Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tính hai mặt trong tính cách của con người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHAN THÀNH NHÂM

TÍNH HAI MẶT TRONG TÍNH CÁCH
CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2012

0


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHAN THÀNH NHÂM

TÍNH HAI MẶT TRONG TÍNH CÁCH
CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. PHẠM VĂN CHUNG

Hà Nội - 2012



1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người Việt Nam với những nét tính cách truyền thống như lòng
yêu nước, tinh thần đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, cần cù, hiếu học… đã góp
phần tạo nên những trang sử vàng trong lịch sử dân tộc. Điều đó càng làm cho
chúng ta thêm phần yêu quê hương, đất nước, tự hào và tôn trọng các giá trị
truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hóa, thời đại của
tri thức khoa học, để tái thiết và chấn hưng đất nước, một tình yêu đối với
truyền thống, một lòng tự hào về dân tộc và các thành tích của quá khứ là
chưa đủ, mà cần phải có thêm những nhận thức tỉnh táo về tính cách của con
người Việt Nam, nhất là các nét tính cách truyền thống. Vì vậy, sự nhận thức
khách quan về tính cách của con người Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về
phương diện khoa học, mà còn là đòi hỏi của sự phát triển lâu dài, sự trường
tồn và phồn vinh của dân tộc.
Tính cách là một thuộc tính tâm lý bền vững của nhân cách, nhưng
ngày nay trước sức mạnh của cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa, tính
cách của con người Việt Nam đã và đang biến đổi theo những chiều hướng
khác nhau. Nhiều người Việt Nam đã tiếp biến các tri thức của nhân loại, phát
triển trí tuệ, thay đổi tính cách và lối sống của mình, từ cuộc sống có phần
khép kín, thiếu năng động sang cuộc sống cởi mở hơn, năng động hơn và hiện
đại hơn. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đem lại những khó khăn và thách thức
không nhỏ đối với các quốc gia trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và phát
huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Với việc tiếp thu lối sống phương
Tây, nhưng thiếu định hướng giá trị đã tạo nên lối sống và nhân cách xa lạ với
truyền thống phương Đông, đối lập với các giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc như lối sống sùng bái vật chất, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa

hoa, lãng phí, sống trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Vì vậy, cần phải có
những định hướng giá trị trong quá trình hội nhập và tiếp nhận văn hóa
2


phương Tây trên cơ sở nhận thức sâu sắc các giá trị truyền thống của con
người Việt Nam.
Mặt khác, trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường, thực hiện công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nhiều giá trị tinh thần
truyền thống không những chưa được phát huy, mà còn có nguy cơ suy thoái
và lạc hậu, cùng với đó là những hạn chế trong tính cách của con người Việt
Nam đang thực sự trở thành một rào càn lớn đối với tiến trình phát triển của
dân tộc. Tất cả điều đó đang đặt ra yêu cầu, phải nhận thức lại, nhận thức một
cách khách quan, khoa học và sâu sắc hơn về tính cách của con người Việt
Nam nhằm phục vụ thực tiễn xây dựng con người mới.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Tính hai mặt trong
tính cách của con người Việt Nam” làm đề tài Luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố con người đối với sự phát triển
của dân tộc, cho nên việc tìm hiểu tính cách hay những nét truyền thống của
con người Việt Nam là một trong những mối quan tâm chung của nhiều nhà
nghiên cứu từ trước đến nay.
Tính cách của con người Việt Nam đã được nghiên cứu dưới nhiều góc
độ với những cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, nghiên cứu tính cách của
con người Việt Nam dưới góc độ văn hóa được thể hiện trong các công trình
nghiên cứu như “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh, “Văn minh
Việt Nam” của Nguyễn Văn Huyên, “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính
“Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm, “Việt Nam - văn
hóa và con người” của Nguyễn Đắc Hưng…v.v. Trong các công trình nghiên
cứu này, các tác giả đã chỉ ra những nét tính cách phổ biến của con người Việt

Nam bao gồm cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Tuy nhiên, tính cách của con
người Việt Nam được nghiên cứu trong các công trình này vẫn chưa mang
tính lý luận cao, mà chủ yếu là mang tính chất mô tả.

3


Nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ khoa học
lịch sử có công trình “Xã thôn Việt Nam” (1959) của Nguyễn Hồng Phong.
Đây là một công trình thuộc lĩnh vực của khoa học lịch sử, bàn luận tương đối
khách quan về cả mặt tích cực lẫn tiêu cực trong tính cách (nhân cách) truyền
thống của con người Việt Nam. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh quan điểm lịch sử
trong việc nhìn nhận những đặc trưng truyền thống, tức là đánh giá cuộc sống
sinh hoạt trong những thời gian và hoạt động cụ thể. Có thể nói, quan điểm
của Nguyễn Hồng Phong đã góp phần xác định nền tảng lý luận cho cách tiếp
cận tính cách Việt Nam truyền thống trong khoa học lịch sử.
Công trình “Tìm hiểu tính cách dân tộc” (1963) là một bước tiến mới
của Nguyễn Hồng Phong trong việc phát triển khái niệm tính cách dân tộc.
Đây là một trong những nỗ lực đầu tiên phân biệt giữa “tâm lý dân tộc” và
“tính cách dân tộc”. Tác giả đã chỉ rõ nội hàm của “tính cách dân tộc”, bao
gồm toàn bộ những đặc điểm tâm lý có tính chất bền vững hình thành trong
con người. Các đặc điểm đó nói lên thái độ và hành vi đối với xã hội, đối với
bản thân, đối với nghề nghiệp, và những đặc điểm về ý chí và phẩm chất con
người. Đặc biệt là trong phần hai của tác phẩm này, tác giả đã phân tích và
luận giải những tính cách tiêu biểu của dân tộc như tính tập thể - cộng đồng,
trọng đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn, tinh thần yêu nước bất khuất và
lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, lạc quan. Tuy nhiên, tác giả gần như
không đề cập đến mặt tiêu cực trong nhân cách và tính cách của dân tộc.
Công trình “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”
(1980) của Trần Văn Giàu là một tác phẩm có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh

vực nghiên cứu tính cách truyền thống của con người Việt Nam. Xuất phát từ
cách đặt vấn đề “ta cần hiểu ta hơn nữa” và có nhu cầu của người nước ngoài
muốn hiểu biết về con người Việt Nam với những kỳ tích chiến tranh, tác giả
đã thành công trong nỗ lực hệ thống hóa, khái quát hóa hệ tư tưởng và hệ
thống giá trị đạo đức truyền thống trong lịch sử. Các giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc như lòng yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
4


thương người, vì nghĩa đã được tác giả nghiên cứu, phân tích và chứng minh.
Nhưng với cách hiểu về giá trị chỉ bao gồm cái tốt, tác giả đã gián tiếp phủ
nhận sự tồn tại tính hai mặt trong các giá trị truyền thống của dân tộc.
Nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ tâm lý học
có các công trình nghiên cứu của Đỗ Long, Vũ Dũng, Phạm Minh Hạc, tiêu
biểu như công trình “Những nghiên cứu tâm lý học” (2007) của Đỗ Long bàn
về tính chủ thể, tâm lý học nhân cách - hai khái niệm quan trọng nhất của tâm
lý học, tác giả đã có một phương pháp luận đúng đắn trong nghiên cứu lĩnh
vực khoa học này, tiếp thu nhiều tinh hoa của tâm lý học thế giới, tìm tòi, tiếp
nối, phát triển góp phần vào việc hoàn thiện Tâm lý học Việt Nam. Đặc biệt,
tác giả đã đi sâu khám phá một lĩnh vực còn rất ít nhà tâm lý học dám bước
vào - đó là tâm lý học dân tộc. Tác giả đã dành một phần (phần III) trong tác
phẩm để trình bày những nghiên cứu về tâm lý dân tộc Việt Nam trong các
nghiên cứu lịch sử và văn hóa, một số quan niệm về tính cách của con người
Việt Nam đã được tác giả trích dẫn và luận giải.
Tác phẩm “Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại
hóa - Những điều cần khắc phục” của tập thể tác giả hội viên Hội khoa học
Tâm lý - Giáo dục Việt Nam do Phạm Minh Hạc chủ biên (2004) đi theo
hướng phân cực tìm ra mặt mạnh, mặt yếu trong tâm lý người Việt Nam.
Trong cuốn sách này, mặt mạnh của khoa học tâm lý là nghiên cứu trắc
nghiệm đã không được phát huy, chỉ có một nghiên cứu điều tra phỏng vấn

duy nhất của tác giả Nguyễn Ngọc Phú, tất cả các bài còn lại đều là những
phân tích mang tính chủ quan, nặng màu sắc tư biện. Có một số hạn chế khá
phổ biến trong các bài viết của cuốn sách là trích dẫn mà không hề có phân
tích, bình luận và diễn giải về nội dung trích dẫn theo nhận thức của bản thân
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung thì cuốn sách cũng có những
đóng góp nhất định về mặt thực tiễn. Mặc dù chưa đem lại nhiều phát hiện
mới hoặc cách tiếp cận mới trong tâm lý học, song vẫn có thể đánh giá cao
công trình ở nỗ lực nhằm đóng góp một cách nhìn khách quan và tỉnh táo về
5


con người Việt Nam, tạo cơ sở cho việc khắc phục những mặt hạn chế trong
năng lực, phẩm chất và tính cách để có thể đáp ứng được yêu cầu về chất
lượng nguồn nhân lực đặt ra ngày càng cao.
Tiếp cận giá trị truyền thống của dân tộc và nghiên cứu tính cách của
con người Việt Nam dưới góc độ giá trị học có tác phẩm “Về giá trị và giá trị
châu Á” của Hồ Sỹ Quý, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2005. Tác phẩm gồm
6 chương, trong đó những vấn đề giá trị và giá trị châu Á được tác giả luận
giải một cách khoa học và có hệ thống. Tác giả đã phân tích những giá trị
truyền thống châu Á trong bối cảnh thế giới đương đại và có sự đối sánh với
những hệ giá trị khác; tổng hợp những quan điểm điển hình của một số học
giả uy tín trong nước và ngoài nước về lĩnh vực này; luận giải mối tương quan
giữa những giá trị truyền thống châu Á và nền văn hóa Việt Nam đồng thời
phân tích sự biến động một số giá trị trội trong bảng giá trị châu Á tại Việt
Nam như cần cù, hiếu học, coi trọng gia đình và cộng đồng, trước tác động
của quá trình toàn cầu hóa.
Tính cách của con người Việt Nam còn là đề tài của nhiều bài viết trên
các báo và tạp chí. Ngay những năm đầu của thế kỷ XX, với sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của công cuộc canh tân của Trung Quốc, Nhật Bản và làn sóng văn
minh phương Tây đã làm cho các bậc trí thức như Phan Bội Châu, Phan Chu

Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh sớm nhận ra những hạn chế trong nhân cách và tính
cách của con người Việt nam. Chính vì vậy, vấn đề nhận diện lại con người
Việt Nam đã được đặt ra một cách nghiêm túc với mục đích chủ yếu là làm
cho mọi người thấy rõ những nhược điểm của con người, của xã hội còn
nhiều lạc hậu để từ đó loại bỏ được những thói tệ, học theo văn minh. Vì lẽ
đó, khi phác họa bức chân dung “người Việt xấu xí”, Nguyễn Văn Vĩnh
không hề tỏ ra e dè hay khoan nhượng. Ngoài các bài viết trên Đăng cổ tùng
báo, ông còn lập ra cả một chuyên đề riêng trên Đông Dương tạp chí với tên
gọi “Xét tật mình” và chia làm hai chủ đề chính là phê phán những hủ tục và
phê phán những thói xấu của con người Việt Nam. Nhà tư tưởng Phan Bội
6


Châu, Phan Chu Trinh cũng đã viết nhiều bài nhằm phê phán những nhược
điểm trong con người và xã hội Việt Nam như “Dân khí bạc nhược” (Phan
Chu Trinh - Thư gửi chính phủ Pháp, 1906), “Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi
riêng” (Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân, 1928),... Qua giọng châm chích
mỉa mai, cười cợt thóa mạ bề ngoài, chúng ta có thể cảm thấy nhịp đập lương
tri của những người trí thức mang cốt cách chính nghĩa của dân tộc, mang
lòng yêu thương giống nòi, quê hương thiết tha được che đậy thầm kín.
Ngoài ra, ngày nay trên tạp chí Nghiên cứu con người, tạp chí Triết
học, tạp chí Tâm lý học cũng đã có những bài viết đề cập đến những khía
cạnh khác nhau trong tính cách và giá trị truyền thống của con người Việt
Nam như “Một số thay đổi về phương pháp nghiên cứu tính cách con người
Việt Nam qua 20 năm đổi mới” của Trương Huyền Chi, Vũ Minh Chi, Phạm
Minh Hạc, tạp chí Nghiên cứu con người, số 2/2006; “Về một số giải pháp
xây dựng nhân cách đạo đức hiện nay” của Nguyễn Văn Phúc, tạp chí Triết
học, số 4/1999; “Khả năng phát triển giá trị truyền thống Việt Nam trước xu
thế toàn cầu hóa” của Nguyễn Tài Thư, tạp chí Triết học, số 5/2001; “Tính
cách người Việt Nam với quá trình hội nhập” của Vũ Anh Tuấn, tạp chí Tâm

lý học, số 5/2006 …v.v
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể nói, vấn đề tính cách của con
người Việt Nam đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả,
nhiều nhà khoa học với những cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên, chủ yếu
vẫn là tiếp cận dưới góc độ văn hóa - lịch sử và gần như vắng bóng các công
trình triết học chuyên sâu.
Việc nghiên cứu phép biện chứng mà hạt nhân là quy luật mâu thuẫn đã
có rất nhiều công trình như “Biện chứng của mâu thuẫn - Nhận thức mới về
quy luật mâu thuẫn” (2000) của Lê Đức Quảng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội; “Một số vấn đề nhận thức quy luật và mâu thuẫn” (1998) của Nguyễn
Ngọc Hà, Nxb. Khoa học xã hội; “Mâu thuẫn - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” (2005) của Nguyễn Tấn Hùng, Nxb. Khoa học xã hội…, nhưng không
7


có công trình nào vận dụng quan điểm về mâu thuẫn của phép biện chứng duy
vật vào nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dựa trên quan điểm về mâu
thuẫn của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa rất quan trọng về phương diện
nhận thức khoa học và định hướng thực tiễn xây dựng con người mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ tính hai mặt trong tính cách của con
người Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Xác định cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu tính hai mặt
trong tính cách của con người Việt Nam.
Tìm hiểu tính hai mặt trong một số tính cách tiêu biểu của con người
Việt Nam trong quá trình lịch sử cả trong thực tiễn và tư tưởng.
Chỉ ra cơ sở của tính cách con người Việt Nam và tầm quan trọng của
giáo dục tính cách.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tính hai mặt trong tính cách của con người
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu những tính cách tiêu
biểu của con người Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và phương phương pháp luận nghiên cứu là những quan
điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin và các nguyên tắc phương pháp luận
của tâm lý học mácxít.
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích là chủ yếu và bước đầu kết hợp
với phương pháp tiếp cận liên ngành.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Với việc vận dụng quan điểm về mâu thuẫn của triết học Mác - Lênin
đã tạo ra sự khác biệt trong nghiên cứu, tính cách của con người Việt Nam đã
8


được nhìn nhận một cách biện chứng trong sự vận động và phát triển, thống
nhất và chuyển hóa của các mặt đối lập.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp thêm một cái nhìn, một cách luận giải tính cách của con
người Việt Nam từ phương diện triết học, từ đó giúp ích cho nhận thức và
thực tiễn giáo dục, xây dựng tính cách của con người Việt Nam.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên
trong những nghiên cứu liên quan đến tính cách của con người Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
2 chương, 7 tiết thuộc nội dung chính.

9



CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP LUẬN
CỦA VIỆC XEM XÉT TÍNH HAI MẶT TRONG TÍNH CÁCH
CỦA CON NGƢỜI VIỆT NAM
Trong nghiên cứu khoa học, việc xác định đúng cơ sở lý luận và cách
tiếp cận có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự thành công của quá trình nghiên
cứu. Việc nghiên cứu tính hai mặt trong tính cách của con người Việt Nam
cần phải dựa trên những cơ sở lý luận nhất định. Dưới đây là sự luận giải và
trình bày những cơ sở lý luận và phương pháp luận của việc nghiên cứu tính
hai mặt trong tính cách của con người Việt Nam.
1.1. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mâu thuẫn
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết
học. Một nội dung quan trọng của cuộc cách mạng này là việc xây dựng phép
biện chứng duy vật, một triết học kiểu mới về nguyên tắc, khác về căn bản so
với tất cả các triết học trước đó. Phép biện chứng duy vật không chỉ là công
cụ để nhận thức, giải thích thế giới mà còn là công cụ lý luận để cải tạo thế
giới, cải tạo hiện thực khách quan.
Hạt nhân của phép biện chứng duy vật chính là những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về mâu thuẫn, là học thuyết về sự thống nhất của các
mặt đối lập. Trong “Bút ký triết học”, V.I. Lênin đã khẳng định: “Có thể định
nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối
lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng…” [47, tr.240].
Nghiên cứu toàn diện và sâu sắc phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác
chúng ta thấy rằng thực chất phép biện chứng chính là học thuyết về mâu
thuẫn. Đây là lý luận có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử triết học. Chính
Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Phép biện chứng về mâu thuẫn đã có một tác
dụng lớn lao trong triết học từ thời những người Hy Lạp cổ đại cho đến ngày
nay” [4, tr.172].
Với tầm quan trọng đặc biệt của phép biện chứng về mâu thuẫn, của

học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập trong chủ nghĩa Mác - Lênin,
10


quan điểm về mâu thuẫn của triết học Mác - Lênin đã thực sự trở thành cơ sở
lý luận - phương pháp luận quan trọng để nhận thức giới tự nhiên, xã hội, tư
duy để đi đến cải cải tạo thế giới. Việc nghiên cứu, phân tích tính hai mặt
trong tính cách của con người Việt Nam không thể xa rời cơ sở lý luận là
phép biện chứng duy vật, cụ thể là, không thể xa rời những quan điểm của các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về mâu thuẫn nếu không muốn rơi vào
quan điểm siêu hình hoặc sai lầm. Bởi thực chất “phép biện chứng là sự
nghiên cứu mâu thuẫn ngay trong bản chất của các đối tượng: không phải chỉ
riêng hiện tượng tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới
hạn chỉ có tính ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế” [47, tr.268].
Việc vận dụng phép biện chứng về mâu thuẫn trong phân tích, nghiên
cứu tính hai mặt trong tính cách của con người Việt Nam hoàn toàn không
phải là sự áp đặt gượng ép trong nhận thức, mà nó phù hợp với tư duy biện
chứng, phù hợp với phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất
là phù hợp với bản thân đối tượng xem xét.
Sự nhận thức các sự vật, các quá trình của thế giới và nhận thức tính
cách của con người Việt Nam bằng quan điểm mâu thuẫn sẽ tạo ra sự khác
biệt so với nhận thức của các nhà triết học siêu hình. Bởi chính Ph. Ăngghen
đã khẳng định: “Đối với nhà siêu hình học thì những sự vật và sự phản ánh
của chúng trong tư duy, tức là những khái niệm đều là những đối tượng riêng
biệt, cố định, cứng đờ, vĩnh viễn, phải được xem xét cái này sau cái kia, cái
này đối lập với cái kia. Nhà siêu hình học suy nghĩ bằng những sự tương phản
hoàn toàn trực tiếp; họ nói: “Có là có, không là không; ngoài cái đó ra chỉ là
trò xảo quyệt”. Đối với họ thì sự vật hoặc là tồn tại hoặc là không tồn tại; một
sự vật không thể vừa là bản thân nó lại vừa là một sự vật khác. Cái khẳng
định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, nguyên nhân và kết quả cũng

đối lập hẳn với nhau” [4, tr.36-37]. “Chừng nào chúng ta xem xét các sự vật
như là đứng im và không có sinh khí, cái nào riêng cái ấy, cái này bên cạnh
cái kia và cái này nối tiếp cái kia, thì chắc chắn chúng ta không thấy được một
11


mâu thuẫn nào trong các sự vật cả. Chúng ta tìm thấy trong đó một số những
thuộc tính giống nhau, có phần lại khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau
nữa, nhưng trong trường hợp chúng mâu thuẫn với nhau thì các thuộc tính đó
được phân ra giữa các sự vật khác nhau và như thế là ngay trong những thuộc
tính đó cũng không chứa đựng mâu thuẫn. Trong giới hạn của lĩnh vực xem
xét này, chúng ta dùng phương pháp tư duy thông thường, phương pháp thông
thường, phương pháp siêu hình cũng có thể giải quyết được. Nhưng tình hình
sẽ khác hẳn khi chúng ta bắt đầu xem xét các sự vật trong sự vận động, sự
biến đổi, sự sống, sự tác động lẫn nhau của chúng. Lúc đó, chúng ta lập tức
gặp phải những mâu thuẫn” [4, tr.172]. Như vậy, các nhà triết học với tư duy
siêu hình không thể nhận thức, không thể thấy được tính khách quan và phổ
biến của mâu thuẫn biện chứng trong các sự vật, hiện tượng, tức là không
thấy được sự liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập
của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, không
thấy được sự vận động và phát triển thực sự của thế giới. Với phương pháp tư
duy siêu hình, người ta đã loại bỏ đi mâu thuẫn với tư cách là một xung lực
của sự vận động và phát triển. Chính vì vậy, muốn nhận thức được mâu thuẫn
và thấy được tính biện chứng trong tính cách của con người Việt Nam không
thể dựa vào tư duy siêu hình, mà phải dựa vào tư duy biện chứng, phép biện
chứng về mâu thuẫn, dựa vào chính những quan điểm về mâu thuẫn của các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cùng với việc luận chứng và bảo vệ phép biện chứng duy vật, trong tác
phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăngghen đã khẳng định tính khách quan và tính
phổ biến của mâu thuẫn: “Mâu thuẫn tồn tại một cách khách quan ở trong bản

thân các sự vật và các quá trình và có thể bộc lộ ra dưới hình thức hữu hình”.
“Bản thân sự vận động đã là một mâu thuẫn; ngay như sự di động một cách
máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được, cũng chỉ là vì một vật trong
cùng một lúc vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một chỗ lại vừa
không ở chỗ đó. Và sự nảy sinh thường xuyên và việc giải quyết đồng thời
12


mâu thuẫn này - đó cũng chính là sự vận động” [4, tr.173].Và “sự sống cũng
là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân sự vật và các quá trình, một mâu
thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì
sự sống cũng không còn nữa và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta thấy
rằng lĩnh vực tư duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng hạn
như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người với
sự tồn tại thực tế của con người ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn
cảnh bên ngoài, và bị hạn chế, trong những năng lực nhận thức, mâu thuẫn
này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối
với chúng ta trên thực tiễn cũng là vô tận, và được giải quyết trong sự vận
động đi lên liên tục” [4, tr.173-174].
Việc thừa nhận tính khách quan, tính phổ biến của mâu thuẫn không hề
xung khắc với chủ nghĩa duy vật biện chứng như một số nhà triết học tư sản
lầm tưởng. Sự phát triển của khoa học và của thực tiễn xã hội từ lâu đã bác bỏ
những nguyên tắc xuất phát của chủ nghĩa duy vật siêu hình và đã chỉ ra rằng
các mâu thuẫn tồn tại không chỉ trong tư duy của con người, không chỉ trong
hoạt động có mục đích của con người, mà cả trong tự nhiên, trong hiện thực
khách quan. Hơn nữa, trong tư duy, trong hoạt động có mục đích của con
người các mâu thuẫn diễn ra cũng chỉ vì chúng tồn tại trong hiện thực khách
quan, bởi vì tư duy và hoạt động chủ quan nói chung là sự phản ánh thế giới
bên ngoài con người. Vì vậy, một trong những yêu cầu của phép biện chứng
là phải thực hiện nguyên tắc sự phân đôi của cái thống nhất. Nguyên tắc này

của phương pháp nhận thức biện chứng đóng một vai trò quan trọng không
chỉ trong việc nhận thức các sự vật với tính cách là các đối tượng đang vận
động và phát triển, mà cả trong việc giải thích toàn bộ sự đa dạng của các
thuộc tính khác nhau và đối lập vốn có ở chúng, của các trạng thái về chất, khi
vạch ra mối quan hệ qua lại tất yếu giữa các sự vật ấy, những chuyển hóa từ
trạng thái về chất này sang trạng thái về chất khác và sang mặt đối lập với nó.
Chính V.I. Lênin cũng đã khẳng định: “Sự phân đôi của cái thống nhất và sự
13


nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó,... đó là thực chất… của phép biện
chứng” [47, tr.378].
Với tính khách quan và tính phổ biến của mâu thuẫn biện chứng, chúng
ta phải thừa nhận rằng, trong tính cách của con người cũng tồn tại những mâu
thuẫn, tức là tồn tại sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Mọi sự
vật và mọi quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều diễn ra một cách
biện chứng. Bởi vậy, nhiệm vụ của tư duy biện chứng chính là phản ánh trung
thực biện chứng khách quan. Từ trước đến nay, trong nghiên cứu tính cách
của con người Việt Nam, đa số các nhà nghiên cứu đều nhận thức được những
mặt tốt (mặt thiện, mặt tích cực) và những mặt xấu (mặt ác, mặt tiêu cực) hay
nói cách khác là đều thấy được sự tồn tại của các mặt đối lập. Tuy nhiên, nếu
chỉ dừng lại ở nhận thức như vậy thì vẫn chưa vượt qua được giới hạn của tư
duy siêu hình. Mặc dù trong chúng ta ai cũng có thể lớn tiếng phê phán tư duy
siêu hình, nhưng chỉ có một số ít nhà nghiên cứu thấy được tính biện chứng
trong các giá trị truyền thống của dân tộc, trong tính cách của con người Việt
Nam. Trong tác phẩm “Về giá trị và giá trị châu Á”, tác giả Hồ Sỹ Quý đã
thừa nhận sự tồn tại tính hai mặt trong các giá trị truyền thống của con người
Việt Nam và khẳng định: “Vô giá trị, cũng là một thứ giá trị - một thứ giá trị
nằm ở những thang bậc thấp của sự đánh giá” [77, tr.41] - Đây là một cách
nhìn biện chứng về giá trị. Mọi sự tách biệt các mặt đối lập trong tính cách

của con người Việt Nam, mà không thấy được sự thống nhất và chuyển hóa
giữa mặt đối lập đều là biểu hiện của lối tư duy phiến diện. Ngay cả mặt tốt,
mặt thiện trong tính cách của con người Việt Nam cũng bao hàm trong nó mặt
đối lập, đó là những yếu tố xấu, yếu tố ác. Hay nói theo triết học Kinh Dịch:
“Thiện - Ác giống như cặp Âm - Dương, tuy thấy như mâu thuẫn mà chẳng
hề bao giờ rời nhau. Sở dĩ được gọi là Dương là vì phần Dương lấn phần Âm,
được gọi là Âm vì phần Âm lấn phần Dương. Thực ra không vật nào trên đời
mà thuần Dương hay thuần Âm cũng như không có gì thuần Ác hay thuần
Thiện. Không có một đức tốt nào mà không đeo theo một tật xấu của nó”
14


[Dẫn theo 11]. Như vậy, rõ ràng trong tính cách của con người cũng thể hiện
rất rõ nội dung của phép biện chứng về mâu thuẫn.
Khi nói về tính ích kỷ, nhà duy vật siêu hình L. Phoiơbắc đã thể hiện ít
nhiều tư duy biện chứng trong đó, ông khẳng định: “Không chỉ có một tính
ích kỷ đơn độc hay tính ích kỷ cá nhân mà còn có một tính ích kỷ xã hội, một
tính ích kỷ của gia đình, của tập thể, của cộng đồng, một tính ích kỷ yêu nước.
Tất nhiên tính ích kỷ là nguyên nhân của mọi điều ác nhưng cũng là nguyên
nhân của mọi điều thiện; bởi vì không có cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã tạo
nên sự chiếm hữu ruộng đất, nên thương nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có
nghệ thuật, có khoa học… tính ích kỷ ngăn cấm trộm cướp, dối trá, làm hạn
chế sự ngoại tình” [Dẫn theo 81, tr.21]. Đây là quan điểm hoàn toàn mới so
với lịch sử đương thời (lịch sử thời kỳ Phoiơbắc) và có thể mới so với dòng tư
duy hiện nay khi nhìn nhận hay nghiên cứu về tính cách của con người Việt
Nam. Bởi đa số mọi người đều cho rằng, ích kỷ là tính xấu và gần như chẳng
mấy người thấy được mặt tốt, mặt thiện của nó giống như L. Phoiơbắc.
Như vậy, nếu mỗi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng trong nó những
mâu thuẫn, đều có các khuynh hướng đối lập mà mối liên hệ và tác động lẫn
nhau giữa chúng quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng,

thì điều kiện quan trọng nhất của việc nhận thức đối tượng, tái tạo bản chất
của đối tượng trong những hình tượng lý tưởng phải là việc nhận thức đối
tượng như là “sự thống nhất của các mặt đối lập”, phải là việc phát hiện
những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong vốn có của nó, cuộc đấu tranh của
những khuynh hướng ấy.
“Thường người ta không chú ý đầy đủ đến mặt này của phép biện
chứng: sự đồng nhất của các mặt đối lập” - V.I. Lênin khẳng định. Các mặt
đối lập không những tồn tại một cách khách quan mà còn có sự thống nhất,
đồng nhất với nhau và việc nhận thức sự vật, các quá trình của thế giới với
tính cách là sự thống nhất của các mặt đối lập có ý nghĩa rất quan trọng và thể
hiện rõ tư duy biện chứng. Trong “Bút ký triết học”, V.I. Lênin đã chỉ ra: “Sự
15


đồng nhất của các mặt đối lập (“sự thống nhất” của chúng, nói như vậy có lẽ
đúng hơn? tuy ở đây sự phân biệt giữa từ đồng nhất và thống nhất không quan
trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó, cả hai đều đúng), đó là sự thừa nhận (sự
tìm ra) những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau, đối lập, trong tất cả
các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên (kể cả tinh thần và xã hội). Điều
kiện của sự nhận thức về tất cả các quá trình của thế giới trong sự “tự vận
động” của chúng, trong sự phát triển tự phát của chúng, trong đời sống sinh
động của chúng, là sự nhận thức chúng với tính cách là sự thống nhất của các
mặt đối lập”[47, tr.379]. Có thể thấy, trong cách hiểu của V.I. Lênin, “sự
thống nhất của các mặt đối lập” theo một nghĩa nào đó, là “sự đồng nhất” của
các mặt đối lập. Tuy nhiên, đa số các giáo trình Triết học hiện nay, chưa đưa
ra được cách hiểu “sự thống nhất” của các mặt đối lập là “sự đồng nhất” của
các mặt đối lập đúng với tinh thần mà V.I. Lênin đã hiểu. Bởi họ cho rằng,
giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có yếu tố giống nhau, nên “sự thống nhất”
của các mặt đối lập còn bao hàm cả “sự đồng nhất”. Với cách hiểu đơn giản
như vậy đã vô tình hoặc hữu ý loại bỏ đi sự khác nhau giữa các mặt đối lập,

ranh giới giữa thiện và ác. Khi đọc Hêghen, V.I. Lênin đã rút ra kết luận như
sau: “Phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng giữa các mặt đối lập làm thế
nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất, - trong điều kiện nào đó
chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau, tại sao lý trí con người
không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là sinh động, có
điều kiện, năng động, chuyển hóa lẫn nhau” [47, tr.116- 117].
Đúng là, giữa các mặt đối lập có những yếu tố giống nhau, nên “sự
thống nhất của các mặt đối lập” bao hàm cả “sự đồng nhất”, nhưng đây chỉ là
sự đồng nhất trừu tượng. Cái mà V.I. Lênin nhấn mạnh ở đây, là sự đồng nhất
cụ thể bằng cách chuyển hóa lẫn nhau. Như vậy, rõ ràng, theo V.I. Lênin, sự
đồng nhất giữa các mặt đối lập không chỉ theo nghĩa là giữa các mặt đối lập
có những điểm giống nhau. Chính V.I. Lênin đã viết: “Tồn tại xã hội và ý
thức xã hội không phải đồng nhất, cũng như nói chung, tồn tại và ý thức
16


không phải là đồng nhất. Con người, khi liên hệ với nhau, đều xử sự với tư
cách là những sinh vật có ý thức, nhưng hoàn toàn không thể do đó mà kết
luận rằng ý thức xã hội là đồng nhất với tồn tại xã hội” [Dẫn theo 92; 106].
Mọi dụng tâm xóa nhòa ranh giới giữa các mặt đối lập, giữa Thiện - Ác hoặc
không thấy được sự chuyển hóa giữa chúng đều là biểu hiện của sự xa rời
phép biện chứng duy vật.
“Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt
đối lập là có điều kiện tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các
mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động
là tuyệt đối” [47, tr.379 - 380] - V.I. Lênin đã viết như vậy. Tuy nhiên, cần
phải khẳng định rằng, “thống nhất” của các mặt đối lập là tương đối, ở đây,
được Lênin hiểu theo nghĩa là “phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau”,
còn theo nghĩa khác, “thống nhất” của các mặt đối lập không còn là tương
đối. Chính V.I. Lênin cũng đã khẳng định: “Sự khác nhau giữa chủ nghĩa chủ

quan (chủ nghĩa hoài nghi, thuật ngụy biện etc) và phép biện chứng ngoài
những cái khác là ở chỗ trong phép biện chứng (khách quan), sự khác nhau
giữa cái tương đối và cái tuyệt đối cũng là tương đối. Đối với phép biện
chứng khách quan, trong cái tương đối có cái tuyệt đối. Đối với chủ nghĩa chủ
quan và thuật ngụy biện thì cái tương đối chỉ là tương đối và loại trừ cái tuyệt
đối” [47, tr.380]. Nhưng rất tiếc trong thực tiễn và nghiên cứu lý luận mácxít,
người ta thường nhấn mạnh một cách cực đoan đấu tranh giữa các mặt đối
lập, cụ thể là, trong thực tiễn cách mạng đã quá nhấn mạnh đến đấu tranh giai
cấp, đến bạo lực cách mạng, rơi vào tả khuynh, xa rời chân lý khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, việc vận dụng những quan điểm về mâu thuẫn
trong nghiên cứu tính hai mặt trong tính cách của con người Việt Nam cần có
sự quan tâm thích đáng đến sự tương thích, sự thống nhất không tách rời giữa
các mặt đối lập (tích cực - tiêu cực; tốt - xấu; thiện - ác…).
Mâu thuẫn, thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hình thức
phổ biến của sự tồn tại, quy định sự vận động và phát triển của các sự vật,
17


hiện tượng. Mâu thuẫn thực hiện vai trò của mình là hình thức tồn tại phổ
biến, động lực phổ biến, nguồn gốc vận động và phát triển thông qua sự tác
động lẫn nhau mà sự tác động lẫn nhau này là nguyên nhân cuối cùng của tất
cả những biến đổi. Sự tác động lẫn nhau - đó là mâu thuẫn đang tồn tại, hoạt
động thực sự. Nó hiện ra với tư cách là mối quan hệ bao gồm sự tác động và
sự phản tác động. Mỗi mặt của sự tác động qua lại đều tác động lên mặt kia và
đồng thời cần lại (phản tác động) sự tác động của nó. Hiển nhiên có mối quan
hệ mà các bộ phận của nó là những thực tại tương đối ổn định, độc lập, có
khuynh hướng đối lập, đấu tranh với nhau.
Tóm lại, việc xem xét tính hai mặt trong tính cách của con người Việt
Nam, trước hết, phải dựa vào cơ sở lý luận là phép biện chứng duy vật, mà hạt
nhân của nó là quan điểm về mâu thuẫn. Việc vận dụng quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin về mâu thuẫn để phân tích, nghiên cứu tính hai mặt trong
tính cách của con người Việt Nam không phải là sự áp đặt chủ quan, gượng
ép của tác giả, mà là phù hợp với tinh thần khoa học và cách mạng chân chính
của phép biện chứng duy vật, thấy được sự thống nhất, đấu tranh và chuyển
hóa của các mặt đối lập, tức là thấy được tính biện chứng trong tính cách của
con người Việt Nam.
1.2. Quan điểm duy vật về lịch sử
Trong triết học Mác, chủ nghĩa duy vật lịch sử có sự “kết hợp tính khoa
học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội) với tinh thần
cách mạng, và kết hợp không phải một cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì
người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết hợp trong bản thân mình những phẩm
chất của nhà bác học và của nhà cách mạng, mà là sự kết hợp trong chính bản
thân lý luận ấy, một sự kết hợp nội tại và khăng khít” [42, tr.421]. Chủ nghĩa
duy vật lịch sử chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận phổ biến để nghiên
cứu con người nói chung và nghiên cứu con người Việt Nam nói riêng.
Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, cuộc cách mạng trong lịch sử triết học
do Mác thực hiện trở nên hoàn bị hơn và đã trở thành một công cụ nhận thức
18


vĩ đại để nhận thức lịch sử loài người. Chính V.I. Lênin đã nhận định:
“Nghiên cứu sâu hơn và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa
học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới
tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là
thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Sự hỗn độn và tùy tiện từ trước
đến nay vẫn thống trị trong các quan niệm về lịch sử và chính trị được thay
bằng một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ…”. Và “triết học
Mác là một chủ nghĩa duy vật hoàn bị, nó đã cung cấp cho loài người và nhất
là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” [46, tr.53-54]. Do
vậy, việc nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam không thể xa rời một

cơ sở lý luận thực sự khoa học là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chính chủ nghĩa
duy vật lịch sử đã đưa ra những nguyên tắc, những quan điểm lý luận khoa
học mang tính phương pháp luận phổ biến để nghiên cứu xã hội, nghiên cứu
con người, đương nhiên bao hàm trong đó cả nghiên cứu tính cách của con
người Việt Nam.
Quan điểm cơ bản để xác lập toàn bộ hệ thống chủ nghĩa duy vật lịch
sử được thể hiện trong luận điểm: “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác
hơn là sự tồn tại được ý thức, và tồn tại của con người là quá trình đời sống
hiện thực của con người”; “không phải ý thức quyết định đời sống mà chính
đời sống quyết định ý thức” [56, tr.37-38]. Với quan điểm duy vật về lịch sử
như vậy, người ta “đã tìm thấy con đường để giải thích ý thức của con người
từ sự tồn tại của họ chứ không phải lấy ý thức của họ để giải thích sự tồn tại
của họ như từ trước đến nay người ta đã làm” [4, tr.44]. Việc phát hiện ra tính
quy định của phương thức sản xuất vật chất, của tồn tại xã hội đã làm cho ý
thức xã hội và các hiện tượng tinh thần khác không còn là biểu hiện của một
sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ người, cũng
không phải là sự biểu hiện của những năng lực tiên thiên, nhất thành bất biến
của con người. Các quan niệm, quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn mực,
nhân cách, tính cách, lý tưởng, niềm tin,…, xét đến cùng, đều là biểu hiện của
19


một trạng thái, một trình độ phát triển nhất định những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội.
Với lập trường duy vật, việc nghiên cứu con người phải xuất phát từ
những con người hiện thực, đúng như C. Mác đã xác định: “Những tiền đề
của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều,
đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng
tượng mà thôi. Đó chính là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn

cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra” [56, tr.28-29].
“Chúng ta không xuất phát từ những điều mà con người nói, tưởng tượng,
hình dung, chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại
trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người
khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương, bằng thịt; không,
chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là
cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự
phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình
đời sống ấy. Ngay cả những ảo tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng
là những vật thăng hoa tất yếu của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá
trình có thể được xác định bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật
chất” [56, tr.37-38]. Với luận điểm trên, C. Mác đã cho chúng ta những gợi ý
và chỉ dẫn quan trọng để nghiên cứu con người nói chung và nghiên cứu tính
cách của con người Việt Nam nói riêng. Chỉ có thể đi đến chân lý khoa học
thực sự khi xuất phát từ lập trường duy vật để nghiên cứu. Những con người
hiện thực chỉ có thể tồn tại với tư cách là chủ thể của hoạt động, mà hoạt động
cơ bản nhất chính là hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất - hoạt động tạo ra
đời sống vật chất của con người.
Trong bộ “Tư bản”, C. Mác đã xây dựng lý thuyết hoạt động duy vật
biện chứng. Con người tồn tại theo cả quy luật sinh thể và quy luật lịch sử,
nhưng quy luật lịch sử giữ vai trò chủ đạo. Chính bằng lý thuyết đó với mô
20


hình hoạt động đối tượng, chúng ta mới hiểu được con người, tìm ra con
người, đi đến giải phóng con người. Hoạt động đối tượng này được khái quát
trong hai thuộc tính của hàng hóa, trong tính chất của giá trị lao động và đặc
biệt là giá trị trao đổi, và trong học thuyết giá trị thặng dư. Đó là chìa khóa để
nghiên cứu con người và nhân cách: nghiên cứu con người theo phương pháp
tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, khi nghiên cứu con người,
nghiên cứu nhân cách (tính cách), nghiên cứu ý thức không bao giờ có thể
tách rời hoạt động đối tượng mà điển hình là hoạt động lao động. Trong tác
phẩm “Tâm lý học nghiên cứu con người trong thời đổi mới”, giáo sư Phạm
Minh Hạc đã khẳng định, phải đọc Mác kỹ hơn, nhất là “Lời tựa” của bộ “Tư
bản”. Đây là phương pháp luận của Mác để đi đến con người, mà sau này các
nhà tâm lý học của Nga đứng đầu là L.X. Vưgốtxki, X.L. Rubinstêin, A.N.
Lêônchiép đã phát triển lên thành phương pháp tiếp cận hoạt động cùng với
giao tiếp, chứ không phải bằng lời nói, đi đến ý thức, nhân cách. Trong hoạt
động lao động, người lao động đã hình dung trước kết quả lao động, tức đã có
kết quả trong ý niệm, rằng bằng công cụ lao động là phương tiện thiết lập mối
quan hệ giữa mình với đối tượng lao động, tác động để thực hiện mục đích tự
giác của mình; trong quá trình này còn có vai trò của hứng thú nữa. Chính
trong lao động con người đã thực hiện quá trình đối tượng hóa các lực lượng
bản chất của con người (quá trình xuất tâm) và đồng thời đã thực hiện quá
trình ngược lại là nhân cách hóa các thuộc tính của đối tượng (quá trình nhập
tâm). Cấu trúc của hoạt động được chuyển vào bộ não cấu thành tâm lý của
hoạt động có chủ thể, có công cụ tâm lý và sức mạnh tâm lý, sức mạnh tinh
thần. Như vậy là sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách, ý thức… luôn
luôn gắn bó với hoạt động đối tượng: hoạt động là bản thể của nhân cách và
nhân cách là chủ thể của hoạt động. C. Mác đã khẳng định: “Con nhện làm
những động tác giống như những động tác của người thợ dệt, và bằng việc
xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong làm cho một số nhà kiến trúc
21


phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con
ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến
trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi. Cuối quá trình lao động,
người lao động đã thu được cái kết quả mà họ đã hình dung ngay từ đầu quá

trình ấy, tức đã có trong ý niệm (tư tưởng) rồi. Con người không chỉ làm biến
đổi hình thái những cái do tự nhiên cung cấp; trong những cái do tự nhiên
cung cấp, con người cũng đồng thời thực hiện cái mục đích tự giác của mình,
mục đích ấy quyết định phương thức hành động của họ giống như một quy
luật mà bắt ý chí của họ phải phục tùng nó. Và sự phục tùng ấy không phải là
một hành vi đơn nhất” [61, tr.266-267].
Cơ sở lý luận trực tiếp để nghiên cứu con người, nghiên cứu tính cách
của con người Việt Nam là những quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người trong các tác phẩm kinh điển. Trong “Bản thảo
kinh tế - triết học 1844”, C. Mác đã đưa ra những tư tưởng quan trọng về con
người và luôn xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh
học và mặt xã hội - một cách nhìn nhận con người toàn diện. Chính C. Mác đã
khẳng định: “con người không chỉ là thực thể, nó là thực thể tự nhiên có tính
chất người, nghĩa là thực thể tồn tại cho mình và do đó là thực thể loài” [53,
tr.234]. Đây chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận quan trọng để nhìn
nhận, nghiên cứu con người, nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam.
Trong tư tưởng về con người, C. Mác luôn quan tâm đến hai mặt: mặt tự
nhiên và mặt xã hội, hai mặt đó quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó mặt tự
nhiên là tiền đề không thể thiếu cho sự tồn tại người. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu những tư tưởng của Mác về con người, do nhiều nguyên nhân, lâu nay
người ta đã không thấy hết được tầm ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đến
sự hình thành bản chất con người, đến sự tồn tại và phát triển của con người.
Con người với tư cách là thực thể tự nhiên, điều đó được thể hiện dưới
nhiều khía cạnh khác nhau như con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là sản
phẩm tiến hóa của tự nhiên, có cấu trúc sinh học của cơ thể người và cả
22


những nhu cầu tự nhiên của con người… C. Mác đã chỉ ra rằng: “Con người
trực tiếp là thực thể tự nhiên… với tính cách là thực thể tự nhiên, hơn nữa, lại

là “thực thể tự nhiên sống”, con người, một mặt được phú cho sức mạnh tự
nhiên dưới hình thức các “năng lực”, “thiên bẩm”, “năng khiếu” …” [53,
tr.232-233]. Tất cả những yếu tố tự nhiên ở con người, đều cần được nhìn
nhận và xem xét một cách nghiêm túc, cần phải có quan điểm duy vật biện
chứng trong nghiên cứu con người Việt Nam. Nhưng trong thực tế nghiên cứu
về con người và xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện nay
vẫn chưa thực sự quan tâm đến mặt tự nhiên ở con người. Trong khi đó chúng
ta vẫn thừa nhận con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam bên cạch những nét
chung còn có nhưng nét đặc thù tạo nên sức mạnh, mà thế giới cho là bí ẩn
của dân tộc Việt Nam. Chắc chắn, những nét đặc thù trong văn hóa, trong con
người Việt Nam không chỉ thể hiện ở khía cạnh xã hội, mà còn có cả những
đặc thù về mặt sinh học xét về chiều sâu, chứ không dừng lại ở sự khác biệt
về mặt hình thể.
Việc hiểu rõ hơn mặt tự nhiên, mặt sinh học của con người Việt Nam sẽ
góp phần hiểu đúng và sâu sắc hơn về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam, thấy
được những đặc trưng nào quy định chỉ số thông minh (IQ), chỉ số tình cảm
(EQ), chỉ số sáng tạo (CQ) của người Việt Nam. Và chỉ có hiểu rõ những đặc
điểm sinh thể của con người Việt Nam thì mới có được những biện pháp cải
thiện, phát triển giống nòi đúng hướng, mới có phương pháp giáo dục thích
hợp đưa con người Việt Nam vươn tới những đỉnh cao của sự phát triển, phù
hợp với những đòi hỏi khách quan của lịch sử.
Mặt tự nhiên ở con người là một trong những cơ sở hình thành tính
cách và ít nhiều quy định sự tồn tại người. Chính Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng:
“Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định
việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có
của vật, thành thử bao giờ cũng chỉ có thể nói đến việc những đặc tính ấy có
nhiều hay ít, đến sự chênh lệch về mức độ thú tính và tính người mà thôi” [4,
23



tr.146]. “Giống như Đác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ,
Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: cái sự thật giản đơn
đã bị tầng tầng lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: con người trước
hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã, rồi mới có thể làm chính trị, khoa
học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v được” [3, tr.499-500].
Trong Luận cương thứ 6 về Phoiơbắc, C. Mác đã khẳng định:
“Phoiơbắc hòa tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội” [55, tr.11]. Luận cương thứ 6 của C. Mác có một ý nghĩa phương pháp
luận vô cùng quan trọng trong nghiên cứu con người. Những yếu tố quy định
bản chất của con người và thể hiện rõ nhất sự khác biệt giữa con người với tự
nhiên đó là các yếu tố thuộc về xã hội. Bản chất của con người do các yếu tố
xã hội, các quan hệ xã hội quy định và cấu thành. Điều đó cũng có nghĩa là
nhân cách và tính cách của con người ngay từ đầu đã chịu sự chi phối bởi
những yếu tố thuộc về xã hội và cũng chỉ biểu hiện ra thông qua các hoạt
động mang tính xã hội của con người.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng
định: “Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ như thế ấy. Do đó, họ là như
thế nào điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng
như với cách mà họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là thế nào, điều đó phụ
thuộc vào những điều kiện vật chất của sản xuất của họ”. Hay nói cách khác
“con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người
đến mức ấy” [56, tr.55]. Chính hoàn cảnh sống, môi trường xã hội có ý nghĩa
quyết định đối với việc hình thành nhân cách, tính cách, bản chất của con
người. Tính cách của con người không phải hoàn toàn là bẩm sinh mà phần
nhiều là do hoàn cảnh tạo nên, nhưng tất nhiên cũng không phủ nhận tầm
quan trọng của tính tích cực của chủ thể. Và “nếu tính cách con người là do
hoàn cảnh tạo nên thì do đó phải làm cho hoàn cảnh hợp với tính người. Nếu
24



×