.733

18.65

(Nguồn BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)
Qua bảng 3.7 và bảng 3.8 cho thấy thành phố Huế có số đơn vị, số lao động
và số tiền phải thu BHXH lớn nhất, tiếp đến huyện Hương trà, Hương thủy, Phú
lộc. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp khu vực KTTN phân bố không đồng đều
giữa các khu vực, chủ yếu tập trung tại địa bàn thành phố Huế, Hương Thủy,
Hương Trà, Phú Lộc. Các huyện còn lại như Quảng điền, Phú vang, Nam đông, A
lưới có số đơn vị, số lao động khu vực KTTN và số phải thu tham gia BHXH,
BHYT không đáng kể.
Nhìn chung tỷ lệ nợ đọng khu vực KTTN trên địa bàn Thừa Thiên Huế còn
khá cao so với tỷ lệ nợ đọng khu vực KTTN trên cả nước, thành phố Huế là nơi có
số phải thu BHXH lớn nhất nhưng lại chiếm tỷ lệ nợ đọng cũng lớn nhất trên 25%
so với tổng số phải thu, ngoài ra còn có một số huyện như Phú vang, Quảng điền
có số đơn vị và số phải thu BHXH không đáng kể nhưng tỷ lệ nợ đọng cao chiếm
trên 25% so với số phải thu.
Bảng 3.9: Tỷ trọng thu BHXH khu vực KTTN tại các huyện, thành phố

Đơn vị tính: %
Số

Loại hình

TT

Quản lý

1
2
3
4
5
6
7
8
9

Quảng điền
Phong điền
Hương trà
Phú vang
Hương thủy
Phú lộc
Nam đông
A lưới
Huế
Cộng


Đơn
vị
0,53
4,04
6,74
0,80
4,85
4,04
1,35
0,80
76,82
100

Năm 2006
Lao
động
0,28
3,37
16,66
1,42
9,45
5,99
1,04
0,69
61,09
100

Phải

Năm 2007

Đơn
Lao
Phải

thu
0,27
3,44
14,38
2,74
10,32
8,83
1,79
1,45
56,77
100

vị
0,64
3,00
6,00
0,85
4,94
3,43
1,07
1,28
78,75
100

động
0,27

2,13
12,75
0,85
7,74
4,02
0,55
0,56
71,10
100

thu
0,52
4,29
8,36
2,64
11,99
8,62
1,38
1,09
61,07
100


(Nguồn BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)
Qua số liệu bảng 3.9 cho thấy, thành phố Huế có tỷ trọng số đơn vị, số lao
động và số phải thu BHXH lớn nhất trong tổng số thu doanh nghiệp khu vực
KTTN, tiếp theo là 03 huyện Hương thủy, Phú lộc, Hương trà. Các huyện còn lại
có tỷ trọng số phải thu không đáng kể, chẳng hạn như huyện Quảng điền có số đơn
vị, số lao động, số phải thu chiếm chưa đến 1% trong tổng số thu khu vực KTTN.
3.1.6 Tiềm năng thu bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân tại tỉnh Thừa

Thiên Huế
Luật BHXH có hiệu lực từ 1/1/2007, cơ sở pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động khu vực KTTN tham gia BHXH. Hiện nay, Thừa Thiên Huế có
1.529 doanh nghiệp và 5.312 hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác. Căn cứ theo
số đơn vị đăng ký kinh doanh tại Sở kế hoạch và đầu tư từ năm 2003 đến năm 2007,
đối chiếu với với số đơn vị tham gia BHXH tại Thừa Thiên Huế cho thấy, số đơn vị
tham gia BHXH còn rất thấp, bình quân 30% số đơn vị tham gia đóng BHXH. Như
vậy còn khoảng 70% số đơn vị KTTN chưa tham gia BHXH.
Từ số tiền thu BHXH bình quân 1 đơn vị tham gia BHXH tại tỉnh Thừa Thiên
Huế hàng năm và tổng số đơn vị KTTN tại tỉnh Thừa Thiên Huế, ta có thể ước tính
số tiền BHXH có thể thu được hàng năm đối với khu vực KTTN như sau :
Bảng 3.10 : Tiềm năng thu BHXH tại tỉnh Thừa Thiên Huế
Số đơn vị
Năm

KTTN tại TT
Huế

2003
2004
2005
2006
2007
Bình quân

665
816
919
1.202
1.529

1.026

Số phải thu

Số phải thu

bình quân 1

theo báo cáo

đơn vị (triệu

thu hàng năm

đồng)
13,830
14,216
16,685
20,111
19,350
16,838

(triệu đồng)
1.949
3.325
5.606
8.881
10.735
6.099


Số phải thu có thể
thu được (triệu
đồng)
9.196
11.600
15.333
24.173
29.586
17.276


( Nguồn: BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)
Qua bảng 3.10 cho thấy, nếu khai thác hết số đơn vị KTTN trên địa bàn
Thừa Thiên Huế thì số tiền thu BHXH hàng năm giai đoạn 2003-2007 là 17 tỷ 276
triệu đồng, gấp 3 lần so với số tiền phải thu cùng giai đoạn. Điều này cho thấy
công tác thu BHXH của tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng và của cả nước nói chung
cần phải hết sức quan tâm đến khu vực này để khai thác tối đa tiềm năng thu
BHXH khu vực KTTN nhằm tránh thất thu đối với người lao động thuộc các
doanh nghiệp khu vực KTTN chưa được tham gia BHXH đồng thời góp phần cân
đối và tăng trưởng quỹ BHXH một cách bền vững, đảm bảo chi trả các chế độ
ngắn hạn cũng như các chế độ dài hạn cho người lao động.
3.2 KHẢO SÁT THU BẢO HIỂM XÃ HỘI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN
THEO TỪNG LOẠI HÌNH QUẢN LÝ
Tình hình tham gia BHXH các doanh nghiệp khu vực KTTN tại các huyện
thành phố cụ thể như sau:
Bảng 3.11: Tình hình tham gia BHXH khu vực KTTN năm 2007
TT

Huyện


1
2
3
4
5
6
7
8
9

Quảng điền
Phong điền
Hương trà
Phú vang
Hương thủy
Phú lộc
Nam đông
A lưới
Huế
Cộng

DN khu vực KTTN
Tổng số
%
30
58
82
97
159
103

16
39
945
1.529

1,96
3,79
5,36
6,34
10,40
6,74
1,05
2,55
61,81
100

DN đã tham gia
Tổng số
%
3
14
28
4
23
16
5
6
367
466


0,64
3
6
0,85
4,93
3,43
1,07
1,28
78,75
100

Tỷ lệ (%)
10
24,14
34,14
4,12
14,46
15,53
31,25
15,38
38,84
30,48

(Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư, BHXH tỉnh năm 2007)


Qua bảng 3.11 cho thấy doanh nghiệp khu vực KTTN Thừa Thiên Huế phân
bố không đều, tập trung chủ yếu tại địa bàn thành phố Huế (61,81%), Hương thủy
(10,40%), Phú lộc (6,74%), Hương trà (5,36%), Phú vang (6,34%). Do đó BHXH
tỉnh cần phải tập trung nguồn lực để tập trung khai thác thu BHXH địa bàn này.

Doanh nghiệp khu vực KTTN tham gia BHXH tại các huyện thành phố còn
đạt tỷ lệ thấp chưa tương xứng tiềm năng thu hiện có của tỉnh, Thành phố Huế là
địa phương có số đơn vị khu vực KTTN lớn nhất nhưng mới chỉ tham gia BHXH
367 doanh nghiệp chiếm 38,84% trong tổng số doanh nghiệp có trên địa bàn, tiếp
đến Hương Trà mới chỉ có 28 doanh nghiệp tham gia BHXH trên tổng số 82 doanh
nghiệp hiện có, chiếm 34,14% .
Tính chung toàn tỉnh, doanh nghiệp khu vực KTTN mới chỉ tham gia BHXH
đạt 30,48% so với tổng số doanh nghiệp.
3.3 NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT THU BẢO HIỂM XÃ HỘI KHU VỰC
KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
3.3.1 Đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội
Hiện nay, thực tế công tác quản lý thu BHXH đối với các doanh nghiệp
thuộc khu vực KTTN gặp nhiều khó khăn trong việc theo dõi tình hình đăng ký
tham gia BHXH của các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp đăng ký giấy phép
xong nhưng không có trụ sở giao dịch, thành lập xong nhưng không hoạt động hay
hoạt động thời gian ngắn rồi giải thể nên không có cơ sở để cơ quan BHXH thực
hiện thu BHXH. Ngoài ra còn có một số trường hợp doanh nghiệp đã nộp BHXH,
đối chiếu công nợ tiền BHXH với cơ quan BHXH sau một thời gian ngắn nay giải
thể, phá sản, dừng hoạt động… không còn chủ sở hữu hoặc chưa có biện pháp để
giải quyết số nợ này.
Hầu hết các doanh nghiệp khu vực KTTN đóng BHXH không đúng số lao
động hiện có. Lợi dụng kẽ hở của pháp luật về lao động và BHXH, nhiều chủ


doanh nghiệp ký hợp đồng ngắn hạn, khoán gọn công việc hoặc hợp đồng lao động
dưới 3 tháng, rồi cho nghỉ việc và lại tuyển mới lao động để tránh nộp BHXH cho
số lao động này; nhưng lại khai tăng số lao động để tăng chi phí lương nhằm tính
tăng chi phí, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
Định mức khu vực KTTN thường rất cao, kéo dài thời gian lao động, phần
lớn các doanh nghiệp tư nhân không áp dụng chế độ phụ cấp do Nhà nước quy

định, điều kiện bảo hộ và an toàn lao động không đảm bảo. Đa số các doanh
nghiệp chưa có quy chế trả lương, định mức lao động, đơn giá tiền lương, nhiều
doanh nghiệp chưa xây dựng thang lương bảng lương để trả cho người lao động.
Vì vậy tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được rất thấp, chưa tương
xứng với sức lao động bỏ ra. Theo quy định pháp luật hiện hành, tiền lương, tiền
công ghi trên HĐLĐ là cơ sở pháp lý để tính mức nộp BHXH cho người lao động,
cho nên chủ sử dụng lao động ký HĐLĐ với người lao động thấp hơn rất nhiều lần
so với tiền lương thực nhận của người lao động. Điều này sẽ làm giảm mục đích
bản chất của BHXH do mức nộp BHXH thấp thì mức chi trả trợ cấp BHXH cũng
thấp dẫn đến người lao động sẽ không thấy được ý nghĩa, vai trò của BHXH nên
không tích cực tham gia cũng như không đòi hỏi chủ sử dụng lao động thực hiện
quyền tham gia BHXH cho mình.
Việc theo dõi lao động thuộc diện tham gia BHXH đối với các đơn vị này
còn nhiều bất cập. Trong quá trình hoạt động, hầu như các doanh nghiệp KTTN
viện ra nhiều lý do để không báo cáo tình hình sử dụng, tăng, giảm lao động của
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Do vậy các cơ quan chức năng và cơ
quan BHXH gặp nhiều khó khăn trong việc thống kê lao động và quỹ tiền lương,
dẫn đến số lượng lao động tham gia BHXH thấp hơn số lao động hiện có của
doanh nghiệp, thất thu BHXH.
3.3.2 Nợ đọng và thất thu bảo hiểm xã hội:


Nhìn chung, tình hình nợ đọng BHXH khu vực KTTN là một trong những
vấn đề bức xúc hiện nay trong công tác quản lý thu tại tỉnh thừa Thiên Huế nói
riêng và cả nước nói chung.
Bảng 3.12: Tình hình nợ đọng BHXH ở khu vực KTTN tại TT Huế
Năm

Số tiền BHXH
phải thu

(triệu đồng)

2003
2004
2005
2006
2007
BQ

1.949
3.325
5.606
8.881
10.735
6.099

Số tiền BHXH
thực thu
(triệu đồng)
1.737
2.775
4.187
7.173
8.733
4.921

Số tiền nợ
đọng
BHXH
(triệu đồng)

212
550
1.419
1.708
2.002
1.178

Tỷ lệ nợ
đọng
BHXH
(%)
10,87
16,54
25.31
19.23
18.64
19.31

( Nguồn BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)
Qua số liệu bảng 3.11 cho thấy, mặc dù các đơn vị KTTN tham gia BHXH
cho người lao động song ý thức chấp hành nộp BHXH lại chưa đúng theo quy
định, tỷ lệ nợ đọng BHXH khu vực KTTN tại Thừa Thiên Huế khá cao, bình quân
giai đoạn 2003-2007 là 19,3%/năm (trong khi tỷ lệ nợ đọng chung khu vực KTTN
cả nước bình quân là 10,4%). Năm 2005 là năm có tỷ lệ nợ đọng cao nhất so với
các năm khác (25,31%) và năm 2003 là năm có tỷ lệ nợ đọng thấp nhất (10,87%).
Bảng 3.13: Tỷ lệ nợ BHXH phân theo từng loại hình quản lý
Đơn vị: %
Năm
2003
2004

2005
2006
2007
BQ

HCSN
1,21
0,51
3,09
2,3
0,84
0,75

DNNN
1,03
7,26
12,1
11,07
1,18
7,25

LD,VP
4,96
1,56
6,66
9,88
5,34
6,15

KTTN

10,87
16,54
25,31
19,23
18,64
19,31

NCL
4,90
2,33
6,08
2,28
4,32
3,17

XP
2,94
4,05
8,92
9,19
3,07
5,09

( Nguồn BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế)


Qua bảng 3.13 cho thấy việc nợ đọng BHXH đang diễn ra chủ yếu ở khu
vực KTTTN, chiếm tỷ lệ khá cao (19,31%) so với tất cả các khối tham gia BHXH,
tiếp đến khối doanh nghiệp nhà nước (7,25%). Khối hành chính sự nghiệp không
nợ đọng BHXH. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp khu vực KTTN đã tham gia

BHXH cho người lao động nhưng đóng BHXH không đúng thời gian quy định.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp hàng tháng khi trả lương cho người
lao động vẫn trích 6% BHXH, BHYT tiền lương theo quy định nhưng không nộp
BHXH cho người lao động, hoặc chiếm dụng để sử dụng vào mục đích khác cho
đến khi cơ quan thanh tra, kiểm tra mới nộp BHXH. Do không nộp hoặc nộp
không đầy đủ dẫn đến tình trạng người lao động ốm đau, thai sản, Tai nạn lao
động… chưa được hưởng các quyền lợi về BHXH.
Để giải quyết tình trạng chưa đóng, chậm đọng:Từ ngày Luật BHXH ra đời,
cơ quan BHXH áp dụng tính lãi đối với nhữung đơn vị chưa đóng, chậm đóng trên
30 ngày kể từ ngày hết hạn phải đóng, mức lãi suất áp dụng theo mức lãi suất cho
vay của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ của BHXH Việt Nam.Tuy nhiên mức lãi
suất áp dụng cho trường hợp chậm đóng thấp hơn nhiều so với lãi suất doanh
nghiệp vay ngân hàng. Tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp khu vực
KTTN vẫn xảy ra, do vậy thực hiện theo nguyên tắc đóng đến đâu xác nhận sổ
BHXH và giải quyết chế độ BHXH cho người lao động đến tháng đó.
3.3.3 Quy định và thủ tục công tác thu bảo hiểm xã hội
Số lượng biểu mẫu thu còn nhiều và chồng chéo, chưa đảm bảo tính logic
giữa các biểu mẫu, thay đổi nhiều lần, không phù hợp với thực tế nên tác dụng
quản lý kém hiệu quả.
Thủ tục tham gia BHXH còn rườm rà, phức tạp lại hay thay đổi đòi hỏi bản
thân người làm BHXH của đơn vị phải nắm vững nghiệp vụ.


Với những đặc điểm trên, việc thực hiện thu BHXH đối với những đơn vị
KTTN và ngành BHXH thường gặp những khó khăn sau:
+ Doanh nghiệp mất nhiều thời gian và công sức để lập danh sách, biểu mẫu
thu BHXH.
+ Việc lập các biểu mẫu thu và báo cáo thu BHXH dễ nhầm lẫn.
+ Cán bộ thu BHXH phải trực tiếp đến các đơn vị hướng dẫn và lập các biểu
mẫu, báo cáo trong thời gian đầu doanh nghiệp tham gia BHXH.

+ Quy trình cấp sổ BHXH, thẻ BHYT còn nhiều phức tạp, phải qua nhiều
công đoạn nên đơn vị phải đến cơ quan BHXH nhiều lần mới có thể làm xong thủ
tục và nhận sổ BHXH về.
+ Sự chưa thống nhất về quan điểm trong việc giải quyết chế độ chính sách
của cán bộ quản lý ngành BHXH.
+ Quy trình giải quyết chế độ, chính sách còn chưa khoa học; việc ứng dụng
công nghệ thông tin chưa được áp dụng trong khâu tiếp nhận và theo dõi hồ sơ
hưởng chế độ.
Những tồn tại này đã gây không ít khó khăn, phức tạp đối với cán bộ nghiệp
vụ và đơn vị sử dụng lao động. Điều này làm cho không ít đơn vị tỏ thái độ tiêu
cực khi tham gia BHXH.
3.3.4 Cơ chế chính sách trong công tác thu bảo hiểm xã hội
Cơ chế, chính sách, các chế độ ban hành chưa đồng bộ, chưa kịp thời và
không phù hợp với thực tế, chậm được triển khai ảnh hưởng đến việc đưa chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, vì vậy tâm lý người sử
dụng lao động và người lao động còn tìm cách né tránh về BHXH.
Cơ quan BHXH chưa có chức năng thanh tra, xử phạt đối với các đơn vị vi
phạm về BHXH; Thanh tra lao động có chức năng này lại không thường xuyên


kiểm tra, thanh tra để kịp thời ngăn chặn các vi phạm, có những trường hợp vi
phạm thì chủ yếu nhắc nhở. Chế tài xử phạt chưa đồng bộ và chưa đủ mạnh, tính
pháp lý chưa nghiêm do đó nhiều doanh nghiệp trốn tránh, dây dưa nộp chậm và
nợ đọng trong thời gian dài với số tiền rất lớn mà không bị xử lý. Ví dụ tại khoản 8
Điều 11 Nghị định 38/CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ quy định mức phạt 2 triệu
đồng đối với đơn vị sử dụng lao động nộp BHXH chậm từ 30 ngày trở lên. Số tiền
phạt này so với mức tiền nợ hàng trăm triệu đồng là mức phạt quá thấp. Vì vậy, các
doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận nộp phạt (vì số tiền nộp phạt không đáng kể so
với số tiền đóng BHXH mà họ phải nộp) để chiếm dụng số tiền vào mục đích kinh
doanh. Đồng thời, sự phối kết hợp giữa các ban ngành trong việc giải quyết vấn đề

nợ đọng và trốn nộp BHXH chưa cao, việc xử lý còn chậm và qua nhiều khâu,
nhiều cấp, chưa có một cơ chế cụ thể. Ngành bảo hiểm vẫn chưa có sự kết hợp chặt
chẽ với các ngân hàng mặc dù đã có Quyết định 02 của Thủ tướng Chính phủ về
việc cho phép cơ quan BHXH có quyền đề nghị kho bạc, ngân hàng trích tiền từ tài
khoản của doanh nghiệp để đóng BHXH cho người lao động. Cuối cùng, cơ quan
BHXH là cơ quan quản lý trực tiếp việc thực hiện chính sách BHXH nhưng lại
không có thẩm quyền kiểm tra và xử phạt các đơn vị trốn hoặc nợ kéo dài.
Chính sách BHXH còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng nguyện vọng của người
lao động. Chẳng hạn theo quy định của Bộ luật lao động và Bộ luật Dân sự, chế độ
tiền lương, tiền công của người lao động làm việc trong khu vực KTTN thực hiện
trên nguyên tắc thỏa thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao
động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động được trả
không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Mức tiền lương làm
căn cứ đóng BHXH là tiền lương ghi trên HĐLĐ, không phải là tổng thu nhập thực
tế. Phần lớn các đơn vị KTTN nộp BHXH theo tiền lương danh nghĩa ghi trên


HĐLĐ, có nghĩa là người lao động có thu nhập cao, nhưng nộp BHXH lại rất thấp,
dẫn đến mức trợ cấp BHXH thấp, giảm ý nghĩa của BHXH.
Điều kiện ràng buộc đối với người lao động và người sử dụng lao động đối
với khu vực KTTN chưa được hoàn chỉnh, nhất là ở các tổ hợp tác, hộ sản xuất
kinh doanh cá thể, các chủ trang trại. Việc thuê lao động chủ yếu bằng thỏa thuận
miệng. Do đó, cơ quan BHXH không xác định được thời hạn thuê lao động, mức
tiền lương, tiền công trả hàng tháng để làm căn cứ đóng BHXH. Hộ sản xuất kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác chưa có tư cách pháp nhân nên việc ký kết tham gia
BHXH gặp nhiều khó khăn. Đến nay Hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác
chưa tham gia BHXH.
3.3.5 Vai trò của các tổ chức công đoàn
Công đoàn là tổ chức đại diện hợp pháp, bảo vệ quyền lợi cho người lao động
nhưng tình trạng phổ biến ở nhiều doanh nghiệp tư nhân là không có tổ chức công

đoàn. Hiện nay hơn 70% các doanh nghiệp của tư nhân có đủ điều kiện nhưng chưa
thành lập, do đó đã hạn chế việc bảo vệ quyền lợi người lao động và sự phối hợp
giữa giới chủ và người lao động trong tổ chức sản xuất kinh doanh.
3.3.6 Thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội còn chưa được quan tâm
đúng mức
Công tác thông tin tuyên truyền về chế độ, chính sách BHXH đến người lao
động và người sử dụng lao động chưa sâu rộng. Nội dung tuyên truyền còn nghèo
nàn, hình thức chưa phong phú, chưa sát với đối tượng. Báo BHXH mới chỉ được
lưu hành trong nội bộ ngành, một số cán bộ lãnh đạo UBND các cấp và một số ban
ngành của địa phương. Đồng thời các văn bản pháp luật về BHXH và văn bản
hướng dẫn thi hành các chế độ BHXH chưa được phổ biến rộng rãi đến các doanh
nghiệp khu vực KTTN.
3.4 ẢNH HƯỞNG CÁC NHÂN TỐ ĐẾN VIỆC THAM GIA BẢO HIỂM XÃ
HỘI BẮT BUỘC CỦA CÁC CHỦ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG


3.4.1 Thông tin chung về doanh nghiệp điều tra
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tiến hành điều tra
tình hình tham gia BHXH bắt buộc của doanh nghiệp khu vực KTTN trên địa bàn
thành phố Huế, là nơi có số lượng doanh nghiệp khu vực KTTN chiếm tỷ trọng lớn
nhất (61,81%) so với doanh nghiệp khu vực KTTN toàn tỉnh. Phương pháp điều tra
là phỏng vấn trực tiếp chủ doanh nghiệp đã tham gia và chưa tham gia. Trong quá
trình điều tra chúng tôi chọn ngẫu nhiên 40 doanh nghiệp đã tham gia và 40 doanh
nghiệp chưa tham gia BHXH. Tất cả các doanh nghiệp đều được chọn theo phương
pháp ngẫu nhiên. Dựa vào danh sách đã tham gia và danh sách chưa tham gia
BHXH trên địa bàn thành phố Huế được chọn ngẫu nhiên theo khoảng cách xác
định. Trong quá trình điều tra, chủ doanh nghiệp nào đi vắng thì doanh nghiệp kế
tiếp được chọn thay thế.
Những cơ sở sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, thường là những nơi chủ
doanh nghiệp có năng lực kinh doanh, nhanh nhạy, nắm bắt được thị trường, đổi

mới được công nghệ sản xuất và quản lý, có kế hoạch làm ăn lâu dài; tạo lập được
quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động, thực hiện tốt các
chính sách đối với người lao động theo quy định pháp luật. Ta có thể xem xét năng
lực của doanh nghiệp trên cơ sở phân tích đánh giá các chỉ tiêu như tuổi, trình độ,
ngành nghề kinh doanh, tình hình sử dụng lao động, thu nhập lao động bình quân
doanh nghiệp.
3.4.1.1 Tuổi của chủ sử dụng lao động
Tuổi của chủ sử dụng lao động được điều tra chủ yếu tập trung từ 30 đến 60
tuổi, chiếm 86,25%, tuổi dưới 30 chiếm 13,75%. Tuổi bình quân là 41,13 tuổi, đây
là tuổi sung sức trong kinh doanh và có suy nghĩ chín chắn. Kiểm định T cho thấy
rằng không có sự khác biệt về độ tuổi giữa nhóm doanh nghiệp tham gia BHXH và
nhóm không tham gia BHXH.
Bảng 3.14: Tuổi của chủ sử dụng lao động


Trình độ
chuyên môn
Dưới 30
Từ 30 đến 60
Tổng
Tuổi TB
Kiểm định T

Nhóm DN tham Nhóm DN chưa tham
Tổng
gia BHXH
gia BHXH
Số
Tỷ lệ
Số

Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
người
(%)
người
(%)
người
(%)
7
17,50
4
10,00
11
13,75
33
82,50
36
90,00
69
86,25
40
100
40
100
80
100
43,10
39,15
41,13

df= 78
Sig=0,063
(Nguồn: Xử lý số liệu điều tra)

3.4.1.2 Trình độ chuyên môn của chủ sử dụng lao động
Qua khảo sát điều tra, cho thấy có 38 chủ sử dụng lao động doanh nghiệp
được qua đào tạo (sơ, trung cấp trở lên) chiếm 47,50%, 42 chủ sử dụng lao động
doanh nghiệp chưa qua đào tạo chiếm 52,50%. Kết quả kiểm định T cho thấy có sự
khác biệt về chuyên môn giữa hai nhóm doanh nghiệp đã tham gia và nhóm doanh
nghiệp chưa tham gia với mức ý nghĩa thống kê 95%.
Bảng 3.15: Trình độ chuyên môn của chủ doanh nghiệp
Nhóm DN tham
Chủ sử dụng lao
động
Qua đào tạo
Chưa qua đào tạo
Tổng
Kiểm định T

Nhóm DN chưa

gia BHXH
tham gia BHXH
Số
Số
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
người
người
13

32,50
29
72,50
27
67,50
11
27,50
40
100
40
100
df= 78
Sig.=0,000

Tổng
Số
người
42
38
80

Tỷ lệ
(%)
52,50
47,50
100

(Nguồn: Xử lý số liệu điều tra)
3.4.1.3 Quy mô lao động của doanh nghiệp
Qua khảo sát điều tra, ta thấy có 26 doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động,

chiếm 32,50%, 54 doanh nghiệp có sử dụng trên 10 lao động, chiếm 67,50%. Số
lao động trung bình giữa 2 nhóm tham gia BHXH là 14 người. Kết quả kiểm định
T cho thấy có sự khác biệt về số lao động giữa nhóm doanh nghiệp đã tham gia



×