Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Quá trình đổi mới tư duy chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay: Luận án TS. Khác : 92290

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 175 trang )





-----------------------------

ũ hị hu

QUÁ

Ì

ương

ỔI MỚ

Ở VIỆT NAM TỪ

U

Á

DUY

Í

M 1986 ẾN NAY



Hà Nội - 2018















-----------------------------

ũ hị hu

QUÁ

Ì

ương

ỔI MỚ

Ở VIỆT NAM TỪ
hu n ng nh:
M

Í




M 1986 ẾN NAY
CNDVBC & CNDVLS

:

U

DUY

62 22 03 02

Á









D

Ọ :

PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÀ
XÁC NHẬN NCS Ã

ỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ
CỦA H
ỒNG Á
Á L ẬN ÁN
gười hướng dẫn khoa học

Chủ tịch hội đồng đánh giá
Luận án Tiến sĩ

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà

PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác.
Những kết luận khoa học của luận án là mới và chưa công bố trong bất cứ
công trình khoa học nào.
Tác giả luận án

Vũ Thị Thu Hƣơng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 4

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 6
4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .......................... 7
5. Đóng góp mới của luận án .................................................................................. 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................................ 7
7. Kết cấu của luận án............................................................................................. 7
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ............................................................................................................. 8
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư duy chính trị và đổi mới tư duy
chính trị ....................................................................................................................... 8
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư duy chính trị .................. 8
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đổi mới tư duy chính trị ..................... 11
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung của quá trình đổi mới
tư duy chính trị từ năm 1986 đến nay ở Việt Nam ................................................... 20
1.2.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới tư duy chính trị
về xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ................................................... 20
1.2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới tư duy chính trị
về mô hình kinh tế ở Việt Nam .................................................................................. 28
1.2.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới tư duy chính trị
về mô hình nhà nước ................................................................................................. 36
1.3. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu .................................................. 41
Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TƢ DUY
CHÍNH TRỊ ............................................................................................................. 44
2.1. Luận giải các khái niệm liên quan: tư duy chính trị và đổi mới tư duy
chính trị ..................................................................................................................... 44
2.1.1. Khái niệm tư duy chính trị ..................................................................... 44
2.1.2. Về đổi mới tư duy chính trị..................................................................... 53
2.2. Những nhân tố tác động đến đổi mới tư duy chính trị của Đảng cộng sản
Việt Nam ................................................................................................................... 62
2.2.1. Những nhân tố trong nước ..................................................................... 62

2.2.2. Những nhân tố bên ngoài ....................................................................... 71
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 78
1


Chƣơng 3. ĐỔI MỚI TƢ DUY CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1986
ĐẾN NAY ................................................................................................................ 81
3.1. Quá trình đổi mới tư duy chính trị về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam... 82
3.1.1. Tư duy chính trị về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trước năm 1986 ......................................................................................................... 83
3.1.2. Tư duy chính trị của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
từ 1986 đến nay ......................................................................................................... 86
3.2. Quá trình đổi mới tư duy chính trị về mô hình kinh tế ở Việt Nam
từ năm 1986 đến nay ................................................................................................. 95
3.2.1. Khái quát chung tư duy chính trị của Đảng về mô hình kinh tế ............ 96
3.2.2. Một số nội dung chủ yếu trong tư duy của Đảng về mô hình kinh tế
từ năm 1986 đến nay ............................................................................................... 102
3.3. Quá trình đổi mới tư duy chính trị về mô hình Nhà nước ở Việt Nam ........... 112
3.3.1. Tư duy chính trị của Đảng về mô hình Nhà nước trước năm 1986 ..... 113
3.3.2. Tư duy chính trị của Đảng về mô hình Nhà nước pháp quyền
từ năm 1986 đến nay ............................................................................................... 114
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 121
Chƣơng 4. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƢ DUY CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...................................................................... 123
4.1. Một số tồn tại trong quá trình đổi mới tư duy chính trị của Đảng
sau 30 năm đổi mới (1986 - 2016) .......................................................................... 123
4.1.1. Những tồn tại trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng về mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam................................................................................... 123
4.1.2. Những tồn tại trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng về mô hình
kinh tế ở Việt Nam ................................................................................................... 125

4.1.3. Những tồn tại trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng
về mô hình Nhà nước .............................................................................................. 128
4.2. Tình hình thế giới và trong nước đặt ra yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy
chính trị của Đảng ................................................................................................... 136
4.2.1. Tình hình thế giới đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục đổi mới tư duy
chính trị của Đảng .................................................................................................. 136
4.2.2. Tình hình trong nước đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục đổi mới tư duy
chính trị của Đảng .................................................................................................. 138
4.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc tiếp tục đổi mới tư duy chính trị của Đảng
trong giai đoạn hiện nay.......................................................................................... 140
2


4.4. Một số nội dung trọng tâm trong tiếp tục đổi mới tư duy chính trị của Đảng ..... 143
4.4.1. Tiếp tục đổi mới tư duy chính trị của Đảng về mô hình chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ............................................................................................................. 143
4.4.2. Tiếp tục đổi mới tư duy chính trị của Đảng trong việc tạo lập mô hình
kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và mô hình tăng trưởng mới
ở Việt Nam ........................................................................................................................ 145
4.4.3. Tiếp tục đổi mới tư duy chính trị của Đảng về Nhà nước pháp quyền ..... 150
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 153
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................. 158
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 159

3


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều có một hệ thống tư tưởng nhằm
định hướng cho quá trình phát triển của mình. Hệ thống tư tưởng định hướng
này được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương, chính sách, chiến lược, sách
lược. Những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược đó
luôn luôn được bổ sung, hoàn thiện và làm mới để đầy đủ, toàn diện hơn.
Trên thế giới, chủ nghĩa xã hội đã tan rã ở nhiều nơi. Trước tình hình đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội
và thực hiện đường lối Đổi mới. Đó là một trong những quyết sách chiến lược
để hướng tới đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Đổi mới trước hết là đổi mới tư duy. Vì chỉ có đổi mới tư duy,
thay đổi nhận thức cho phù hợp với tình hình và những biến đổi của thực tiễn
mới tạo ra những bước phát triển lý luận, định hướng đúng đắn con đường
phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới. Hơn nữa, đó còn là tiền đề nhận
thức lý luận dẫn tới đổi mới hành động. Bởi, “cần đổi mới cách nghĩ (tư duy
và phương thức tư duy) mới có thể đổi mới cách làm (trong tổ chức, quản lý,
trong lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong hoạt động của quần
chúng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức, đoàn thể của nhân
dân, kể cả hoạt động tham chính với phương thức dân chủ đại diện kết hợp
với dân chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng ở cơ sở)” [118, tr.21]. Đổi mới tư
duy của Đảng Cộng sản Việt Nam là quá trình hình thành tư duy lý luận mới
về chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển của Việt Nam thời kỳ đương đại.
Đó là lý do đầu tiên khiến chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “quá trình đổi
mới tư duy chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay”.
Chặng đường đổi mới ở nước ta đã diễn ra được hơn ba mươi năm.
Chặng đường này, như Đảng ta đánh giá tại Đại hội XII, thực sự là “một giai
4


đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự

trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta” [47, tr.68]. Đổi
mới được đánh giá là mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải
biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng,
toàn dân ta. Nhờ quá trình đó, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nước ta cũng vẫn còn nhiều vấn đề lớn,
phức tạp, còn nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục
để phát triển nhanh và bền vững [47, tr.65].
Giai đoạn 30 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đổi mới là một quá trình lịch sử lâu dài;
là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của các thế hệ tiếp nối nhau; là hoạt
động tự giác, chủ động và sáng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đổi mới không chỉ là quá trình đã và đang diễn ra trong quá khứ và hiện tại,
mà còn là vấn đề thường xuyên, liên tục, luôn cần phải được triển khai mạnh
mẽ, toàn diện, rộng rãi hơn nữa trong tương lai. Để tiếp tục thực hiện công
cuộc đổi mới trong những giai đoạn sau này một cách hiệu quả và bền vững
hơn nữa, việc tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận mới là một hướng đi hết
sức cần thiết và quan trọng. Đó là lý do thứ hai khiến chúng tôi lựa chọn
nghiên cứu đề tài đổi mới tư duy chính trị từ năm 1986 đến nay
Hiện nay, ở nước ta, trong công tác nghiên cứu và giảng dạy tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội được quan tâm. Đảng ta đã có sự đổi mới về tư duy
chính trị, kế thừa, bổ sung và hoàn thiện chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện hoàn cảnh cụ thể chứ không vận dụng máy móc, cứng nhắc chủ nghĩa
Mác - Lênin. Tuy nhiên, những phát triển sáng tạo của Đảng ta chưa được
luận giải một cách thấu đáo trước hết trong các công trình nghiên cứu về triết
học. Đó là lý do thứ ba khiến chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài quá trình
đổi mới tư duy chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
5



2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về đổi mới tư duy chính trị,
phân tích những nội dung chủ yếu trong tư duy chính trị mới của Đảng Cộng
sản Việt Nam từ năm 1986 đến nay, luận án chỉ rõ một số thành tựu và các
vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới tư duy chính trị ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về đổi mới tư duy chính trị ở
Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
+ Phân tích một số nội dung và những thành tựu của quá trình đổi mới
tư duy chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
+ Phân tích và chỉ ra một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới tư
duy chính trị ở Việt Nam hiện nay, nhằm tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy
chính trị.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của luận án là đổi mới tư
duy chính trị của Đảng ở tầm chiến lược về các vấn đề phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu tư duy chính trị từ năm 1986 đến nay. Chủ thể tư
duy chính trị rất đa dạng (cá nhân, tổ chức, cộng đồng). Trong luận án này,
chủ thể tư duy chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các
văn kiện, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng.
Tư duy chính trị gồm nhiều nội dung. Trong luận án chỉ nghiên cứu
một số nội dung cơ bản trong tư duy chính trị mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đó là tư duy chính trị về mô hình chủ nghĩa xã hội, mô hình kinh tế và
mô hình nhà nước.
6



4. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
- Luận án vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin như mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, quan hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, quan hệ biện chứng giữa kinh
tế và chính trị, quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng của luận án là: thống
nhất lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, so sánh, hệ
thống hóa, khái quát hóa…
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã phân tích và làm rõ thêm nội hàm của khái niệm tư duy
chính trị, đổi mới tư duy chính trị; chỉ rõ những nhân tố tác động đến đổi mới
tư duy chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
- Luận án đã làm rõ thêm một số nội dung cơ bản và những thành tựu
của quá trình đổi mới tư duy chính trị ở Việt Nam.
- Luận án đã chỉ rõ được một số vấn đề đặt ra nhằm tiếp tục đổi mới tư
duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Luận án đã làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu trong
quá trình đổi mới tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 đến
nay, từ đó góp thêm căn cứ cho những nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề của
triết học chính trị, chính trị học.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến các vấn đề đổi mới tư duy, đặc biệt là cho những
người làm công tác tư tưởng, tuyên giáo, chính trị.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, 4 chương, kết luận, danh mục các công
trình nghiên cứu của tác giả, tài liệu tham khảo.

7


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tƣ duy chính trị và đổi
mới tƣ duy chính trị
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư duy chính trị
Trong nghiên cứu về quá trình đổi mới tư duy ở nước ta thì đổi mới tư
duy kinh tế được đề cập đến rộng rãi, phổ biến và đầy đủ, chi tiết hơn cả. Các
nghiên cứu về tư duy chính trị không nhiều, những nghiên cứu này thường
được gắn liền với một chủ thể nhất định. Trong đó, phần nhiều là các nghiên
cứu về tư duy chính trị của các danh nhân lịch sử như Ngô Thị Nhậm [139],
Hồ Chí Minh [17], Nguyễn Văn Cừ [13], [54], …
Đáng chú ý trong số các công trình nghiên cứu này phải kể đến tác
phẩm Tư duy chính trị Hồ Chí Minh [27] của Nguyễn Thị Thanh Dung
(2016). Công trình này đã giúp chúng tôi có cái nhìn tương đối toàn diện về
tư duy chính trị nói chung và tư duy chính trị Hồ Chí Minh nói riêng (công
trình này được xuất bản từ Luận án tiến sĩ chính trị học đã bảo vệ thành công
của tác giả năm 2014 về “Tư duy chính trị Hồ Chí Minh - những đặc điểm
chủ yếu và ý nghĩa phương pháp luận”). Từ sự phân tích khái niệm tư duy
chính trị Hồ Chí Minh, tác giả đã chỉ ra và phân tích những nội dung chủ
yếu của tư duy chính trị Hồ Chí Minh (gồm tư duy về sự lựa chọn mục tiêu
của cách mạng Việt Nam, tư duy về con đường và cách thức đạt được mục
tiêu cách mạng, tư duy về xây dựng một thể chế nhà nước dân chủ cho nhân
dân Việt Nam).
Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra rằng, đặc điểm về tư duy chính trị Hồ
Chí Minh là tính hệ thống, đề cao tính thực tiễn, chống chủ nghĩa giáo điều,
tính dân tộc lấy lợi ích dân tộc là ưu tiên hàng đầu, tính linh hoạt ứng biến,
tính dự báo, tính nhân văn, văn hóa.

8


Tác giả đã đưa ra một định nghĩa tương đối khái quát về tư duy chính
trị. Theo đó: “Tư duy chính trị là hoạt động của bộ não người nhằm thu nhận,
xử lý và tạo ra những tri thức về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước; giúp con người nhận thức, hoạch định và thực thi các
quyết sách chính trị” [27, tr.22]. Tác giả nhận định rằng, tư duy chính trị và tư
tưởng chính trị có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại, tư duy chính trị
chính là quá trình trăn trở, suy nghĩ về những vấn đề chính trị, còn tư tưởng là
kết quả của quá trình ấy. Tác giả cho rằng việc tìm hiểu tư duy chính trị của
một người phải thông qua tư tưởng, quan điểm, lời nói, bài viết và những hoạt
động thực tiễn của người đó. Với khái niệm tư duy chính trị đã được thao tác
hóa của tác giả cùng một số nội dung lý luận cũng như phương pháp nghiên
cứu của công trình, dù không thật nhiều nhưng công trình này cũng đã góp
phần giúp cho chúng tôi định hình rõ hơn khái niệm tư duy chính trị trong quá
trình nghiên cứu.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về tư duy chính trị của những nhân
vật lịch sử tiêu biểu, cũng có một số công trình nghiên cứu về tư duy chính trị
của các đối tượng chung như cán bộ, đảng viên. Đó là bài viết về “Nâng cao
năng lực tư duy chính trị cho cán bộ, Đảng viên” [14] của tác giả Nguyễn Đức
Bình (2017). Bài viết “Về lôgic của tư duy chính trị trong cán bộ ta hiện nay”
[158] của Nguyễn Văn Vĩnh. Với việc xác định chủ thể của tư duy chính trị
trong Luận án này là Đảng Cộng Sản Việt Nam, và cách tiếp cận khác của NCS
thì hai bài viết này ít có tác dụng tham khảo đối với người thực hiện luận án.
Liên quan trực tiếp hơn đến đối tượng tiếp cận của luận án phải kể đến
bài viết của Nguyễn Trọng Phúc (2006) “Đổi mới tư duy chính trị của Đảng
trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới” [106]. Tác giả khẳng định rằng “đường lối
đổi mới do Đại hội VI khởi xướng và sau này được các Đại hội Đảng và Hội
nghị Trung ương tiếp theo bổ sung, phát triển là sự thể hiện tư duy chính trị

không ngừng đổi mới” [106, tr.13]. Phân tích những thành tựu đạt được ở lĩnh
9


vực kinh tế trong 20 năm đổi mới, tác giả nhận định rằng sẽ không có thành
tựu to lớn về kinh tế nếu không bắt đầu từ đổi mới tư duy chính trị.
Bên cạnh những công trình đề cập trực tiếp đến tư duy chính trị như đã
đề cập trên đây thì khái niệm tư duy chính trị còn được một số học giả giới
thiệu trong các công trình chuyên khảo của mình với các cách tiếp cận khác
nhau. Trong đó, đáng chú ý là công trình Giải phóng, đổi mới, phát triển vì
chủ nghĩa xã hội [67] của tác giả Nguyễn Văn Huyên (2012). Trong cuốn
sách này khi đề cập đến khái niệm tư duy chính trị, tác giả cho rằng: “Nói đến
tư duy kinh tế có nghĩa là nói đến tư tưởng tiếp cận kinh tế, tư tưởng làm kinh
tế, tư tưởng về phát triển nền kinh tế thực hiện mục tiêu chính trị là phát triển
đất nước. Như vậy, tư duy kinh tế thực chất lại chính là tư duy chính trị về
kinh tế. Rõ ràng, nói đến cùng, đổi mới trước hết là đổi mới lĩnh vực chính trị
- đổi mới về tư duy chính trị. Đổi mới tư duy chính trị của Đảng có được là
nhờ Đảng ta tự giải phóng tầm nhìn, tầm nhận thức, tầm tư duy chính trị của
mình. Từ tầm nhìn, tầm nhận thức, tầm tư duy mới về chính trị, chúng ta mới
có tầm tu duy mới về kinh tế; từ tư duy mới về kinh tế, chúng ta được giải
phóng về tư duy trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội” [67, tr.199].
Đây là những gợi mở hết sức quan trọng cho tác giả luận án trong quá trình
tiếp cận khái niệm tư duy chính trị.
Trong công trình Tư duy lý luận đối với sự nghiệp đổi mới [94], tác giả
Trần Nhâm (2004) đã phân tích, đánh giá những tác động của tình hình thế
giới mới đến Việt Nam. Đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, toàn cầu hóa, khủng bố và chống khủng bố, khủng hoảng sinh thái toàn
cầu. Từ bối cảnh chung của thế giới, tác giả khẳng định rằng: để phát triển đất
nước thì cần phải tiếp tục đổi mới và chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh luôn là nền tảng tư tưởng của công cuộc đổi mới. Dù không trực tiếp đề

cập đến tư duy chính trị nhưng cách thức triển khai của tác giả trong việc luận
giải về tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới có tác dụng tham khảo nhiều
cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án.
10


Từ góc độ tiếp cận triết học chính trị về quyền con người [159], tác giả
Nguyễn Văn Vĩnh (2005) đã bước đầu chỉ ra khái niệm tư duy chính trị về
quyền con người nhìn từ góc độ triết học và những quan niệm khác nhau của
các nước Phương Đông, phương Tây, của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền
con người. Theo tác giả, khi giai cấp xuất hiện, (cùng với nó là xuất hiện nhà
nước và quan hệ chính trị giữa các giai cấp và giữa những con người), con
người dần dần ý thức ra, suy nghĩ tới vai trò, vị trí của mình trong cộng đồng
xã hội. Tác giả viết: “suy nghĩ đó của con người ở giai tầng này hay giai tầng
kia đều là suy tư chính trị, đều dẫn đến hình thành những hệ thống quan điểm
lý thuyết chính trị. Những suy nghĩ đó chính là tư duy chính trị và sản phẩm
của các suy tư này là các hệ thống lý thuyết, các quan niệm khác nhau về đời
sống chính trị của xã hội” [159, tr.12]. Đứng ở góc độ tiếp cận nghiên cứu tư
duy chính trị trong mỗi quan hệ với quyền con người, tác giả cho rằng, tư duy
chính trị chính là suy nghĩ của mỗi con người về vấn đề chính trị; những suy
tư đó đều dẫn đến hình thành những hệ thống quan điểm lý thuyết chính trị.
Như vậy, qua khảo sát tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy với cách
tiếp cận triết học về tư duy chính trị trong đó xác định chủ thể của tư duy
chính trị ở tầm chiến lược là Đảng Cộng sản Việt Nam thì không có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến một cách trực tiếp về nội hàm cũng như
cách tiếp cận đối với khái niệm tư duy chính trị. Vì thế, Luận án sẽ làm rõ
cách tiếp cận triết học đối với khái niệm tư duy chính trị từ đó luận giải rõ về
nội hàm, đặc điểm của khái niệm này và đây chính là một trong những điểm
mới của Luận án mà ở nhiều công trình trước đây chưa thực hiện được.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đổi mới tư duy chính trị

Về mặt lịch sử, ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới, các
nghiên cứu về đổi mới nói chung, đổi mới tư duy nói riêng đã được tiến hành
đồng thời. Các công trình nghiên cứu về quá trình đổi mới, đổi mới tư duy rất
nhiều và phong phú. Tuy nhiên, đổi mới tư duy chính trị thường không được
11


đề cập đến một cách trực tiếp. Vì thế, số lượng công trình về đổi mới tư duy
chính trị không nhiều và thường được đề cập xen kẽ trong các nghiên cứu về
đổi mới tư duy, về sự thay đổi trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với những vấn đề cụ thể.
Do đó, trong phần tổng quan này, chúng tôi thực hiện việc khảo sát và
hệ thống hóa các công trình nghiên cứu về đổi mới, đổi mới tư duy nói chung
từ đó bóc tách ra những công trình với những ý tưởng có liên quan ít nhiều
đến đổi mới tư duy chính trị.
Trực tiếp phân tích về bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế, về
những nội dung của đổi mới, về những chiến lược, sách lược và chủ trương
đường lối của Đảng (trong quá trình lãnh đạo đất nước, tổng kết quá trình
Đổi mới từ phương diện lý luận và thực tiễn), trước hết phải kể đến các văn
kiện, nghị quyết, báo cáo tổng kết của Đảng qua từng mốc thời gian cụ thể:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI [29], Nghị quyết Hội nghị
lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa VI [30], Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII [31], Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII [34], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
[36], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX [38], Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X [43], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI [45], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII [47], Báo cáo
tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006)
[41], Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986 - 2016) [46].

Trên cơ sở các văn kiện này, tiếp cận nghiên cứu đổi mới với tư cách là
một đường lối của Đảng (chính là đối tượng nghiên cứu và cách tiếp cận của
môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam), do Đảng vạch ra,
bắt đầu từ Đại hội VI, những nghiên cứu thường tập trung vào các khía cạnh
về sự phát triển nhận thức của chủ thể là Đảng, phân tích các văn kiện, nghị
12


quyết của Đảng qua các Đại hội, các Hội nghị Trung ương, từ khóa VI đến
khóa XI và Văn kiện Đại hội XII gần đây. Theo đó, đổi mới được nhìn nhận
và đánh giá từ phương diện đường lối và thực hiện đường lối do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. Qua mỗi kỳ Đại hội đường lối đổi mới của Đảng ta không
ngừng được bổ sung, phát triển, thể hiện những bước tiến và chuyển biến
trong nhận thức của Đảng.
Bên cạnh hướng tiếp cận này, nghiên cứu và tổng kết đổi mới với tư
cách là một phong trào vận động xã hội, một cuộc chuyển đổi rộng lớn và sâu
sắc, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân vào hoạt động đổi mới, là một
quá trình cải biến cách mạng và có thể nói, thực sự là một cuộc cách mạng, đã
được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước nhận thức và triển khai trong
quá trình điều hành đất nước. Các công trình Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của
đất nước và của thời đại [19] của đồng chí Trường Chinh; Đổi mới để tiến
lên[77]của đồng chí Nguyễn Văn Linh; Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ
nghĩa xã hội [87]của Đỗ Mười; Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi
mới đất nước [144] (2002), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam[145] của Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng(2006)… đã thể hiện điều đó. Bên cạnh các công
trình của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước tiếp cận đổi
mới từ khía cạnh này, còn phải kể đến các công trình của các nhà nghiên cứu
kỳ cựu, có uy tín, các chuyên gia trong nghiên cứu về đổi mới như các tác giả
Hoàng Chí Bảo [7, 8, 10]; Dương Phú Hiệp [60], Tạ Ngọc Tấn [124], Phùng
Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa [89, 160], Lê Hữu Tầng [126], Nguyễn Duy Quý

[114, 116]…
Theo hướng tiếp cận này, những nội dung nghiên cứu sẽ không chỉ là
đường lối đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng mà là một tổng hợp những tác
động, những mối liên hệ, những nội dung. Những tác động và những mối liên
hệ đó từ trong nước không tách rời khỏi những nhân tố quốc tế và thời cuộc
tác động vào đổi mới ở nước ta. Kết quả, thành tựu của đổi mới, những biến
13


đổi và phát triển của xã hội ta được xem xét như một phức hợp các vấn đề
kinh tế và chính trị, văn hóa và xã hội, con người và tổ chức, thiết chế với
những hoạt động và biến đổi của cá nhân - cộng đồng dân tộc và xã hội, đặc
biệt là mối quan hệ giữa Đảng với dân, Nhà nước với dân trong tiến trình đổi
mới, mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với dân trong cuộc vận động dân
chủ hóa và thực hiện dân chủ ở nước ta.
Chúng tôi đi theo hướng tiếp cận này để có thể nhìn nhận và đánh giá
hơn 30 năm đổi mới từ nhiều chiều cạnh, nhiều lớp quan hệ, nhiều chủ thể
cùng tham gia thực hiện công cuộc đổi mới hướng tới mục tiêu đổi mới để
phát triển.
Các công trình nghiên cứu về công cuộc đổi mới nói chung từ nhiều
cách tiếp cận khác nhau đã cho thấy rõ vai trò của Đảng với tư cách là lực
lượng lãnh đạo đối với tiến trình phát triển nước ta. Bên cạnh những công trình
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong nước, cũng có nhiều học giả nước
ngoài nghiên cứu về đổi mới ở nước ta. Trong đó phải kể đến tác giả Borje
Ljunggren với công trình Những thách thức trên con đường cải cách ở Đông
Dương [70]. Cuốn sách ra đời trong bối cảnh những năm 1990 - 1991, lúc đó
công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã bước qua giai đoạn đầu đổi mới, ở phương
Tây còn ít người biết đến công cuộc đổi mới này. Với tấm lòng thiện chí muốn
giới thiệu công cuộc đổi mới ở Việt Nam với bạn bè quốc tế, tác giả đã dành
hơn một nửa số trang và các chương mục để nói về công cuộc đổi mới chính

sách và cơ chế kinh tế ở Việt Nam từ cuối những năm 70 đến đầu những năm
90. Qua cuốn sách này, tác giả đã cung cấp cho chúng ta một cách nhìn của
một nhà quan sát phương Tây đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Dwight H. Perkins, David Dapice, Jonathan H. Haughton (1995) có
công trìnhViệt Nam cải cách theo hướng rồng bay [157]. Đây là công trình
thứ hai (sau công trình Những thách thức trên con đường cải cách ở Đông
Dương nghiên cứu về thời kỳ đổi mới của Việt Nam. Cuốn thứ nhất ra đời
14


trong bối cảnh đầu thời kỳ đổi mới (khi mà nhiều sự việc rất mới còn chưa
định hình rõ nét) nên nội dung có tính gợi mở và dự báo, chưa đủ căn cứ để
có những phán đoán khẳng định. Cuốn sách thứ hai này có cái nhìn khẳng
định và lạc quan hơn về chiều hướng phát triển của Việt Nam.
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới [86] của
Furata Motoo (1997), tác giả đã thông qua việc trình bày hoạt động của Hồ
Chí Minh để làm nổi bật chân dung của Người trong đấu tranh giải phóng dân
tộc và đặt cơ sở cho quá trình thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Furuta Motoo đã nêu một vấn đề (mà ngày nay là nhiệm vụ trọng tâm của
nước ta) đó là: đấu tranh giải phóng dân tộc để xây dựng xã hội văn minh, tiến
bộ bằng công cuộc đổi mới đất nước.
Trong nghiên cứu về công cuộc đổi mới, đổi mới tư duy cũng đã được
các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý. Có rất nhiều công trình gián tiếp hoặc trực
tiếp đề cập đến đổi mới tư duy. Nhấn mạnh đổi mới tư duy là yêu cầu bức
thiết, là mệnh lệnh của cuộc sống, là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là nhiệm vụ
quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước; công trình Bàn về đổi mới tư
duy [147] của tác giả Đào Duy Tùng (1987), mặc dù chỉ gồm hơn 50 trang
nhưng đã chỉ rõ những phương hướng; nội dung của đổi mới tư duy, điều kiện
để đổi mới tư duy. Theo tác giả, một số việc cần làm là: Thứ nhất, chúng ta
cần coi trọng việc quán triệt Nghị quyết Đại hội, gắn liền nó với việc đổi mới

tư duy trong Đảng. Vì quá trình quán triệt Nghị quyết Đại hội chính là quá
trình đổi mới tư duy. Nhưng như thế chưa đủ. Chúng ta phải đẩy mạnh công
tác lý luận, công tác nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh nghiệm trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc phê phán tư
duy cũ, xây dựng tư duy mới. Để có thể phát huy vai trò của công tác lý luận,
chúng ta phải nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
theo tinh thần sáng tạo; tiếp thu có phê phán kinh nghiệm và thành tựu lý luận
của các nước anh em; tiếp thu các thành tựu hoa học, kỹ thuật hiện đại; vận
15


dụng chúng một cách đúng đắn vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta và tổng kết
những bài học kinh nghiệm của bản thân. Thứ hai, chúng ta phải làm công
việc “kiểm kê” lại hệ thống tri thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và về
thời kỳ quá độ tiền lên chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, cần đẩy mạnh nghiên cứu
lịch sử phát triển tư duy của dân tộc. Đổi mới công tác thông tin cũng là điều
kiện rất quan trọng để đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy không chỉ phụ thuộc
vào trình độ nhận thức lý luận mà còn phụ thuộc vào động cơ.
Cùng thời điểm đó, đáng chú ý là công trình (1987) Đổi mới tư duy lý
luận và công tác xây dựng Đảng [149]. Đây là cuốn sách tập hợp các bài viết
của tác giả Hoàng Tùng đăng trên báo Nhân dân từ ngay sau đại hội VI của
Đảng đến tháng 5 năm 1987. Trong công trình này tác giả đã luận giải, làm
sáng tỏ vai trò của đổi mới tư duy. Theo tác giả, đổi mới tư duy là tiền đề
khắc phục sự chậm trễ về lý luận và sự cần thiết đổi mới công tác xây dựng
Đảng; Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và triệt để nền kinh tế xã hội của đất nước; để thực hiện thành công nhiệm vụ trọng đại đó, trước hết
chúng ta cần phải đổi mới tư duy và đổi mới công tác xây dựng Đảng.
Dù không trực tiếp bàn về đổi mới tư duy nhưng trong công trình Triết
học với sự nghiệp đổi mới [127] của tập thể tác giả Phạm Thành, Lê Hữu
Tầng, Hồ Văn Thông (1990), các tác giả đã khẳng định vai trò của tư duy triết
học mác xít đối với việc nhận thức những vấn đề mới của cách mạng Việt

Nam và trong việc khắc phục sự lạc hậu về lý luận ở nước ta lúc bấy giờ. Các
tác giả viết: “Muốn có tư duy đúng để có lý luận đúng thì phải có phương
pháp tư duy đúng”, “Nguồn gốc sâu xa khiến chúng ta lạc hậu về nhận thức lý
luận và hiện vẫn còn chậm khắc phục được sự lạc hậu này là ở chỗ chúng ta
chưa nắm vững và vận dụng đúng chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách là kim
chỉ nam cho hành động cách mạng, là phương pháp khoa học để nghiên cứu
thực tiễn và giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra” [127, tr.7]. Đặc biệt,
theo các tác giả, đổi mới tư duy gồm hai mặt. Một là, phải nhận thức lại cho
16


đúng những luận điểm mác xít về cách mạng xã hội chủ nghĩa và về chủ
nghĩa xã hội. Hai là, phải vận dụng những luận điểm ấy thật sát vào hoàn
cảnh nước ta; sáng tạo ra lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
(như trước đây chúng ta đã sáng tạo ra được lý luận về cách mạng dân tộc dân
chủ ở nước ta).
Công trình Có một Việt Nam như thế đổi mới và phát triển [93] do tác
giả Trần Nhâm chủ biên (1997) đã làm sáng tỏ các luận cứ khoa học và thực
tiễn của đường lối, chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta;
khẳng định những thành tựu to lớn của 10 năm qua; trình bày các định hướng
phát triển cho thời kỳ mới.
Phân tích bối cảnh kinh tế của đất nước tất yếu đòi hỏi phải đổi mới tư
duy, công trình Đổi mới - bước phát triển tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam [71] của tác giả Nguyễn Khánh (1999) tuy chỉ có dung lượng 56
trang, nhưng đã làm rõ những nội dung cơ bản nhất, căn cốt nhất liên quan
đến công cuộc đổi mới ở nước ta. Theo tác giả, từ đổi mới được Đảng ta sử
dụng “để chỉ cuộc cải cách lớn về đường lối, chính sách, về cách nghĩ, cách
làm của Đảng lãnh đạo và của nhân dân, để đưa đất nước vượt qua khó khăn,
tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội” [71, tr.8]. Bằng những tư liệu thực tế từ tình
trạng nền kinh tế nước ta những năm trước đổi mới (thường được diễn tả bằng

thuật ngữ “khủng hoảng”), tác giả đã luận chứng khá toàn diện cho tính tất
yếu của việc đổi mới ở nước ta những năm giữa thập niên 80 của thế kỷ trước,
nhất là đổi mới tư duy. Cuốn sách không đi sâu vào từng lĩnh vực, từng vấn
đề trong nội dung đổi mới nhưng đã cung cấp những gợi mở quan trọng cho
nghiên cứu đổi mới tư duy của Đảng.
Nhằm tổng kết quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986
- 2005, các tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo đã chủ biên công trình Nhìn
lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005 [120]nhằm phân
tích về quá trình đổi mới từ duy của Đảng ởnhững vấn đề chính trị - xã hội,
17


trong đó có nhận thức của Đảng về bản chất giai cấp, tính nhân dân và tính
dân tộc, về vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, một đảng cầm quyền, về văn hoá và xây
dựng con người trong điều kiện mới, về giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, và những vấn đề thế giới và đối ngoại, về thời đại, chủ nghĩa xã
hội hiện thực, về chủ nghĩa tư bản, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
hoà bình và chiến tranh, về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Trung- Đông Âu.
Công trình “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986
đến nay” [121] của tập thể tác giả thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (2006) đã phân tích tác động của tình hình thế giới và trong nước tới
công cuộc đổi mới; làm rõ thời cơ, thách thức và những đặc điểm chủ yếu của
đổi mới ở Việt Nam. Công trình đã đề cập một cách hệ thống về vai trò của lý
luận và tư duy lý luận đối với công cuộc đổi mới; phân tích tư duy lý luận của
Đảng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ
trước đổi mới, nhất là trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Kết quả nghiên
cứu này là cơ sở quan trọng để tác giả luận án xem xét, đánh giá những tác
động ảnh hưởng của các điều kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa-xã

hội, cũng như sự chi phối của các nhân tố khác đến quá trình đổi mới tư duy
chính trị của Đảng ta.
Trong công trình Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam
[116], tác giả Nguyễn Duy Quý đã làm rõ khái niệm tư duy và đổi mới tư duy.
Tác giả chủ yếu tập trung phân tích khái niệm tư duy với tư cách là giai đoạn
cao của quá trình nhận thức; phân tích vai trò của tư duy, lịch sử hình thành,
phát triển tư duy nhân loại, cấu trúc của tư duy, vai trò của đổi mới tư duy.
Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích đổi mới tư duy về kinh tế, đổi mới tư duy
về hệ thống chính trị, đổi mới tư duy về văn hóa xã hội, đổi mới tư duy trong
nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Theo tác giả, đổi mới tư duy không
18


chỉ đổi mới về nội dung, mà quan trọng hơn là phải đổi mới cả về trình độ tư
duy. Đây là một trong số ít các công trình bàn một cách trực diện về vấn đề
đổi mới tư duy và đổi mới tư duy trên một số lĩnh vực cụ thể, là tài liệu tham
khảo trực tiếp cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án, tuy nhiên với
cách tiếp cận và cách hiểu khác về đổi mới tư duy chính trị nên chúng tôi sẽ
lựa chọn các nội dung phân tích đổi mới tư duy chính trị ở các lát cắt khác với
cách hiểu của tác giả công trình này.
Bên cạnh các công trình trên đây, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí
cũng đã đề cập đến vấn đề đổi mới tư duy. Trong bài viết “Một số vấn đề về
tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở nước ta” [135], tác giả Hồ Văn Thông đã
khái quát một số nét cơ bản của tư duy trong mối quan hệ với hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Trong bài viết “Quan hệ giữa đổi mới nội dung
tư duy và đổi mới phương pháp tư duy” [109] tác giả Nguyễn Đăng Quang
cho rằng, muốn đổi mới tư duy phải bắt đầu từ việc đổi mới phương pháp tư
duy. Tác giả Nguyễn Quang Thông trong bài “Những đặc trưng cơ bản của
phương pháp tư duy khoa học” [136] đã phân tích mối quan hệ giữa phương
pháp tư duy biện chứng duy vật với phương pháp tư duy của các khoa học cụ

thể. Tác giả Tô Duy Hợp trong bài viết “Phương pháp tư duy - vấn đề kế thừa
và đổi mới [69] đã làm rõ một số khái niệm như phương pháp, phương pháp
tư duy, phương pháp nhận thức, phương pháp hành động; chỉ ra sự thống nhất
và khác biệt giữa phương pháp tư duy khoa học với phương pháp tư duy lý
luận và phương pháp tư duy biện chứng. Tác giả Trần Hữu Tiến trong bài
“Đổi mới tư duy lý luận - vấn đề cấp bách hiện nay” [137] đã chỉ ra những
"căn bệnh" trong tư duy lý luận của chúng ta, nguyên nhân và các biện pháp
và phương hướng khắc phục. Trong bài “Đổi mới tư duy lý luận. Tư duy lý
luận trong sự nghiệp đổi mới” [140], tác giả Lại Văn Toàn đã chỉ ra phương
hướng và biện pháp đổi mới tư duy lý luận ở nước ta hiện nay. Gần đây nhất
có các bài viết: “Đổi mới tư duy lý luận phục vụ sự nghiệp phát triển đất
19


nước” [119] củaTô Huy Rứa, “Đổi mới tư duy lý luận-Thành tựu và một số
vấn đề đặt ra” [115] (Nguyễn Duy Quý) …
Trên đây là những công trình nghiên cứu chủ yếu về đổi mới, đổi mới tư
duy và tư duy lý luận. Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu từng lĩnh
vực, từng ngành, có công trình nghiên cứu theo vấn đề hoặc những chủ đề
khác nhau của đổi mới. Có công trình nghiên cứu về đổi mới, những biến đổi
về kinh tế - xã hội ở nước ta ở thời kỳ trước và trong đổi mới. Có công trình
nghiên cứu không chỉ phân tích thực trạng, đánh giá tình hình đổi mới, mà
còn đưa ra những dự báo, cách nhìn, cách lý giải về khả năng phát triển tiếp
theo của Việt Nam. Với những khác biệt trong tiếp cận và nghiên cứu sẽ đem
lại những kết quả nghiên cứu, nhận xét, đánh giá, bình luận khác nhau, không
hoàn toàn giống nhau. Chúng tôi trên cơ sở tiếp cận đổi mới tư duy chính trị
là quá trình chuyển biến nhận thức mang tính chất định hướng chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam về một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử sẽ có những tổng quan cụ thể hơn về những đổi mới ở các nội dung cụ
thể ở các phần sau này.

1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung của quá trình
đổi mới tƣ duy chính trị từ năm 1986 đến nay ở Việt Nam
1.2.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới tư duy chính trị
về xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong đổi mới tư duy chính trị có đổi mới tư duy chính trị về xác định
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất. Vì thế, vấn đề
này đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu.
Tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo chiều lịch đại, cuốn sách
Quá trình hình thành và phát triển Quan điểm lý luận của Đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội [56]do tác giả Trần Hậu chủ biên (1997) phân
tích những giai đoạn phát triển quan điểm lý luận của Đảng ta về con đường
20


đi lên chủ nghĩa xã hội theo các thời kỳ lịch sử. Giai đoạn 1945- 1954 là giai
đoạn tiếp tục hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, bước đầu chuẩn bị lý
luận cho chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm giai đoạn này là mới đặt ra về mặt lý
luận vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn từ sau năm 1954 là giai
đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã được giải phóng, tiếp tục
hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc trong cả nước. Ở mỗi chặng đường,
nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên CNXH đều gắn liền với thực tiễn
trong nước và thế giới và với những yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng. Nhìn
lại quá trình nhận thức lý luận trong mối quan hệ hữu cơ với thực tiễn cách
mạng giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn thực chất nội dung trong quan điểm
đường lối của Đảng ta. Từ sự phân tích đó, tác giả đã chỉ ra những đặc điểm
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời làm sáng tỏ quá trình hình
thành, phát triển đường lối đổi mới theo định hướng XHCN và rút ra những
bài học kinh nghiệm từ góc độ lịch sử.
Phân tích những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam [97], các tác giả Nguyễn Quốc Phẩm và Đỗ Thị
Thạch (2012) đã tổng kết và khái quát lại những vấn đề cơ bản trong nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong 25
năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 (có so sánh với thời
kỳ trước đổi mới); bước đầu dự báo những xu hướng và triển vọng của chủ
nghĩa xã hội Việt Nam trong vài thập niên tiếp theo, đưa ra những giải pháp
góp phần nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội nhằm tạo lập sự thống nhất
nhận thức và hành động, khẳng định niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bên cạnh các công trình này, không thể không nhắc đến công trình 3 tập
của tác giả Hoàng Chí Bảo về chủ nghĩa xã hội xuất bản năm 2012. Mỗi tập
đều hướng tới chủ đề về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong
tiến tình đổi mới, đều xoay quanh hai câu hỏi lớn là chủ nghĩa xã hội là gì và
xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào.
21


Tập đầu (2012) của bộ sách này hướng đến việc làm rõ giá trị bền
vững và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học
[8]. Trong tập này, tác giả trình bày tư tưởng về phát triển xã hội của Mác Ăngghen và Lênin, quan niệm của các nhà kinh điển về chế độ xã hội, quyền
con người và quyền công dân. Tác giả cũng phân tích giá trị, sức sống và ý
nghĩa tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (tác phẩm đánh dấu sự
thành thục của chủ nghĩa Mác, sự phê phán của Mác - Ăngghen đối với các
trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa ở thế kỷ XIX). Trong tập
2(2012), với tựa đề “Chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam” [9], tác giả phân tích lịch sử, lý luận, hiện trạng và triển vọng
của CNXH hiện thực. Đáng chú ý trong tập sách này là những phân tích của
tác giả về đổi mới ở Việt Nam đã dẫn đến sự hình thành nhận thức mới về
CNXH, về những đặc trưng của CNXH và xác định được con đường, bước đi,
phương hướng xây dựng CHXH phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tác giả cho

rằng, quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là khả năng, là xu
hướng phát triển tất yếu của các nước lạc hậu, tiền tư bản trong thời đại ngày
nay. Lựa chọn con đường phát triển này, là giác ngộ cái tất yếu, là kết quả
nhận thức tự giác, khoa học của chủ thể. Theo tác giả, bước vào thời kỳ đổi
mới, Đảng ta xác định đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khái niệm
“định hướng xã hội chủ nghĩa”, về mặt lý luận, ở cấp độ khái quát và định
tính có thể được xem là tương đương, đồng nghĩa với khái niệm quá độ lên
CNXH. Tác giả cũng khẳng định rằng, từ định hướng tới định hình, đó là thời
gian lịch sử của thời kỳ quá độ với nhiệm vụ cụ thể, với những khác nhau về
trọng điểm ở mỗi giai đoạn, về nội dung và cả bước đi. Ý nghĩa của việc xác
định đó là ở chỗ, việc hoạnh định và áp dụng các giải pháp, biện pháp phải
phù hợp với yêu cầu và tính chất của mỗi giai đoạn, mỗi bước đi của thời kỳ
quá độ.
22


×