ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
LÊ TUẤN ANH
NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN VĂN HỌC
Hà Nội – 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
LÊ TUẤN ANH
NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn tốt nghiệp, “Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu” là cơng trình nghiên cứu của tơi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đồn Đức
Phƣơng.
Các số liệu và tài liệu tơi sử dụng trong khóa luận này là trung thực và có
xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn
Lê Tuấn Anh
LỜI CẢM ƠN
Để có thể sớm hồn thành luận văn này tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới
PGS. TS Đồn Đức Phƣơng, người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên
tơi trong q trình làm luận văn tốt nghiệp.
Trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Văn học, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và
tạo mọi điều kiện cho tơi trong suốt thời gian của khóa học.
Trân trọng cảm ơn lãnh đạo trường Sĩ quan Lục quân 1 (Đại học Trần Quốc
Tuấn), khoa Ngoại ngữ - Tiếng Việt đã tạo điều kiện giúp đỡ để tơi có thể hồn
thành khóa học với luận văn này.
Trân trọng cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè thân thiết và gia đình, người thân
đã quan tâm, chia sẻ và tạo điều kiện thuận lợi cho tơi hồn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2018
Học viên
Lê Tuấn Anh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Đầy đủ
ĐH
Đại học
ĐHQG
Đại học Quốc Gia
ĐHSP
Đại học Sư phạm
HN
Hà Nội
KHXH&NV
Khoa học Xã hội và Nhân văn
KHXH
Khoa học Xã hội
Nxb
Nhà xuất bản
NCVH
Nghiên cứu văn học
MỤC LỤC
MỤC LỤC ...................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………… 3
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………………… 4
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu………….…………………..….. 10
4. Phƣơng pháp nghiên cứu…………………………………………………… 10
5. Cấu trúc luận văn………………………………………..………………….. 11
Chƣơng 1 KHÁI LƢỢC VỀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU ............................................................................ 12
1.1. Khái lƣợc về tự sự học và ngƣời kể chuyện............................................. 12
1.1.1. Tự sự học .............................................................................................. 12
1.1.2. Người kể chuyện ................................................................................... 14
1.2. Khái lƣợc về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ....................................... 19
1.2.1. Hành trình sáng tác.............................................................................. 19
1.2.2. Quan điểm nghệ thuật .......................................................................... 23
Chƣơng 2 NGƠI KỂ VÀ ĐIỂM NHÌN CỦA NGƢỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU .............................. 29
2.1. Ngôi kể ........................................................................................................ 29
2.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất ........................................................... 30
2.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba............................................................... 41
2.2. Điểm nhìn trần thuật ................................................................................. 48
2.2.1. Điểm nhìn bên ngồi ............................................................................ 49
2.2.2. Điểm nhìn bên trong .......................................................................... 535
2.2.3. Sự dịch chuyển điểm nhìn ................................................................... 59
Chƣơng 3 NGƠN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU VÀ PHƢƠNG THỨC TRẦN
THUẬT CỦA NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU ............................................................................ 68
1
3.1. Ngôn ngữ và giọng điệu ............................................................................. 68
3.1.1. Ngôn ngữ người kể chuyện.................................................................. 68
3.1.2. Giọng điệu người kể chuyện ................................................................ 71
3.2. Phƣơng thức trần thuật của ngƣời kể chuyện ........................................ 80
3.2.1. Miêu tả và kể chuyện ............................................................................ 81
3.2.2. Dẫn vào mở đầu và tới kết thúc ........................................................... 89
3.2.3. Kể, tả những chi tiết đặc sắc ................................................................ 92
KẾT LUẬN .................................................................................................. 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 97
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học
Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh và thời kỳ đầu của Đổi mới.
Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo vừa lớn lao của
văn học hiện đại Việt Nam cuối thế kỷ XX. Ông là một trong số những tác giả có
tác phẩm được chọn vào chương trình giảng dạy trong nhà trường phổ thông ở
nhiều cấp. Các tác phẩm được được chọn hầu hết là các sáng tác sau 1975 và điều
quan trọng hơn cả đó đều là những truyện ngắn.
Nói đến Nguyễn Minh Châu là nói đến sáng tác của một nhà văn có nghiệp
văn gắn với lịch sử dân tộc một thời, người mà qua sáng tác văn chương có thể thấy
được thăng trầm của số phận con người trong những thời khắc nhất định của lịch sử:
chiến tranh với hào khí của những con người Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước; hậu
chiến với những trăn trở về lẽ đời, lịng người, về giá trị văn hóa đích thực, lâu dài
mà con người cần phải hướng tới, xã hội cần phải quan tâm. Khi nhìn lại văn xi
Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XX, nhiều người đánh giá Nguyễn Minh
Châu là người “đi tiên phong”, “người mở đường” cho một thời kỳ văn học có
những bước chuyển mạnh mẽ. Đóng góp của Nguyễn Minh Châu khơng chỉ ở thể
loại tiểu thuyết mà còn trong những truyện ngắn đa dạng về đề tài và đậm cá tính
sáng tạo. Hơn nữa, sáng tác truyện ngắn của ông đã bộc lộ những đặc tính của một
thể loại ưu việt, mở ra cho văn học những đề tài và vấn đề mới. Để lí giải điều đó
chúng tơi đã chọn đề tài: Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Tự sự là phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương thức là trữ tình
và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học. Khác với các tác phẩm
thuộc loại hình trữ tình, tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của
nó. Đó là sự tái hiện đời sống thơng qua nhận thức, đánh giá, khái quát của nghệ sĩ. Tác
phẩm tự sự dựng lại đời sống bằng cách tập trung phản ánh, ghi lại đời sống, con người
qua các biến cố, sự kiện, qua đó nhằm bộc lộ những mặt nhất định của hiện thực cuộc
sống. Đặc trưng của thể loại tự sự là tái hiện thế giới hiện thực một cách bao quát.
3
Trong tác phẩm tự sự, nhân vật có vai trị vơ cùng quan trọng, nó dẫn dắt các biến
cố, sự kiện tham gia vào sự phát triển sinh động của các phương diện đời sống tạo
thành chuỗi các tình tiết của tác phẩm.
Tác phẩm tự sự miêu tả các sự kiện, hành động trong đời sống nhân vật
diễn ra trong khơng gian và thời gian. Q trình tiến hành các sự kiện, các hành vi
nhân vật tức là sự vận động trong không gian - thời gian của cái được miêu tả gọi
là cốt truyện.
Trong tác phẩm tự sự người kể chuyện có một vai trị hết sức quan trọng. Các
sự kiện, hành vi trong tác phẩm tự sự bao giờ cũng được kể lại thông qua một người
kể chuyện nào đó. Đúng như Aristote trong Nghệ thuật thi ca có viết: "Thế giới tồn
tại của tác phẩm tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật". Người kể
chuyện sẽ kể lại các sự kiện và con người như là những gì xảy ra bên ngồi mình.
Tác phẩm tự sự nào cũng ln có hình tượng người kể chuyện để phân tích, nghiên
cứu bình luận hoặc làm sáng tỏ mối quan hệ của các nhân vật trong truyện. Lời kể
của người kể chuyện ln giàu tính tạo hình, giàu sức biểu cảm, gợi cái được kể,
thậm chí cả bản thân người kể. Đặc biệt thi pháp học hiện đại nhấn mạnh phương
diện hình thức của tác phẩm. Vì vậy nghệ thuật tự sự rất quan trọng trong tác phẩm tự
sự. Việc tìm hiểu người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, một
nhà văn tài năng sẽ cho chúng ta thấy được sự đóng góp của ông trong công cuộc đổi
mới văn học Việt Nam. Qua đó cũng cho người đọc một cái nhìn khái qt về những
chuyển biến mạnh mẽ cả về nội dung phản ánh và hình thức thể hiện của thể loại
truyện ngắn trong nền văn học Việt Nam hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề người kể chuyện trong văn xuôi
Trong lý luận văn xuôi hiện đại, phạm trù người kể chuyện trở thành một
trong số những vấn đề trọng tâm và được các nhà nghiên cứu tìm cách lí giải, phân
tích rất nhiều. Từ đầu thế kỉ XX, vấn đề người kể chuyện đã được các nhà hình thức
chủ nghĩa Nga như A. Veksler, I. Gruzdev, V. Shklovski, B. Eikhenbaum và nhóm
các nhà nghiên cứu Bắc Âu viết bằng tiếng Đức (W. Dibelius, K. Friedemann, K.
4
Forstreuter) đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, phải qua công trình của những nhà nghiên
cứu thế hệ sau, những người đặt nền móng cho “trần thuật học” (narrantology) cụ thể
như: P. Lubbock, N. Friedman, W. Kayser, L. Dolezel, I.U. Lotman, R. Barthers, Tz.
Todorov, G. Genette, J. Kristeva, M. Bal, S. Chatman, J. Lintvelt, P. VandenHeuvel,
với "phương pháp hình thức" kết hợp "mĩ học tiếp nhận" mới đưa ra được quan
điểm tương đối rõ ràng về người kể chuyện [55, tr. 104]. Có thể thấy, vấn đề người
kể chuyện đã thu hút được sự quan tâm tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi
với những cơng trình lớn. Có thể kể tên một số cơng trình nghiên cứu phân tích, đề
cập đến phạm trù người kể chuyện này như sau: M. Bakhtin - Những vấn đề văn
học và mĩ học; R. Barthers - Mĩ học và lí luận văn học nước ngoài thế kỉ XIX – XX;
Manfred Jahn - Trần thuật học - Nhập môn lý thuyết trần thuật; I.U.M. Lotman Cấu trúc văn bản nghệ thuật; P. Lubbock - The craft of fiction; Prisvin - Ghi chép
về sáng tác; Tz.Todorov - Chủ nghĩa cấu trúc: "đồng tính" và "phản đối";
B.O.Uspensky - Thi pháp kết cấu; R. Veiman - Phê bình mới và sự phát triển của
nghiên cứu văn học tư sản; V. Vinogradov - Về lí thuyết ngơn ngữ nghệ thuật.
Phạm trù người kể chuyện thực sự là vấn đề được giới nghiên cứu thi pháp học
hiện đại đặc biệt quan tâm. Đã có rất nhiều cơng trình, bài viết phân tích, kiến giải về
người kể chuyện trong văn học. Tuy nhiên, đến nay, đây vẫn là một trong số những phạm
trù gây tranh cãi cũng như để lại nhiều khoảng trống cần được phân tích và xem xét.
2.2. Khái quát những nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu được xem là một hiện tượng nổi bật của văn học thập kỷ
80 của thế kỷ XX, một trong những cây bút tài năng được đông đảo bạn đọc biết
đến. Hai mươi năm cầm bút, với bốn mơi đầu sách “Thật ra quãng thời gian cầm
bút và lượng đầu sách ấy khơng thể nói là nhiều. Điều đáng nói ở đây là với trí tuệ
minh mẫn và trái tim mẫn cảm, Nguyễn Minh Châu đã làm việc, suy nghĩ nghiêm
túc nên mỗi tác phẩm của ông ngay từ khi mới ra đời đều được bạn đọc cũng như
giới phê bình đón nhận nồng nhiệt vì nó thực sự có ích cho cách mạng, cho cuộc
sống” [10, tr. 9]. Có thể nói, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã dành được sự ưu
5
ái, quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình cũng như độc giả trên khắp mọi
miền Tổ quốc và cả nước ngoài. Nhiều bài viết được đăng trên các báo, tạp chí uy
tín như: Văn nghệ quân đội, Tạp chí nghiên cứu văn học và trên những trang web
báo mạng… Sau đây, chúng tôi xin đề cập đến những bài viết đáng chú ý bàn về
những sáng tác của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là nhận định về mảng truyện ngắn.
Đương thời, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu từng là đề tài tranh luận sơi nổi
của bạn đọc nói chung và giới phê bình nói riêng. Từ khi xuất hiện với những
truyện ngắn đầu tiên trên các báo và tạp chí trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã
gây được sự chú ý. Nguyễn Kiên trong bài Đọc “Những vùng trời khác nhau” của
Nguyễn Minh Châu đăng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1970 đã đánh giá
những thành công với dấu ấn để lại trong lòng độc giả và trên văn đàn qua các
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu về các thời kỳ kháng chiến chống Pháp, xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, trong giai đoạn
này, tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nguyên
cứu như: “Vẻ đẹp Mảnh trăng cuối rừng” (Nguyễn Văn Long), Nguyễn Thanh Tú
“Nghệ thuật kể chuyện Mảnh trăng cuối rừng” (Nguyễn Thanh Tú), “Cái đẹp cái
hay của Mảnh trăng cuối rừng”( Nguyễn Thanh Hùng), “Vẻ đẹp nhân vật Nguyệt và
nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu”(Nguyễn Văn Bính). Những
bài viết đó đã khẳng định sự tinh tế trong lời văn, chất trữ tình, tài năng phân tích
tâm trạng thêu dệt nên vẻ đẹp của nhân vật Nguyệt, sự bất diệt của niềm tin và sức
mạnh bảo vệ cuộc sống là vẻ đẹp làm nên triết lí của truyện. Qua cách xây dựng các
nhân vật, Nguyễn Minh Châu đã tạo nên những thành công ở nghệ thuật kể chuyện
và cảm nhận được những điều bí ẩn khó lí giải trong chiều sâu tâm hồn, tâm linh
con người trong thời chiến tranh.
Sau 1975, Nguyễn Minh Châu được nhìn nhận như một hiện tượng của văn
học thời kỳ Đổi mới với rất nhiều ý kiến ghi nhận. Tháng 6 năm 1985, tuần báo Văn
nghệ tổ chức hội thảo “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn
Minh Châu” với sự tham gia của nhiều nhà phê bình, nhà nghiên cứu văn học,
những người làm công tác biên tập, những nhà văn có tiếng như: Đào Vũ, Bùi Hiển,
6
Phan Cự Đệ, Tơ Hồi, Xn Thiều, Lê Lựu, Nguyễn Kiên, Vũ Tú Nam,… Xoay
quanh các vấn đề về Nguyễn Minh Châu đã đổi mới hay chưa đổi mới, về sự thể
hiện chủ đề tư tưởng của nhà văn, về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong các truyện
ngắn Dấu vết nghề nghiệp, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra,
Bức tranh… được đăng trên báo Văn nghệ (số 27, 28/1985). Trong cuộc trao đổi ấy
có hai luồng ý kiến trái ngược nhau, có cả những lời khen lẫn khơng ít người chê
bai, hồi nghi về chi tiết nhân vật, cốt truyện, dụng ý nghệ thuật trong tác phẩm.
Song những lý giải của nhà văn về quan niệm sáng tác của mình khi cho ra đời một
tác phẩm ít nhiều có sức thuyết phục người đọc.
Lại Nguyên Ân trong tiểu luận “Sáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn
Minh Châu” trên Tạp chí Văn học (số 3/1985), đã chỉ ra những tìm tịi đổi mới
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Các tác phẩm chuyên chở những vấn đề đạo
đức, triết lý, về sự phức tạp bộn bề của cuộc sống như những vịng xốy tưởng
chừng là nghịch lý, mà vẫn cuốn hút người đọc quay theo quỹ đạo của nó.
Tơn Phương Lan trong bài “Tìm tịi cũng là để tự khẳng định” trên Tạp chí
Văn học (số 4/1987), xét Nguyễn Minh Châu từ cái cũ của văn chương cộng đồng
trước 1975 sang cái mới sau 1975 trên phương diện cả tiểu thuyết và truyện ngắn.
Trong đó truyện ngắn là sự thể nghiệm của một “cây bút có ý thức về sáng tạo” [29,
tr. 118] khi cảm quan tác giả từ trữ tình hướng ngoại chuyển sang trữ tình hướng nội
với búp pháp đậm màu sắc triết lý, luận đề như: Bức tranh, Dấu vết nghề nghiệp,
Bến quê…
Đỗ Đức Hiểu trong bài “Đọc Phiên chợ Giát” của Nguyễn Minh Châu đăng
trên báo Văn nghệ (số 7/1990), đã có những phát hiện khá sắc sảo và đưa ra những
kiến giải về nội dung, nhà nghiên cứu còn khai thác những điểm nhấn quan trọng
trong tác phẩm về mặt thi pháp, có khi so sánh với văn học phương Tây để đưa ra
lời bình luận cho tác phẩm. Với Phiên chợ Giát, theo ơng đó là một tác phẩm đa
thanh với một kiểu “âm vang” nhiều giọng điệu của sự hóa thân người/ bị của ơng
lão Khúng trong cốt truyện gợi mở nhiều cảm xúc, nhiều suy tưởng trong mỗi nhóm
người đọc.
7
Bên cạnh đó cịn có một số bài viết đề cập tới các phương diện về thi pháp,
về nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu như: “Vấn đề tình huống trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” [61, tr.23] của Bùi Việt Thắng; Trịnh Thu Tuyết
với bài “Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây dựng truyện ngắn” trên Tạp chí Văn
học (số 1/1999); Lại Nguyên Ân với “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm
1980” trên Phê bình văn học (07/5/2012); Đồn Đức Phương với “Chiếc thuyền
ngồi xa và thơng điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu” trên Phê bình văn học
(23/5/2014).
Là nhà văn có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới văn học, do đó
Nguyễn Minh Châu là đối tượng nghiên cứu của các luận án tiến sĩ. Tiêu biểu như:
Luận án của Phan Thị Thanh Nga (Lời văn nghệ thuật trong sáng tác Nguyễn Minh
Châu). Luận án này đi sâu vào các dạng thức cơ bản của lời văn, đồng thời khảo sát
cách sử dụng lời văn trên cấp độ từ ngữ, câu văn, giọng điệu, làm rõ mối quan hệ
ngơn từ, quan niệm nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn. Một số luận án khi
nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu đã đưa ra so sánh, đối chiếu với nhiều nhà văn
khác như: Luận án của Đỗ Thị Hiên (Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu); Luận án của Lê Thị Sao Chi (Khảo sát lời
độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ). Đây là những đề tài mang tính thiết thực và đã chỉ ra
được những đặc điểm về nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu,
đồng thời chỉ ra sự vận động của nó trong nền văn xi hiện đại.
Bên cạnh đó, chúng ta cịn thấy khoảng 150 bài viết lớn nhỏ được tập hợp
trong cuốn Nguyễn Minh Châu – Con người và tác phẩm do tác giả Nguyễn Trọng
Hoàn giới thiệu và tuyển chọn. Các bài viết liên quan đến tác phẩm và con người
Nguyễn Minh Châu, những hồi ức về nhà văn đã đăng trên các báo, tạp chí,… cũng
đều được tập hợp, phân loại, chọn lọc, lên danh sách trong những cuốn Nguyễn
Minh Châu tài năng và sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu về tác gia tác
phẩm hoặc Nguyễn Minh Châu con người và tác phẩm – Tôn Phương Lan và Lại
Nguyên Ân biên soạn, Nguyễn Minh Châu tài năng và tấm lòng do Mai Hương biên
8
soạn… Tất cả đã phác họa chân dung và sự nghiệp của nhà văn tài năng Nguyễn
Minh Châu, giúp người đọc có cái nhìn tồn diện và đánh giá đầy đủ về sự đóng
góp, đổi mới cách nghĩ, cách viết của ơng. Những cuốn sách tổng hợp đó có một
phần không nhỏ viết về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu với khả năng lao động, tìm
tịi khơng ngừng để tìm ra chân lý của nghệ thuật chân chính.
Ngồi ra cịn phải kể đến bộ Nguyễn Minh Châu toàn tập (5 tập) do Mai Hương
biên soạn, sưu tầm giới thiệu và được Nhà xuất bản Văn học ấn hành. Đây là bộ sách
quý được biên soạn rất công phu giúp các nhà nghiên cứu và bạn đọc tiếp tục khám phá
tác phẩm và phong cách nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Nhà nghiên cứu văn học Tôn Phương Lan luôn theo sát từng chặng đường sáng
tác của Nguyễn Minh Châu và đã khảo sát các tác phẩm của ông một cách khá trọn vẹn
đầy đủ ở thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Các bài viết đều được tập hợp và đưa
thành chuyên luận với nhan đề Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. Việc ra đời
chuyên luận này cho chúng ta thấy được những đóng góp của Nguyễn Minh Châu vào
tiến trình văn học dân tộc, đặc biệt vai trị của ơng trong những năm 80 của thế kỷ XX.
Tác giả Tôn Phương Lan nghiên cứu một số bình diện trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu như: phong cách, tư tưởng, điểm nhìn trần thuật, tình huống, loại hình nhân vật,
ngơn ngữ… tạo ra khả năng tiếp cận rộng lớn các sáng tác Nguyễn Minh Châu. Nhà
nghiên cứu đã bày tỏ những quan điểm, nhận định của mình có tính chất khoa học,
mang tính đúng đắn nhất về những thành quả nghệ thuật làm nên phong cách Nguyễn
Minh Châu.
Có thể nói, các bài viết nghiên cứu, đánh giá, nhận xét về sáng tác của
Nguyễn Minh Châu tương đối nhiều và phong phú các ý kiến. Các truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu được bàn đến ở nhiều góc độ và người kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu cũng đã được nhắc đến ở một vài khía cạnh. Trên cơ sở
tiếp thu những bài viết có liên quan đến sáng tác của Nguyễn Minh Châu, chúng tôi
muốn đi sâu hơn và tập trung tìm hiểu Người kể chuyện trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
9
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu.
Mục đích của luận văn là tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu các bình diện cụ thể
của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: ngơi kể, điểm nhìn,
phương thức kể, ngơn ngữ, giọng điệu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các truyện ngắn được tuyển tập trong hai quyển
sách:
1. Nguyễn Minh Châu tác phẩm chọn lọc (2009), Nxb Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
2. Nguyễn Minh Châu tuyển tập (2012), Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Hướng vào nghiên cứu người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp tiếp cận thi pháp học, trong đó chủ yếu là vận dụng lý
thuyết tự sự (narratology) hay thi pháp văn xuôi tự sự
Trong phạm vi luận văn, người viết áp dụng phương pháp này vào việc tìm
hiểu những yếu tố nghệ thuật làm nên diện mạo chung của người kể chuyện trong
truyện kể và phân tích mối liên hệ giữa chúng với nhau. Bên cạnh đó, người viết áp
dụng phương pháp này trong việc nhìn nhận cách thức xây dựng người kể chuyện
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong tương quan với nghệ thuật xây dựng
hình tượng này trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
4.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Khi khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, người viết áp dụng
phương pháp thống kê để phân loại các hình thức ngơi kể và điểm nhìn làm cơ sở
cho việc phân tích các đặc điểm của người kể chuyện ở các tác phẩm.
4. 3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết sử dụng một số dẫn chứng
trích ra từ các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu để minh họa cho những nhận
10
xét, lập luận của mình. Do đó, trong suốt q trình thực hiện, người viết ln vận
dụng phương pháp phân tích để làm rõ các vấn đề được nêu ra ở các chương. Qua
đó, người viết tiếp tục tổng hợp những lập luận vừa nêu để làm sáng tỏ vấn đề cần
minh chứng.
4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Ngoài ra, khi phân tích vấn đề người kể chuyện trong truyện ngắn của nhà
văn Nguyễn Minh Châu, người viết còn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu
giữa việc sử dụng các ngơi kể và điểm nhìn khác nhau để tìm ra hiệu quả cũng như
hạn chế của từng loại.
Kết hợp với đó là các phương pháp tiếp cận tự sự học, phương pháp nghiên
cứu lịch sử - xã hội và một số thao tác khác để đạt được kết quả nghiên cứu tốt nhất.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái lược về người kể chuyện và truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Chương 2: Ngơi kể và điểm nhìn của người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu
Chương 3: Ngôn ngữ, giọng điệu và phương thức trần thuật của người kể chuyện
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
11
Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC VỀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN
VÀ TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
1.1. Khái lƣợc về tự sự học và ngƣời kể chuyện
1.1.1. Tự sự học
Với thế giới, tự sự học - Narratology từ lâu đã khơng cịn là một thuật
ngữ xa lạ. Những vấn đề lý thuyết về tự sự học đã được hình thành một cách hệ
thống và tự sự học ngày càng mở rộng, phát triển, nó đã khẳng định vai trị
quan trọng của một cơng cụ đắc dụng trong việc khám phá, lý giải thế giới
nghệ thuật ngôn từ.
Ở Việt Nam, ngay từ buổi đầu giới thiệu và dịch thuật tự sự học, việc xác
định thuật ngữ, chọn dùng khái niệm tương đương đòi hỏi những cố gắng nhất định.
Trong tình hình mà một số thuật ngữ quan trọng như tự sự, rồi tự sự học cũng như
trần thuật, văn bản, diễn ngôn, thoại ngữ... mà hiện nay ta dùng đều là những từ
Hán Việt thì việc tham khảo các học giả Trung Quốc có lẽ cũng là một việc có ích.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử có nói: “Chúng ta cần xây dựng cho mình một hệ
thống thuật ngữ tiếng Việt về tự sự học”. Liên hệ đến Trung Quốc, ơng nói thêm:
“Ngay thuật ngữ Narratology người Trung Quốc hiện nay vẫn có hai cách dịch. Tự
sự học và Tự thuật học (tự = kể, thuật = kể). Khái niệm “tự thuật học” dùng tương
đồng với “tự sự học”, nhưng trọng tâm có lúc có phần khác nhau. “Tự thuật học”
nghiêng về nghiên cứu phương diện hành vi kể, lời kể, còn “tự sự học” nghiên cứu
cả hai mặt: hành vi lời kể và cấu trúc sự kiện” [54, tr. 17].
Lại Nguyên Ân đề nghị cách gọi trần thuật học (tr. 146, bài Về việc mở ra
môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam trong sách Tự sự
học (2007), Nxb ĐHSP, Hà Nội). Ông viết: “Trần thuật học (narratologie,
naratology) được đề xuất cuối những năm 60 do việc xem xét lại học thuyết Chủ
nghĩa cấu trúc từ quan điểm lí thuyết giao tiếp về bản chất của nghệ thuật và các
dạng thức tồn tại của nó” [54, tr. 17].
12
Thời kỳ Đổi mới, các nhà nghiên cứu lý luận văn học Việt Nam đã nhận thấy
tự sự học ngày càng chứng tỏ tính hữu dụng của nó đối với văn học nghệ thuật.
Trước hết các nhà nghiên cứu Việt Nam đã nỗ lực dịch và giới thiệu những
vấn đề lý thuyết tự sự học ở các phương diện thuộc về lịch sử phát triển, các xu
hướng chung - riêng, các khái niệm của tự sự học đương đại,... có thể kể đến các
cơng trình dịch thuật như: Độ khơng của lối viết của R.Barthes do Nguyên Ngọc
dịch; Cơ sở của ký hiệu học của R.Barthes do Trịnh Bá Đĩnh trích dịch [41, tr. 116].
Tự sự học hiện đại cố gắng khu biệt narrative và naration như là khu biệt
giữa “chuyện kể ra” và “hoạt động kể chuyện”. Người ta giả định rằng mọi chuyện
trên đời cho tới trước lúc được kể nên lời, là cứ tồn tại trong trạng thái “vốn thế”.
Và những sự-việc tồn tại “vốn thế” đó không phải là narrative (tạm gọi là truyện kể,
hoặc chuyện kể - trong cách nói “chuyện kể rằng...”) mà là story (tạm gọi là chuyện,
câu chuyện, trong cách nói “có một câu chuyện...”) [55, tr. 116].
Các nhà tự sự học giải cấu trúc cho rằng chúng ta (cả độc giả lẫn nhà viết
truyện) chỉ có thể tiếp xúc với câu chuyện thông qua thoại ngữ tự sự đã sản sinh
nên nó. Họ cho rằng tự sự học giả định sự kiện tồn tại trước thoại ngữ nói về hoặc
biểu đạt chúng.
Vì vậy đã kiến lập nên một trật tự tầng bậc. Thế nhưng tác phẩm tự sự trong
quá trình vận tác thường lật nhào trật tự đó. Các tác phẩm tự sự không phải là biểu
đạt sự kiện như là biểu đạt sự thực đã biết, mà là biểu đạt chúng như là sản vật của
sức mạnh hay yêu cầu của thoại ngữ.
Tự sự học phân biệt hai hiện tượng ai đang lên tiếng kể (một giọng nói, một tiếng
nói) và ai đang quan cảm thế giới (một trường nhìn, một tiêu điểm) trong trần thuật.
Trong các thể loại văn học, truyện ngắn là thể loại văn học đặc biệt. Mặc dù
là hình thức tự sự cỡ nhỏ nhưng nó lại ln có "sức chứa" và "sức mở lớn", "sự
sáng tạo của truyện ngắn là khơng cùng" (Vương Trí Nhàn). Vai trò quan trọng của
truyện ngắn trong đời sống văn học hiện đại là khả năng khám phá đời sống, bộc lộ
tư tưởng, tình cảm và tài năng của nhà văn.
13
Trong địa hạt tác phẩm tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng thì người kể
chuyện đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Nó khơng chỉ là yếu tố liên kết, dẫn dắt câu
chuyện, môi giới để bạn đọc tiếp cận với thế giới nghệ thuật mà cịn có chức năng tổ
chức, sắp xếp các sự kiện trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu các phương diện người kể
chuyện giúp người đọc tiếp cận được với những giá trị văn chương đích thực.
1.1.2. Người kể chuyện
Người kể chuyện (narrator) là một thuật ngữ công cụ của tự sự học, được
xem là khái niệm trung tâm nhất trong phân tích trần thuật. Tuy nhiên xung quanh
khái niệm này cịn có rất nhiều quan điểm khác nhau. Khi tiếp cận về vấn đề người
kể chuyện, chúng tôi cho rằng người kể chuyện chính là chủ thể của những lời kể về
câu chuyện nào đó trong tác phẩm văn học. Chủ thể đó là một nhân vật đặc biệt do
nhà văn sáng tạo ra để dẫn dắt, gợi mở hay sắp đặt câu chuyện được kể. Người kể
chuyện có thể là con người của quá khứ, hiện tại hoặc tương lai, nhưng là người kể
lại câu chuyện trong tác phẩm bằng một chỗ đứng, một điểm nhìn phù hợp với ý đồ
sáng tạo của nhà văn. Đó là "kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể" [39, tr. 17]. Vì
vậy trong tác phẩm tự sự "khơng thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người kể
chuyện khơng nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện" (Todozov) [39,
tr. 116].
Những quan niệm khác nhau trong giới nghiên cứu về người kể chuyện đưa
đến những cách phân loại khác nhau về hình tượng này. Có thể phân chia các dạng
thức người kể chuyện trên tiêu chí của điểm nhìn, dựa vào mối quan hệ của người
kể chuyện với câu chuyện, hay dựa vào quyền năng của người kể chuyện... chúng
tôi cho rằng dù được phân chia theo tiêu chí nào thì cái đích đạt tới cũng là chỉ ra
vai trị của người kể chuyện trong câu chuyện. Do đó người kể chuyện cũng có thể
khốc lên mình nhiều vai trị khác nhau trong mỗi câu chuyện. Và tùy thuộc vào ý
đồ sáng tạo của nhà văn mà người kể chuyện sẽ xuất hiện ở những mức độ khác
nhau trong tác phẩm. Người kể chuyện có thể can thiệp một cách trực tiếp vào văn
bản với vai trò của người tổ chức cấu trúc câu chuyện được kể, người kể chuyện có
thể chỉ đảm nhiệm những chức năng đơn thuần là kể chuyện hoặc có thể đảm nhiệm
14
bất cứ chức năng nào mà người kể chuyện có thể đảm nhiệm, kể cả khi nó chỉ xuất
hiện một cách hàm ẩn.
Khi tìm hiểu về người kể chuyện, ngồi việc xem xét người kể chuyện như
một hình thức nghệ thuật nhằm mang lại hiệu quả cho tác phẩm, chúng tơi cho rằng,
cần xem xét nó trong mối quan hệ với tác giả văn bản. Bởi suy cho cùng "Cơ sở
nghệ thuật của hình tượng tác giả trong văn học chính là tính chất gián tiếp của
văn bản nghệ thuật: văn bản của tác phẩm bao giờ cũng là lời của người trần thuật,
người kể chuyện, hoặc nhân vật trữ tình. Nhà văn xây dựng một văn bản đồng thời
với việc xây dựng ra hình tượng người phát ngơn văn bản ấy với giọng điệu nhất
định" [17; tr. 149].
Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã đưa ra định nghĩa, khái niệm về người kể
chuyện như: Tz. Todorov, W. Kayser, Manfred Jahn, Genette,… thơng qua đó,
chúng tơi xin tổng kết như sau: Đó là hình tượng nghệ thuật được nhà văn sáng tạo
nên và trở thành công cụ trong trần thuật của văn xi tự sự, góp phần thể hiện quan
điểm, cách nhìn của người viết về vấn đề được đề cập đến trong tác phẩm văn học.
Người kể chuyện phục vụ đắc lực cho nhà văn trong quá trình dẫn chuyện; tổ chức
các sự kiện, tình tiết và thể hiện tình cảm, thái độ của khơng chỉ tác giả mà cịn của
nhân vật.
Người kể chuyện trong văn xi khơng phải là một phạm trù thuần nhất mà
là một thể đa diện. Nó có liên quan mật thiết đến những vấn đề khác bao gồm ngơi
kể, điểm nhìn và ngơn ngữ, giọng điệu.
Trong Trần thuật học - nhập môn lý thuyết trần thuật, Manfred Jahn đã
trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về người kể chuyện. Theo đó, ơng tiến
hành phân loại người kể chuyện thành người kể chuyện ẩn tàng và người kể
chuyện lộ diện. Người kể chuyện lộ diện: anh/cơ ta tự nhắc đến mình ở ngơi thứ
nhất, trực tiếp hoặc gián tiếp hướng đến người nghe, sẵn sàng bộc lộ thái độ thân
thiết với người đọc nếu cần. Người "xâm nhập vào câu chuyện để nói lên những
chú giải, là người có một giọng điệu đặc trưng". Người kể chuyện ẩn tàng không
bày tỏ những đặc điểm công khai như trên. Người kể chuyện loại này không
15
hướng đến người nhận hay người nghe, có giọng điệu và phong cách ít nhiều
trung tính; khơng sẵn sàng bộc lộ dù rất cần thiết; không xâm nhập hay can thiệp
vào dòng chảy của câu chuyện, để cho câu chuyện vận động theo đúng logic mà
nó phải trải qua, khơng bình luận thêm, khơng định hướng độc giả. Trần thuật
hàm ẩn có thể dễ dàng nhận ra khi hành động được nhìn qua con mắt của người
quan sát từ bên trong.
Ứng với hai kiểu người kể chuyện trên, Genette đề xuất một cách phân loại
người kể chuyện dựa trên những tiêu chí khác. Vấn đề người kể chuyện được đặt
trong mối tương quan và mối quan hệ với tiêu cự, tiêu điểm, thức, giọng, tần suất.
Xuất phát từ giọng, tức là "ai kể?" G.Genette đưa ra bốn kiểu kể chuyện tương ứng
với bốn kiểu người kể chuyện. Cụ thể là, dựa vào việc xác định nơi truyện kể bắt
đầu, tác giả phân biệt thành hai loại người kể chuyện: người kể chuyện bên trong
(intradiegetic narrator) và người kể chuyện bên ngoài (extradiegetic narrator); dựa
vào mức độ "can dự" vào truyện của người kể chuyện, tác giả xác lập hai kiểu:
người kể chuyện dị sự (heterodiegetic narrator) và người kể chuyện đồng sự
(homodiegetic narrator), (tức là tác giả tập trung chủ yếu vào vấn đề người kể
chuyện ngôi thứ nhất hoặc ngơi thứ ba, hay chính xác hơn là xem xét người kể
chuyện ở việc có tham gia hoặc khơng tham gia vào câu chuyện). Như vậy, cả hai
nhà nghiên cứu kể trên (Manfred Jahn và Genette) đều nhìn người kể chuyện đơn
thuần ở phương diện ngơi kể và điểm nhìn.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng
người kể chuyện là "hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học,
chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm.
Đó có thể là hình tượng của chính tác giả, dĩ nhiên khơng nên đồng nhất hồn tồn
với tác giả ngồi đời; có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra; có thể
là một người biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều
người kể chuyện". [3, tr. 32].
16
Sự tranh luận của giới nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học thế giới về vấn
đề người kể chuyện cho chúng tôi hiểu rằng đây thực sự là vấn đề nan giải của thi
pháp văn xuôi hiện đại.
Ngôi kể trong văn xi có thể đứng ở ngơi thứ nhất với hình thức thể hiện là
cách xưng tơi, ngơi thứ hai (ngơi kể rất hiếm xuất hiện vì nó khơng dễ để thể hiện)
hoặc ngơi thứ ba với hình thức thể hiện là sự ẩn đi của người kể chuyện (người kể
chuyện toàn tri hay biết tuốt). Ngoài ra, Rolannd Barthes - Độ khơng của lối viết
cịn bổ sung thêm "ngơi kể trung tính" là ngơi kể nằm giữa ngơi thứ ba và ngôi thứ
nhất. Ngôi kể của người kể chuyện thể hiện chủ thể của phát ngôn, cho người đọc
biết ai là người thuật lại câu chuyện cho họ. Nói như một số nhà ngơn ngữ học thì
ngơi kể thể hiện chủ ngữ của mệnh đề được viết ra. Một truyện kể có thể có một
hoặc nhiều ngơi kể khác nhau tùy vào dụng ý nghệ thuật của mỗi nhà văn. Ngôi kể
cho phép người kể chuyện xác định vị trí đứng của mình so với hành động và nhân
vật trong tác phẩm, thậm chí cịn thấy được khoảng cách giữa người kể chuyện và
tác giả.
Điểm nhìn lại là một phạm trù phức tạp hơn nữa bởi sự tinh vi và linh hoạt của
nó trong truyện kể hiện đại. Nếu ngôi kể cho chúng ta biết ai là người đã thuật lại câu
chuyện thì điểm nhìn lại cho độc giả biết họ tri giác câu chuyện qua ai. Nếu ngơi kể
thể hiện chủ ngữ của mệnh đề thì điểm nhìn lại thể hiện chủ thể của hành động, sự
kiện được câu văn nói tới. Nói cách khác, ngơi kể là phạm trù thuộc về "bề nổi" của
câu văn, còn điểm nhìn là thuộc về "phần chìm", mà phần ẩn sâu nên là nơi khó để có
thể phân tích và khai thác nhất. Các nhà thi pháp học, tự sự học, trong đó đặc biệt là
Genette đã khái quát phạm trù này thành hai loại lớn là điểm nhìn của nhân vật trong
hành động và điểm nhìn của nhân vật ngồi hành động. Trong hai loại lớn đó, nhà
nghiên cứu phân chia chi tiết thêm dựa vào sự tham dự của nhà văn hay nhân vật vào
hành động đó. Ngồi ra, ơng cịn khám phá ra sự di chuyển điểm nhìn hay sự tự tiêu
hóa liên tục của các điểm nhìn lên nhân vật. Điều này cho phép các hành động, sự
kiện, nhân vật được nhìn nhận một cách linh hoạt và uyển chuyển hơn. Điểm nhìn có
khả năng đi sâu vào thế giới quan của từng nhân vật và của chính người kể chuyện.
17
Điều này cũng được chỉ ra bởi P. Lubbock, một trong những người đầu tiên thấy
được mối quan hệ giữa người kể chuyện và điểm nhìn: "Tơi cho rằng tồn bộ vấn đề
rắc rối về phương pháp trong nghệ thuật sáng tác phụ thuộc vào vấn đề điểm nhìn,
vấn đề thái độ của người kể chuyện với việc trần thuật" [54; tr. 118]. Nói như một số
nhà lý luận, nhìn từ góc độ điểm nhìn này, người kể chuyện cịn có thể được coi như
là "hình tượng thái độ" [54; tr. 119]. Như vậy, phần lớn các nhà nghiên cứu đánh giá
cao vai trò thể hiện thái độ, cảm xúc của điểm nhìn trong tác phẩm văn học.
Tùy theo từng ngòi bút và từng ý đồ sáng tạo nghệ thuật mà mỗi nhà văn, thậm
chí mỗi tác phẩm, người kể chuyện mang một giọng điệu, hệ ngơn ngữ riêng. Có nhiều
loại giọng điệu kể chuyện khác nhau như: giọng điệu trữ tình, giọng điệu lạnh lùng
khách quan, giọng điệu thơng tục bình dân... Một tác giả hay tác phẩm có thể có nhiều
giọng điệu khác nhau mà thay vào đó, bổ sung cho nhau, góp phần làm nên sự hấp dẫn
của sáng tác và giúp bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Giọng điệu của người kể
chuyện góp phần định hình thái độ, tình cảm, thậm chí là tư duy của người kể chuyện
và của tác giả. Vì thế, đây là một đặc điểm rất quan trọng của vấn đề người kể chuyện.
Nó thể hiện được chiều sâu và phong cách riêng của tác phẩm, tác giả đó.
Người kể chuyện có mối quan hệ với nhiều thành tố khác trong một tác
phẩm văn học. Với cốt truyện, người kể chuyện có thể quyết định tốc độ của câu
chuyện, sự dãn nở của các chi tiết, tình tiết. Với nhân vật, anh ta trở thành một công
cụ giúp nhà văn định vị, đánh giá nhân vật. Trong lời kể, người kể chuyện tác động
đến thái độ kể, cách dẫn dắt câu chuyện. Trong mối quan hệ với độc giả, người kể
chuyện góp phần tạo biến cố bất ngờ hay tác động đến cảm xúc của người đọc đồng
thời cũng có khả năng đón trước tầm đón đợi của người tiếp nhận.
Với tất cả những đặc tính đã nêu trên, người kể chuyện thực sự là một
trong số những vấn đề phức tạp trong thi pháp học hiện đại, thách thức trí tuệ
của các nhà nghiên cứu, phê bình trên thế giới. Nhưng nếu có thể phân tích và dù
chỉ hiểu một phần nào vấn đề người kể chuyện này trong sự nghiệp của một nhà
văn nào đó thì đó thực sự sẽ là một bước quan trọng để tiến tới lý giải phong
cách nghệ thuật tác giả.
18
1.2. Khái lƣợc về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
1.2.1. Hành trình sáng tác
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 23 tháng 10 năm 1930 trong một gia đình
nơng dân ở một vùng quê nghèo, làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Lớn lên, cùng hồn cảnh đất nước cịn chiến tranh, con người ấy như thấu
hiểu những mất mát đau thương những người mẹ, người chị, gia đình phải gánh
chịu khi lần lượt những người chồng, người cha, người con một đi không trở lại, để
lại một quang cảnh vắng lặng ở thơn q. Lúc bấy giờ chẳng có ai trong gia đình
tiên liệu rằng cậu bé “nhút nhát” Nguyễn Minh Châu sau này trở thành một nhà văn
nổi tiếng.
Sinh thời thuở cịn học phổ thơng Nguyễn Minh Châu là một học sinh giỏi
toán và khi lớn lên, năng khiếu văn chương cũng chưa được bộc lộ. Năm 1945, ông
tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học
chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh. Đầu năm 1950, khi đang là
học sinh chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An, theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào qn đội học khóa 6 Võ bị
Trần Quốc Tuấn (Trường Sĩ quan Lục quân 1). Từ năm 1952 đến năm 1956, ông
công tác tại Ban Tham mưu Tiểu đoàn 772, 706 thuộc Sư đoàn 320. Từ năm 1956
đến 1958, ơng làm Trợ lý văn hóa Trung đồn 64 thuộc Trung đoàn 64 thuộc Sư
đoàn 320. Năm 1959, Nguyễn Minh Châu đi dự hội nghị bạn viết toàn qn. Năm
1960, ơng được điều động về Cục Văn hóa qn đội. Năm 1962, ơng về cơng tác tại
Phịng văn nghệ Quân đội, sau chuyển sang Tạp chí Văn nghệ Quân đội và làm việc
ở đó cho đến khi mất.
Nguyễn Minh Châu thuộc số ít nhà văn sung sức, tài năng mà sáng tác và
hoạt động văn học có vị trí nổi bật tạo sự ảnh hưởng lớn trong văn học Việt Nam
đương đại. Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu sáng tác hai
cuốn tiểu thuyết Cửa sơng (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện
ngắn Những vùng trời khác nhau (1970). Nhà văn đã phản ánh kịp thời những hình
ảnh sinh động của cuộc chiến đấu và hình tượng cao đẹp của những con người Việt
19
Nam thuộc nhiều thế hệ, đồng thời, ơng cũng có phát hiện và suy ngẫm về nhiều
vấn đề của đời sống xã hội và số phận con người trong chiến tranh. Ngay sau năm
1975, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền văn học thời
chiến tranh và dũng cảm tìm kiếm con đường đổi mới sáng tác của chính mình. Hai
cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà đã đem lại
một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Những truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu ra mắt bạn đọc ở nửa đầu những năm 1980 thực sự là những tìm tịi mới, với
cái nhìn mới về hiện thực và con người, khiến Nguyễn Minh Châu trở thành một
trong những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất của công cuộc đổi mới văn
học” (Nguyên Ngọc). Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), ơng đã có những phát
biểu trực tiếp cùng với những sáng tác đã đạt đến độ chín của tư tưởng và nghệ
thuật thể hiện sự tâm huyết với công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà. Nhưng vì
mắc bệnh hiểm nghèo, Nguyễn Minh Châu đã qua đời vào ngày 23 tháng 1 năm
1989 khi nhiều dự định sáng tác còn đang ấp ủ. Con đường văn học của Nguyễn
Minh Châu trải qua gần 30 năm với hai giai đoạn chính mà cái mốc phân chia là
năm 1975.
Nguyễn Minh Châu – người mở đường xuất sắc cho văn học Việt Nam thời
kỳ đổi mới, người đã “đi được xa nhất” trong cao trào đổi mới của văn học Việt
Nam đương đại. Nói như nhà văn Nguyễn Khải, sau này đó có người “đứng” trên
vai ơng để mà to lớn hơn, nhưng vị trí tiên phong và những cống hiến có tính chất
khai phá của ơng là khơng thể phủ nhận. Tìm ra hướng mới cho văn học cả trên
bình diện nội dung và phản ánh lẫn bút pháp thể hiện, nhà văn đã công khai với bạn
đọc một cách viết mới: hiện đại mà vẫn đậm đà truyền thống. Ông đã đi được một
chặng đường xa, dù nhọc nhằn nhưng thật nhiều ý nghĩa.
Với những đóng góp xuất sắc cho văn học hiện đại, nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã được tặng nhiều giải thưởng về văn học. Giải thưởng Bộ Quốc phòng
(1984 - 1989) cho toàn bộ tác phẩm viết về chiến tranh và người lính; Giải thưởng
Hội nhà văn Việt Nam (1988 - 1989) cho tập truyện Cỏ lau. Với những đóng góp
cho nền văn học Việt Nam năm 2000, ông vinh dự được truy tặng Giải thưởng Hồ
20