Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Văn hóa người Hà Nội trên báo in thủ đô hiện nay: Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng: 60 32 01 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN KIM HUYỀN

VĂN HÓA NGƯỜI HÀ NỘI
TRÊN BÁO IN THỦ ĐÔ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội - 2016

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN KIM HUYỀN

VĂN HÓA NGƯỜI HÀ NỘI
TRÊN BÁO IN THỦ ĐÔ HIỆN NAY

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN DOÃN TIẾN



Hà Nội - 2016
2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình này do tôi thực hiện, những tư liệu trong
luận văn được khai thác, thu thập từ quá trình khảo sát, phỏng vấn và các tài
liệu tham khảo được trích dẫn nguồn đầy đủ. Nếu có gì sai phạm tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm./.
Học viên

Trần Kim Huyền

3


LỜI CẢM ƠN
Trải qua hai năm học tập và nghiên cứu tại khoa Báo chí và Truyền
thông, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, bản thân tôi đã thu nhận
được rất nhiều điều bổ ích, từ những kiến thức tổng hợp về những điều cơ bản
trong nghiên cứu khoa học cho tới những kiến thức chuyên ngành. Những
điều thu nhận được trên đây không chỉ do sự tiếp thu của bản thân mà còn có
sự hướng dẫn và truyền cảm hứng lớn lao, đầy ý nghĩa của các thầy cô giảng
dạy tại khoa Báo chí và Truyền thông. Từ những kiến thức căn bản trên giảng
đường, cho tới những buổi thảo luận, nghiên cứu thực tế, đã giúp tôi có một
cái nhìn tường minh và khách quan về nghề báo nói riêng và nhiều mặt của
đời sống xã hội hiện nay nói chung.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài Luận văn Thạc sỹ, tôi

xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới TS. Trần Doãn Tiến – Tổng biên tập Tạp chí
Tuyên giáo Trung ương, Thầy hướng dẫn Luận văn của tôi. Trong quá trình
làm Luận văn, Thầy đã nhiệt tình chỉ bảo, gợi mở những hướng nghiên cứu
khả quan và đã thông cảm cho những khó khăn mà tôi gặp phải.
Để có được Luận văn này, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và
tập thể Ban Biên tập báo Hà Nội mới, Báo Tuổi trẻ Thủ đô, Báo An ninh Thủ
đô đã tạo điểu kiện nhiều mặt, đặc biệt là tiếp cận tư liệu phục vụ khảo sát để
tôi có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu. Bên cạnh đó, xin trân trọng cảm ơn các
anh, chị, em, đồng nghiệp và gia đình đã nhiệt thành hỗ trợ tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các anh, các chị
và các bạn đã giúp tôi hoàn thành Luận văn này.
Hà Nội ngày 20 tháng 01 năm 2016

MỤC LỤC

4


5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANTĐ

: An ninh Thủ đô

6



HNM

: Hà Nội mới

TTTĐ

: Tuổi trẻ Thủ đô

HN

: Hà Nội

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

NXB

: Nhà xuất bản

GS

: Giáo sư

PGS

: Phó giáo sư

TSKH


: Tiến sĩ khoa học

TS

: Tiến sĩ

Tr

: Trang

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

7


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

8


Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển
biến và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, so với những thành tựu
trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu
trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây
dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Trước thực trạng đó, Hội
nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị
quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, về xây dựng và phát triển văn hóa, con

người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, nhằm tiếp tục
định hướng và đề ra những mục tiêu cụ thể cho công tác xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước.
Trong nội dung về nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết, Hội nghị xác định
cụ thể: “Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển,
bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và
cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan báo chí, truyền thông chủ lực”.
Như vậy, có thể thấy, trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam nói chung, báo chí có vai trò quan trọng.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm văn hiến của đất nước, nơi hội tụ những
tinh hoa văn hóa của dân tộc. Con người Hà Nội là kết tinh những nét văn hóa
đó, hình thành nên tên gọi riêng của con người - văn hóa đất Hà thành, mà
không ở đâu có: Văn hóa “Người Hà Nội”.
Theo sự phát triển của xã hội, sự tiếp biến với nhiều nền văn hóa khác
nhau cùng với quá trình hội nhập quốc tế, những giá trị tinh túy của văn hóa
con người Hà Nội vẫn được lưu giữ, song nhiều giá trị cũng bị mai một hoặc
mất đi. Nếu không được bảo lưu, gìn giữ, từ trong mỗi nếp nhà, rộng ra là
toàn xã hội, những giá trị đó sẽ ngày càng thu hẹp. Văn hóa “Người Hà Nội”
mai một, văn hóa của thủ đô nghìn năm văn hiến cũng sẽ mai một.

9


Một trong những chức năng quan trọng nhất của báo chí là chức năng
tư tưởng. Chức năng có tính mục đích đầu tiên trong hoạt động tư tưởng của
báo chí chính là nâng cao tính tự giác của quần chúng nhân dân. Để nâng cao
tính tự giác của quần chúng, nhiệm vụ đặt ra cho báo chí là phát triển nhận
thức của họ, trong đó có nhận thức về văn hóa, từ đó hình thành, bồi đắp thế
giới quan, nhân sinh quan, biến thành những hành động, ứng xử văn hóa một

cách tự giác. Vai trò của báo chí trong xây dựng và phát triển văn hóa con
người là rất quan trọng.
Thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó, hệ thống báo chí Thủ đô Hà Nội
nói chung và hệ thống báo in Hà Nội nói riêng đã có những đóng góp quan
trọng trong xây dựng và phát triển nền văn hóa, văn hiến Hà Nội nói chung,
mà hạt nhân là văn hóa rất riêng và đặc trưng của “Người Hà Nội”… Tuy
nhiên, hệ thống báo in Thủ đô vẫn còn không ít những hạn chế, bất cập, chưa
thật sự đáp ứng yêu cầu của công tác tuyên truyền, cổ vũ các tầng lớp nhân
dân trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Hà Nội.
Để thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, việc nâng cao hiệu
quả của báo in Hà Nội trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển bền vững Thủ đô
Hà Nội có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với ý nghĩa đó, tác giả
lựa chọn vấn đề “Văn hóa người Hà Nội trên báo in Thủ đô hiện nay” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về đề tài văn hóa, báo chí nói chung và đề tài văn hóa con
người Thủ đô cũng như tác động của báo chí (trong đó có báo in) Hà Nội đến
quá trình xây dựng, phát triển văn hóa con người Thủ đô nói riêng, nhiều học
giả đã quan tâm và có những công trình nghiên cứu về những vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu bao gồm các sách, giáo trình, các luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và nhiều báo cáo khoa học liên quan đến đề tài văn

10


hóa, báo chí, báo in nói chung và đề tài tác động của báo chí, trong đó có báo
in đến quá trình hình thành, phát triển văn hóa con người Thủ đô nói riêng.
Trong phạm vi của đề tài, tác giả xin trích dẫn một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu dưới đây:
2.1. Các luận án tiến sĩ

Đã có nhiều luận án tiến sĩ nghiên cứu các đề tài về văn hóa, báo chí
nói chung và đề tài tác động của báo chí đến quá trình hình thành, phát triển
văn hóa con người Thủ đô nói riêng, trong đó, nổi bật như:
- Luận án tiến sĩ văn hóa học “Biến đổi của văn hóa đô thị Hà Nội từ
năm 1986 đến nay - thực trạng và xu hướng” của tác giả Phan Đăng Long tại
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, bảo vệ ngày 24-2-2011.
Luận án này đã phân tích một số xu hướng biến đổi văn hóa đô thị Hà
Nội từ 1986 đến năm 2011, chủ yếu khu vực nội thành cũ. Từ đó đề xuất định
hướng, giải pháp điều tiết quá trình biến đổi văn hóa đô thị Hà Nội trong thời
gian tới.
Xem xét mức độ liên quan đến đề tài mà tác giả đang nghiên cứu, cả
hai công trình trên đều hướng đến tìm hiểu về văn hóa con người Hà Nội, tuy
nhiên về thời điểm nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu lại khác nhau. Đề tài
của tác giả Phan Đăng Long tập trung nghiên cứu về văn hóa đô thị, về thực
trạng và giải pháp, không tập trung khai thác tác động của báo chí (báo in)
đến việc biến đổi văn hóa con người Hà Nội. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
của luận án cũng là một nền tảng quan trọng để tác giả có thể sử dụng làm
nguồn tài liệu tham khảo cho đề tài nghiên cứu của mình.
- Luận án tiến sĩ triết học “Quan điểm của C.Mác về phát triển con
người và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay” (2003) của tác giả Nguyễn Văn
Sơn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Luận án đã luận giải và làm rõ quan điểm của C.Mác về phát triển con
người, phân tích và luận giải tính đúng đắn, sự vận dụng sáng tạo quan điểm

11


của C.Mác về phát triển con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong chiến
lược phát triển con người Việt Nam hiện nay.
Xem xét mức độ liên quan đến đề tài tác giả đang nghiên cứu, cả hai đề

tài đều khai thác vấn đề phát triển con người và tập trung khai thác chiến lược
phát triển con người Việt Nam hiện nay, đồng thời thời điểm nghiên cứu cũng
tương đồng nhau (Giai đoạn 2013-2014).
- Luận án tiến sĩ Truyền thông đại chúng “Vai trò báo chí trong định
hướng dư luận xã hội” (2010) của tác giả Đỗ Chí Nghĩa (Học viện Báo chí và
Tuyên truyền).
Trên cơ sở nghiên cứu nền tảng lý luận và khảo sát thực tiễn, luận án
đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế trong tình hình định hướng dư luận xã hội
của báo chí hiện nay. Từ đó, tác giả tìm kiếm giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả định hướng dư luận xã hội của báo chí, góp phần tích cực hóa đời sống.
Xét về mức độ liên quan với đề tài tác giả đang nghiên cứu, đây là luận
án về đề tài vai trò của báo chí nói chung và vai trò của báo chí trong định
hướng dư luận xã hội nói riêng. Sử dụng các dữ liệu thứ cấp của luận án này
sẽ giúp ích cho tác giả trong quá trình nghiên cứu luận văn.
- Luận án tiến sĩ báo chí “Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công
chúng Hà Nội” (2008) của tác giả Trần Bá Dung (Học viện Báo chí và Tuyên
truyền).
Đề tài này đã tiếp cận những vấn đề lý thuyết về nghiên cứu công
chúng báo chí; cơ sở lí thuyết, phương pháp luận và cơ sở thực tiễn của việc
nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng ở Hà Nội.
Mặc dù thời điểm nghiên cứu không trùng với đề tài của tác giả nhưng
xét về nội dung và phạm vi nghiên cứu, cả hai đề tài này đều tập trung khai
thác những tác động của báo chí đến đời sống, văn hóa con người và cả hai đề
tài cùng khai thác phạm vi ở địa bàn Hà Nội, vì vậy, các dữ liệu trong công

12


trình này có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả
trong quá trình hoàn thành luận văn.

2.2. Các báo cáo khoa học khác
Các báo cáo khoa học khác liên quan đến đề tài văn hóa, báo chí nói
chung và đề tài tác động của báo chí đến quá trình hình thành, phát triển văn
hóa con người Thủ đô nói riêng có thể kể bao gồm:
- Bài tham luận của nhà báo Phan Quang tại Hội thảo về Văn hóa
truyền thông trong thời kỳ hội nhập được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 22-22012 với chủ đề “Báo chí và văn hóa”.
Bài tham luận đã đưa ra nhận định rằng: “Báo chí không đơn thuần làm
công việc chuyển tải văn hóa một cách thụ động mà phải chủ động sàng lọc
khi quảng bá văn hóa đại chúng, không tiếp tay cho những hành vi phản cảm
trong hoạt động văn hóa nghệ thuật...”. Thông qua những nhận định từ bài
tham luận, vấn đề mối quan hệ chặt chẽ giữa báo chí và văn hóa đã được nhà
báo Phan Quang tìm hiểu và làm rõ.
Bài tham luận và đề tài nghiên cứu của tác giả đều liên quan đến vấn đề
mối quan hệ giữa báo chí và văn hóa, tác động của báo chí đến việc hình
thành và phát triển văn hóa con người, tuy nhiên, bài tham luận mang tính
tổng quát hơn, đề tài luận văn của tác giả chỉ tập trung nghiên cứu đến những
vấn đề trong phạm vi con người Hà Nội và báo chí Thủ đô.
- TS. Nguyễn Ánh Hồng với báo cáo “Báo chí và văn hóa Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế” từ Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà
Nội.
Theo báo cáo của tác giả, báo chí là yếu tố văn hóa ngoại sinh khi văn
hóa Việt Nam cấu trúc lại chính mình trong giao lưu tiếp biến với văn hóa
phương Tây. Văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới khi tham gia vào lao động
sáng tạo báo chí của người làm báo, góp phần định hình phong cách của nhà
báo. Làm báo trong thời kỳ hội nhập, giao lưu văn hóa toàn cầu hôm nay

13


không thể không chú ý tới mối quan hệ tương tác biện chứng giữa văn hóa và

báo chí và vấn đề nâng cao tính văn hóa của đội ngũ người làm báo để đáp
ứng yêu cầu của chính cuộc sống bởi không gian báo chí Việt Nam đã vươn
xa, vươn rộng khắp hoàn cầu.
Như vậy, với báo cáo khoa học “Báo chí và văn hóa Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế”, Tiến sĩ Nguyễn Ánh Hồng đã đề cập đến vấn đề
định hình văn hóa con người nhìn từ vai trò của báo chí.
Khi xem xét mức độ liên quan giữa báo cáo khoa học trên với đề tài
nghiên cứu của tác giả, có thể thấy cả hai hướng nghiên cứu đều trực tiếp khai
thác nội dung về tác động của báo chí đến quá trình hình thành, phát triển văn
hóa, tuy nhiên, đề tài tác giả nghiên cứu có phạm vi nghiên cứu cụ thể hơn là
tại địa bàn thành phố Hà Nội.
- Báo cáo tổng kết từ Hội thảo “Xây dựng phát triển văn hóa và con
người Thủ đô qua 30 năm đổi mới” được tổ chức tại Thành ủy Hà Nội vào
tháng 3 năm 2014 với sự tham gia của hàng chục chuyên gia đầu ngành.
Báo cáo tổng kết từ Hội thảo đã làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến
tình hình chính trị, văn hóa và xã hội của Thủ đô, nổi bật là các nội dung sau:
+ Đánh giá khái quát tình hình kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và
phát triển con người Thủ đô trong gần 30 năm đổi mới.
+ Xây dựng và thực hiện những chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm
phát triển văn hóa Hà Nội, bảo tồn các di sản văn hóa và tạo ra môi trường
thúc đẩy sự sáng tạo văn học nghệ thuật, cùng lúc củng cố hoàn thiện thể chế
văn hóa.
+ Tham luận ở một số nội dung như: Nhận thức của Đảng cũng như
Đảng bộ TP Hà Nội về xây dựng con người trong phát triển đất nước; Đánh
giá kết quả công tác xây dựng con người Thủ đô trong 30 năm, đặc biệt trong
10 năm trở lại đây, nhất là khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính.

14



Nội dung của Báo cáo với đề tài mà tác giả đang nghiên cứu đều tập
trung tìm hiểu khía cạnh văn hóa con người Thủ đô trong cùng một thời điểm,
tuy nhiên, đề tài của tác giả lại hướng sâu hơn vào tác động của báo chí tới
quá trình xây dựng văn hóa con người Thủ đô.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có rất nhiều đề tài khác có
liên quan đến vấn đề mà tác giả đang nghiên cứu, tuy nhiên, trong phạm vi
của đề tài, tác giả chỉ xin trích dẫn một số công trình như trên.
2.3. Tổng quan chung
Số lượng các công trình nghiên cứu về văn hóa báo chí nói chung và đề
tài văn hóa con người Thủ đô cũng như tác động của báo chí Hà Nội đến quá
trình xây dựng, phát triển văn hóa con người Thủ đô nói riêng cũng khá
nhiều, tuy nhiên, xét về nội dung nghiên cứu về tác động của báo chí Hà Nội
đối với việc xây dựng và phát triển văn hóa con người Thủ đô theo Nghị
quyết đưa ra từ Hội nghị Trung ương 9, khóa XI của Đảng và xét trong thời
điểm nghiên cứu hiện nay thì chưa có công trình nghiên cứu nào, vì vậy, việc
lựa chọn đề tài nghiên cứu “Văn hóa người Hà Nội trên báo in Thủ đô hiện
nay” là hoàn toàn mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng văn hóa con người
Việt Nam nói chung, văn hóa người Hà Nội nói riêng và vai trò của báo chí
(báo in) trong việc tuyên truyền xây dựng và phát triển văn hóa người Hà Nội
hiện nay; đánh giá đúng những ưu, khuyết điểm của còn tồn tại trong công tác
tuyên truyền qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tuyên
truyền của báo in Thủ đô trong xây dựng và phát triển văn hóa con người Hà
Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

15



Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm ba nhiệm vụ chính, cụ thể
như sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về báo in Thủ đô và văn hóa người Hà Nội,
giải mã văn hóa Hà Nội; qua đó chỉ ra quan hệ truyền thông giữa văn hóa
người Hà Nội và báo in Thủ đô hiện nay.
- Phân tích thực trạng công tác thông tin về văn hóa người Hà Nội qua
khảo sát các tác phẩm báo chí trên 3 tờ báo in Thủ đô hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm chất lượng thông tin về văn hóa người
Hà Nội trên báo im Thủ đô hiện nay
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là nghiên cứu nội dung và hình thức, phương
pháp thông tin về văn hóa người Hà Nội hiện nay trên các tác phẩm báo chí
của 3 tờ báo in Thủ đô.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng khảo sát: các tác phẩm báo chí của 3 cơ quan báo in tại Hà
Nội, cụ thể: Báo Hà Nội mới, Báo An ninh Thủ đô và Báo Tuổi trẻ Thủ đô.
+ Báo Hà Nội mới: cơ quan báo chí trực thuộc Thành ủy Hà Nội, là cơ
quan ngôn luận của Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố và là diễn đàn của
nhân dân Thủ đô.
+ Báo An ninh Thủ đô: cơ quan báo chí trực thuộc Công an thành phố
Hà Nội với nhiệm vụ là cơ quan ngôn luận của Cơ quan Công an Thành phố
Hà Nội; cơ quan báo chí phản ánh các thông tin chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh - quốc phòng và thông tin quốc tế.
+ Báo Tuổi trẻ Thủ đô: cơ quan báo chí trực thuộc Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh thành phố Hà Nội, là cơ quan ngôn luận của Thành đoàn Hà Nội và là
diễn đàn của thế hệ trẻ Thủ đô.

16



- Thời gian khảo sát: Nghiên cứu, khảo sát từ tháng 01/01/2015 đến
30/06/2015
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng tham khảo thêm những tài
liệu có liên quan đến luận văn trong một số sách, báo, các hội thảo khoa học
để có những ví dụ trích dẫn phù hợp với nội dung nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở hệ thống lý luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, nhất là các tư tưởng, quan điểm về báo chí; đường lối của Đảng
về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí.
- Luận văn sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận
cơ bản về về báo chí, báo in, về văn hóa và mối quan hệ giữa báo chí và việc
tuyên truyền của báo in Thủ đô với nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa
người Hà Nội hiện nay.
+ Phương pháp thu thập tài liệu: Khảo sát trên 3 báo in: Hà Nội mới,
An ninh Thủ đô và Tuổi trẻ Thủ đô nhằm thu thập toàn bộ các bài báo có liên
quan đến vấn đề văn hóa người Hà Nội từ 01/01/2015 đến 30/06/2015; qua đó
hệ thống số lượng bài báo, vấn đề phản ảnh, chất lượng tin bài... để phân tích
thực trạng và là cơ sở đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về văn
hóa người Hà Nội trên báo in Thủ đô hiện nay.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Xây dựng bộ câu hỏi, phỏng vấn sâu
các chuyên gia báo chí, lãnh đạo các cơ quan báo in Hà Nội, các phóng viên
báo in trực tiếp viết bài, tuyên truyền về văn hóa người Hà Nội để làm rõ mức
độ quan tâm, phản ánh về nội dung đề tài luận văn nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra xã hội học: lập bảng hỏi, điều tra xã hội học từ
400 đến 500 mẫu tiêu biểu về độ tuổi, giới tính, trình độ... để tìm hiểu và

17



phân tích thực trạng công tác tuyên truyền, phản ánh về văn hóa người Hà
Nội trên báo in Thủ đô hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của đề tài
Về ý nghĩa lý luận, đề tài góp phần giải mã được văn hóa người Hà Nội
trong tổng thể văn hóa Việt Nam, đồng thời qua phân tích thấy được mối
quan hệ truyền thông giữa báo in Thủ đô nói riêng với vấn đề thông tin về
văn hóa người Hà Nội. Đây sẽ là nguồn tài liệu được tổng hợp để sử dụng
trong các nghiên cứu sau này về đề tài văn hóa con người Việt Nam nói
chung và văn hóa người Hà Nội nói riêng cũng như chất lượng công tác thông
tin của báo chí đến quá trình xây dựng, phát triển văn hóa con người hiện nay.
Đồng thời, đề tài cũng có giá trị thực tiễn đối với riêng địa bàn Hà Nội
trong việc xây dựng và phát triển văn hóa con người Thủ đô cũng như phát
huy vai trò của báo in Hà Nội theo tinh thần Nghị Quyết Hội nghị Trung
ương 9, khóa XI đã đề cập.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn bao gồm 3 chương chính:
Chương 1: Quan hệ truyền thông giữa văn hóa người Hà Nội và báo in
Thủ đô
Chương 2: Phân tích thực trạng thông tin về văn hóa người Hà Nội
trên báo in Thủ đô hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về văn hóa người
Hà Nội trên báo in Thủ đô hiện nay

18


CHƯƠNG 1: QUAN HỆ TRUYỀN THÔNG GIỮA VĂN HÓA

NGƯỜI HÀ NỘI VÀ BÁO IN THỦ ĐÔ
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Khái niệm về văn hóa và không gian văn hóa Việt Nam
1.1.1.1 Khái niệm về văn hóa
Theo nghĩa phổ biến và thông dụng nhất, văn hóa là những nét tinh hoa,
những nét đẹp của đời sống cộng đồng hoặc là cách ứng xử giữa con người
với nhau trong xã hội. Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo
ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính
văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và
trật tự xã hội. Tùy mỗi dân tộc, thời đại, tùy thuộc vào trình độ phát triển và vị
trí địa lý, hoàn cảnh lịch sử mà những nhà nghiên cứu đưa ra những cách tiếp
cận khác nhau về văn hóa, bởi vì văn hóa là một hiện tượng mang tính xã hội,
tính lịch sử và tính nhân văn sâu sắc.
Trên thế giới có rất nhiều những nhà khoa học nghiên cứu về văn hóa
và đưa ra những khái niệm văn hóa khác nhau, điển hình như nhà nhân loại
học người Anh Edward Burnett Tylor (1832-1917) đã định nghĩa văn hóa như
sau: Văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là một
tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận
được với tư cách là một thành viên của xã hội.[43, tr.13]
Việc xác định khái niệm văn hóa không đơn giản, bởi vì mỗi một học
giả đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng phù
hợp với vấn đề mình cần nghiên cứu để đưa ra các khái niệm về văn hóa, mỗi
định nghĩa chỉ ra những mặt riêng của hiện tượng văn hóa. Theo Ngài
Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho rằng: “Văn hóa là tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các động đồng) trong
quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động đó hình thành nên hệ thống
các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố xác định đặc tính riêng
của dân tộc ”. [44, tr.16]
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều cách định nghĩa về văn hoá, từ năm

1938, trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương”, Giáo sư Đào Duy Anh đã
tiếp cận và cho rằng “Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các
19


phương diện sinh hoạt của con người, cho nên ta có thể nói rằng văn hóa là
sinh hoạt.” [1, tr.13]. Như vậy, với cách tiếp cận của tác giả Đào Duy Anh,
phạm trù văn hóa có phạm vi rất rộng, bao hàm tất cả các phương diện sinh
hoạt của loài người, từ sinh hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần cho đến sinh
hoạt xã hội. Sinh hoạt mà tác giả Đào Duy Anh dùng để chỉ văn hóa trong
khái niệm này không phải là những sinh hoạt đơn thuần trong cuộc sống hàng
ngày mà là những sinh hoạt sáng tạo ra những giá trị văn hóa. Ông cho rằng
tất cả những biểu hiện những trạng thái sinh hoạt của loài người kết tinh thành
những hình thức tương đương mà ta gọi là giá trị văn hóa. Từ đó, ông đi đến
một định nghĩa “Văn hóa là những giá trị biểu hiện cuộc sống sinh hoạt
mạnh mẽ của loài người trong cả phương diện vật chất, tinh thần xã hội” [1,
tr.13].
Trên cơ sở đó, trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của GS.VS Trần
Ngọc Thêm đã phát triển và làm rõ hơn về khái niệm văn hóa, Ông phân tích
và đưa ra định nghĩa: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.[41, tr.25].
Nghiên cứu về văn hóa không thể nào không tiếp cận định nghĩa văn
hóa của Hồ Chí Minh vì định nghĩa văn hóa của Người là một sáng tạo lớn,
một phát hiện lớn đóng góp cho tư duy nhân loại. Từ năm 1943, Người đã
viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức

là văn hoá. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. [ 26, tr.16]
Đây có thể nói là định nghĩa bao quát, toàn diện nhất về văn hóa mà
chúng ta có thể tiếp cận đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu văn hóa học. Bởi
định nghĩa cho rằn văn hóa là tổng hòa mọi giá trị vật chất và tinh thần do con
người làm ra mà UNESCO đề xuất cuối những năm 80 của thế kỷ XX ra đời
sau định nghĩa của Hồ Chí Minh gần nửa thế kỷ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
20


văn hóa đã mở ra con đường để văn hóa đi sâu vào mọi mặt của đời sống xã
hội.Và qua đó cũng có thể khẳng định, văn hóa là nền tảng của xã hội, mọi
hoạt động của xã hội xét đến cùng đều là những hoạt động văn hóa.
Mỗi vị học giả, nhà nghiên cứu đều có cơ sở khoa học và nền tảng
nghiên cứu để đưa ra các định nghĩa về văn hóa, tuy nhiên, trong phạm vi của
Luận văn thực hiện, cùng với những kiến thức cơ bản được học và sự truyền
giảng của PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái, tác giả cho rằng để nâng cao chất
lượng thông tin về văn hóa người Hà Nội trên báo in Thủ đô hiện nay, thì
trọng tâm chính là nâng cao chất lượng thông điệp của các sản phẩm báo chí,
xét đến cùng chính là những sản phẩm văn hóa qua quá trình truyền thông, trở
thành văn hóa đại chúng. Sau khi quá trình truyền thông được thực hiện, hiệu
quả đối với độc giả - chính là những người thụ hưởng văn hóa sẽ được tác
động ngược trở lại cộng đồng xã hội nói chung và tương tác chính với những
người làm báo nói riêng. Và để đưa ra hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả
tuyên truyền văn hóa người Hà Nội trên báo in Thủ đô không thể không
nghiên cứu thấu đáo khái niệm này và hệ thống lý thuyết về văn hóa.
1.1.1.2 Không gian văn hóa Việt Nam
Khi nói đến giá trị văn hóa truyền thống là nói đến những chuẩn mực
văn hóa được mọi người tin tưởng, chúng xác định những cái mà con người

mơ ước để hướng tới. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con
người. Nhưng có một thực tế là, mỗi dân tộc lại có những đặc tính giá trị văn
hóa riêng của mình và chính điều này làm cho văn hóa của dân tộc này khác
với văn hóa của dân tộc khác. Đồng thời, có những giá trị văn hóa ở thời điểm
này là chuẩn mực, là khuôn mẫu, nhưng ở giai đoạn khác, cũng chính những
yếu tố văn hóa đó, lại trở nên lỗi thời, thậm chí bị phê phán. Mỗi dân tộc tùy
hoàn cảnh cụ thể mà có những đóng góp riêng cho văn hóa chung của nhân
loại. Khi nói về những giá trị văn hóa của một quốc gia cụ thể nào đó đối với
những giá trị chung, có nghĩa là chúng ta nói đến những giá trị của tộc người
(Ethnie) đó, của một dân tộc (Nation-État) cụ thể vượt ra khỏi giới hạn lãnh
thổ của tộc người đó (của quốc gia đó) có tầm ảnh hưởng đến những quốc gia
(những tộc người) khác.
Trong tổng thể nền văn hóa chung của thế giới, người ta chia làm hai
loại hình văn hóa chính: Văn hóa gốc nông nghiệp (phương Đông) và văn hóa
21


gốc du mục (phương Tây), trong đó Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp điển hình. Chính vì lẽ đó mà đã từ lâu, đời sống nông nghiệp đã
ảnh hưởng rất lớn đến tính cách sống của con người Việt Nam. Chính từ cội
nguồn văn hóa mà người Việt Nam từ cách sống, cách sinh hoạt cho tới lối tư
duy, cách suy nghĩ nhận thức đều chịu sự chi phối của nguồn cội văn hóa.
Cùng với cội nguồn văn hóa gốc nông nghiệp, dựa vào vị trí địa lý, điều kiện
phát triển và cư dân sinh sống, sau năm 1975, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã
chia Không gian văn hóa Việt Nam thành 06 vùng văn hóa, gồm có:
+ Vùng văn hóa Tây Bắc
+ Vùng văn hóa Việt Bắc
+ Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ
+ Vùng văn hóa Trung Bộ
+ Vùng văn hóa Tây Nguyên

+ Vùng văn hóa Nam Bộ
Trong quá trình phát triển, mỗi dân tộc đều sáng tạo cho mình một nền
văn hóa riêng. Trải qua thời gian, những thành tố văn hóa đó không ngừng
được bổ sung, đồng thời những thành tố không còn phù hợp có thể tiêu biến,
hoặc thay đổi để phù hợp với môi trường mới. Người Việt hàng ngàn năm
nay, một mặt, vừa chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, với các kẻ thù xâm
lược, mặt khác, đã sáng tạo cho mình những giá trị văn hóa mang đậm đã bản
sắc dân tộc, đồng thời, lại tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa ngoại
sinh, làm phong phú văn hóa Việt. Tất cả những giá trị văn hóa đó đã tạo nên
bản sắc và sức mạnh để Việt Nam tiếp bước trên con đường phát triển. Tóm
lại, trong nền văn hóa đó, mỗi con người Việt Nam đều phải có thái độ ứng
xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, đồng thời đều có nhu cầu
bức thiết tồn tại đó là các hoạt động ăn, mặc, ở, đi lại; đúng như sự sinh hoạt
trong định nghĩa văn hóa của Giáo sư Đào Duy Anh.
Cùng với sự phát triển của đất nước, trong thời kỳ đổi mới hiện nay,
Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung ương 5 khóa
VIII (1998) đưa ra đến nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo
quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế
22


thừa, bổ sung và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã
nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với
phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội”.[16, tr.58,59]
1.1.2 Vị thế của Hà Nội trong không gian văn hóa Bắc Bộ
Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với

lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước thì Thăng Long – Hà Nội từ
thuở dời đô dựng kinh đã tròn 1000 năm là trung tâm chính trị - văn hóa, đồng
thời là trung tâm lớn về giao thương của cả nước. Đồng thời, với vị trí địa lý
của mình, Hà Nội nằm trong Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, bên cạnh đó,
với vị thế “kinh đô của muôn đời”, Hà Nội còn là nơi phát sinh nền văn hóa
bác học, cũng với các địa danh trong vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã,
Thăng Long - Hà Nội tự mình trở thành một tiểu vùng văn hóa năm trong
vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ này. Không những thế, tiểu vùng văn hóa
Thăng Long – Hà Nội còn là tiểu vùng văn hóa trung tâm, có vị trí quan
trọng, tầm ảnh hưởng lớn đến cả vùng, cả nước. Do vậy, văn hóa Thăng Long
- Hà Nội vừa có tính địa phương lại vừa có tính dân tộc, vừa đặc thù, vừa phổ
biến, vừa đa dạng, vừa có tính năng động của một vùng đô hội Kẻ Chợ, lại
vừa mang tính bền vững của một kinh đô lâu đời. Tất cả những điều đó đã tạo
nên những đặc điểm, những truyền thống riêng của vùng văn hóa “phồn hoa
thứ nhất Long Thành”. Với đầy đủ các điều kiện khách quan và chủ quan,
trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, văn hóa của Thủ đô luôn chiếm một vị trí
quan trọng trong nền văn hóa đất nước hay nói một cách khác, đó là “vốn quý
của văn hóa Việt Nam”.
. Văn hóa Thăng Long - Hà Nội hội tụ nhiều chất liệu, nhiều tinh hoa
của các vùng trong toàn quốc. Sự giao lưu văn hóa của các vùng khác nhau
trong một đất nước là một điều bình thường. Trong giao lưu làm cho văn hóa
của từng vùng tiếp thu được những thành tựu của vùng khác và ngày càng
phong phú hơn. Sự giao lưu còn làm cho văn hóa từng vùng trong khi vẫn
biểu hiện sắc thái đặc thù của nó lại đồng thời có thể hòa đồng với văn hóa
của các vùng khác và tham gia như một bộ phận hợp thành hữu cơ trong tổng
thể văn hóa Việt Nam.
23


Cùng với đó, Văn hóa người Hà Nội nằm trong tổng thể văn hóa Thăng

Long – Hà Nội, đó là một nét đặc trưng riêng có của Thủ đô, nếp sống, nếp
ăn, mặc, sinh hoạt, đi lại và phong cách ứng xử của người Hà Nội từ bao đời
nay được hội tụ, kết tinh từ những tinh hoa văn hóa mọi miền đất nước rồi
mới sinh ra được cái chất thanh lịch ngàn năm. Với 1000 năm lịch sử hình
thành và phát triển đó, những phẩm chất đẹp trong văn hóa người Hà Nội có
sức ảnh hưởng và lan tỏa rộng khắp cả nước.
Như vậy Thăng Long - Hà Nội là nơi chung đúc nhân tài, chung đúc
giá trị văn hóa từ những con người và những thành tựu văn hóa của bốn
phương hội tụ. Đây là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ thuở ban
sơ và hiện nay cũng là tiểu vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền
thống hơn cả. Trên con đường đi tới xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm
đà bản sắc dân tộc, văn hóa Hà Nội, văn hóa Người Hà Nội chính là vốn quý
mang trong mình sứ mệnh và trách nhiệm của một nền văn hóa “nổi bật, rõ
nét và tiêu biểu” cho văn hòa Việt Nam cả từ truyền thống đến hiện đại.
1.1.3 Khái niệm báo in và báo in Thủ đô
1.1.3.1 Khái niệm báo chí
Trong xã hội hiện đại, báo chí ngày càng thể hiện vai trò, vị thế đặc biệt
quan trọng. Báo chí đã và đang đóng góp hết sức to lớn vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Trong
tình hình cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng ngày càng tinh vi và phức tạp,
trong bối cảnh toàn cầu hóa và môi trường truyền thông số hiện nay, báo chí
và truyền thông nói chung có vai trò đặc biệt quan trọng.
“Báo chí” là khái niệm quen thuộc, xuất hiện nhiều trong đời sống xã
hội, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Vậy, khái niệm “báo chí” được hiểu như
thế nào? Trong phạm vi của đề tài, tác giả xin trích dẫn một số khái niệm cơ
bản như sau:
Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Dững, Trưởng khoa Báo chí, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền trong công trình nghiên cứu “Quan điểm của Đảng và
Nhà nước về công tác tư tưởng, lý luận và quản lý báo chí”, Ông cho rằng:
“Báo chí trong trường hợp này được dùng, đươc hiểu theo nghĩa rộng, bao

gồm báo in, báo chí phát thanh, báo chí truyền hình, báo mạng điện tử (“phát

24


hành” trên mạng internet) và hãng thông tấn. Báo chí theo nghĩa hẹp, là bao
gồm báo, tạp chí và bản tin thời sự”.[14, tr.19]
Tại Việt Nam, Luật Báo chí năm 1989, được sửa đổi, bổ sung năm 1999,
đưa ra cách hiểu về báo chí như sau: “Báo chí ở nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống
xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức); là diễn đàn của nhân
dân”.[35, tr.18]
Đây là khái niệm có phạm vi rộng, được hiểu theo nhiều khía cạnh, nội
dung khác nhau. Tuy nhiên, hiểu theo cách nào cũng cần lột tả được bản chất,
đặc điểm và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội.
Nhìn chung, có thể hiểu, “Báo chí” là khái niệm được dùng để chỉ việc
truyền tải thông điệp mang một hay nhiều thông tin cốt lõi thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng, cung cấp nhiều nguồn thông tin cho
công chúng một cách nhanh chóng, hiệu quả nhất và là động lực quan trọng
cho sự phát triển của xã hội.
1.1.3.2 Khái niệm báo in và Báo in Thủ đô
Trong xã hội hiện đại, báo chí ngày càng thể hiện vai trò, vị thế đặc
biệt quan trọng. Báo chí đã và đang đóng góp hết sức to lớn vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong tình hình cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng ngày càng tinh vi và phức
tạp, trong bối cảnh toàn cầu hóa và môi trường truyền thông số hiện nay, báo
chí và truyền thông nói chung có vai trò đặc biệt quan trọng.
Báo chí được phân thành bốn loại hình chính: Báo in, báo phát thanh,
báo truyền hình và báo mạng điện tử, được thể hiện trong sơ đồ sau:


25


×