Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học Trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV: Luận án TS. Văn học: 62 22 34 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 180 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ GIANG

HỆ THỐNG NHÂN VẬT VÀ THI PHÁP THỂ HIỆN
CHÚNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN NHO THÌN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận án này là trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kì công trình nào trước đó. Nếu vi phạm tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày ….tháng ….. năm 2014
Tác giả Luận án

Nguyễn Thị Giang


MỤC LỤC


Lời cam đoan ............................................................................................................... 1
Mục lục ........................................................................................................................ 1
Danh mục các chữ viết tắt ........................................................................................... 3
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................. 16
1.1. Tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................ 16
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về ba loại nhân vật Thiền sư, Liệt nữ, Hoàng đế
trong văn học giai đoạn X-XV .............................................................................. 16
1.1.2. Nghiên cứu về thi pháp tả nhân vật văn học trung đại ............................... 26
1.2. Giới thuyết chung về vấn đề nghiên cứu ........................................................ 31
1.2.1. Khái niệm hệ thống ..................................................................................... 32
1.2.2. Khái niệm về nhân vật ................................................................................ 32
1.2.3. Nhân vật trong văn xuôi và nhân vật trong thơ ......................................... 33
1.2.4. Khái niệm thi pháp và thi pháp học ........................................................... 34
1.2.5. Kiểu tác giả ................................................................................................. 36
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 40
CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT THIỀN SƢ .................................................................. 41
2.1. Mấy vấn đề về tông phái Thiền Tông ............................................................. 41
2.1.1. Giới thiệu chung về Thiền Tông ................................................................. 41
2.1.2. Đường lối Thiền Tông và quan niệm về ngôn từ của Thiền Tông .............. 42
2.1.3. Thiền Tông tại Việt Nam ............................................................................. 44
2.2. Nhân vật thiền sƣ Huyền Quang tự biểu hiện qua thơ thiền-kệ .................. 47
2.2.1. Chân dung tự hoạ của thiền sư Huyền Quang ........................................... 47
2.2.2. Thi pháp miêu tả nhân vật Huyền Quang trong Thơ Thiền ........................ 57
2.3. Nhân vật thiền sƣ Huyền Quang trong “Tam Tổ thực lục”......................... 67
2.3.1. Về văn bản Tổ gia thực lục (TGTL) ............................................................ 67
2.3.2. Phân tích nhân vật thiền sư Huyền Quang qua cái nhìn của tác giả
“Tam Tổ thực lục” ................................................................................................ 70
2.3.3. Thi pháp thể hiện nhân vật thiền sư Huyền Quang trong “Tổ gia thực lục” .... 79
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 85


1


CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT LIỆT NỮ ..................................................................... 87
3.1. Câu chuyện về nàng liệt nữ Mỵ Ê và thực tế lịch sử ..................................... 89
3.1.1. Khảo sát sự tích về Mỵ Ê ............................................................................ 89
3.1.2. Những ghi chép của chính sử về người liệt nữ ................................................ 91
3.1.3. Câu chuyện nhân vật Mỵ Ê nhìn từ góc nhìn lý luận nghiên cứu giới ...... 97
3.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật liệt nữ Mỵ Ê ................................................... 100
3.2.1. Ngoại hình................................................................................................. 100
3.2.2. Ngôn ngữ ..................................................................................................... 104
3.2.3. Tâm lí ......................................................................................................... 106
3.2.4. “Mô típ chọn cái chết” ............................................................................. 108
3.2.5. Hình mẫu Mỵ Ê và sự tiếp nối cảm hứng ................................................. 113
Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................... 117
CHƢƠNG 4: NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ .............................................................. 118
4.1. Quan niệm về hoàng đế trong bối cảnh văn hóa, xã hội, chính trị thời
trung đại ................................................................................................................. 119
4.2. Cội nguồn văn hóa của “mô hình” hoàng đế sáng tác văn chƣơng ........... 121
4.2.1. Từ quan niệm về văn học…....................................................................... 121
4.2.2… Đến thực tế sáng tác thơ ca của Hoàng đế Lê Thánh Tông ................... 124
4.3. Chân dung tự hoạ của Hoàng đế Lê Thánh Tông ....................................... 126
4.3.1. Cái nhìn về Đức của hoàng đế Lê Thánh Tông ........................................ 126
4.3.2. Cái nhìn trong tư tưởng đường lối chính trị của hoàng đế Lê Thánh Tông . 135
4.4. Thi pháp thể hiện hình tƣợng hoàng đế Lê Thánh Tông trong thơ .......... 145
4.4.1. Hệ thống ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật biểu đạt những tư tưởng
chính trị, quan niệm của Nho giáo ..................................................................... 145
4.4.2. Hệ thống ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật biểu đạt cho quan niệm
về Đức của đế vương .......................................................................................... 149

Tiểu kết chƣơng 4 .................................................................................................. 152
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 157
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 158
PHỤ LỤC
2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHQGHN:

Đại học quốc gia Hà Nội

ĐHSPHN:

Đại học sư phạm Hà Nội

GD:

Giáo dục

Hà Nội:

H

HĐQATT:

Hồng Đức Quốc Âm thi tập


KHXH:

Khoa học xã hội

NCVH:

Nghiên cứu văn học

NXB:

Nhà xuất bản

TCVH:

Tạp chí văn học

TGTL:

Tổ gia thực lục

tr.:

Trang

VĐUL:

Việt điện u linh

VHTĐ:


Văn học trung đại

VHTĐVN:

Văn học trung đại Việt Nam

VHTT:

Văn hoá - Thông tin

VN:

Việt Nam

3


MỞ ĐẦU
1. Lí do và mục đích chọn đề tài
1.1.Văn học là nhân học. Con người bao giờ cũng là đối tượng cuối cùng của
văn học ngay cả khi nhà văn viết về loài vật hay đề vịnh cây cỏ. Và trong tác phẩm
văn học, dù là văn xuôi hay thơ, nhân vật chính là kết tinh của quan niệm về con
người của tác giả, của một giai đoạn văn học. Nếu nói nhân vật là phương tiện để
khái quát hiện thực thì ―văn học không thể thiếu nhân vật. Bởi vì đó là hình thức cơ
bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng‖. Nhân vật còn là kết quả
tương tác giữa chủ thể và khách thể - chủ thể được hiểu là kiểu tác giả với tư tưởng
chính trị, đạo đức và quan niệm về thẩm mĩ; khách thể chính là những vấn đề của thời
đại lịch sử đặt ra cho con người. Nhưng con người không phải từ trên trời rơi xuống,
cũng không phải nhất thành bất biến mà là một thực thể có tính lịch sử, thay đổi qua
thời gian. Nghiên cứu vấn đề con người trong văn học trung đại Việt Nam nói riêng

và văn học Việt Nam nói chung hiện vẫn rất đang là đề tài có ý nghĩa khoa học. Nhân
vật thể hiện quan niệm về con người của tác giả. Và quan niệm về con người bao giờ
cũng là sản phẩm của một nền văn hóa nhất định. Mỗi dân tộc, mỗi thời đại lịch sử lại
có những quan niệm riêng về con người do các quan niệm chính trị, đạo đức, tôn
giáo, thẩm mỹ riêng chi phối. Do đó, để nghiên cứu con người trong văn học Việt
Nam nói chung, cần tìm hiểu con người trong văn học trung đại. Và để khái quát về
con người trong văn học trung đại, cần phải xem xét con người của từng giai đoạn như là
chuẩn bị ―nền móng‖ cho sự xây dựng bức tranh chung về con người của cả thời đại văn
học này. Tuy rằng văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX nằm trong phạm trù
văn học trung đại nhưng giữa các giai đoạn khác nhau, hệ thống nhân vật cũng có những
điểm khác nhau. Giai đoạn đầu tiên có một vị trí định hình đặc biệt, báo hiệu đường hướng
phát triển của các giai đoạn sau. Đó là lí do đầu tiên thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài Hệ
thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học trung đại Việt Nam giai
đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
1.2. Nghiên cứu con người trong một giai đoạn văn học tuy đã được giới nghiên
cứu văn học nước ta quan tâm từ lâu, nhưng nhu cầu nghiên cứu một cách hệ thống
hầu như chưa được đặt ra.

4


Thế nào là nghiên cứu nhân vật một cách hệ thống ? Chúng tôi quan niệm tính
hệ thống của các loại kiểu nhân vật chịu sự chi phối của hệ thống vấn đề về con
người. Con người trước hết bao giờ cũng mang thuộc tính giới (gender). Thuộc tính
giới của con người một mặt có tính bẩm sinh, mang tính sinh học, mặt khác lại được
hình thành do văn hóa ứng xử giới của mỗi dân tộc, mỗi thời đại qui định. Điều cần
quan tâm đối với con người mang thuộc tính giới là những nhân tố văn hóa xã hội đã
chi phối nó như thế nào, cái gì chi phối đến kiểu mẫu người nam và người nữ, trong
sáng tác văn học, kiểu nhân vật nhìn từ góc độ giới sẽ là như thế nào. Từ nghiên cứu
theo hướng văn hóa ứng xử giới của một thời, chúng ta có thể hiểu được quan niệm

thẩm mỹ đạo đức của thời đó trong khi xây dựng nhân vật nam hay nữ. Con người
còn là một thực thể mang tính chính trị -giai cấp, bao giờ nó cũng thuộc về một giai
cấp, một tầng lớp nào đó trong xã hội, hoặc thuộc tầng lớp thống trị hay bị trị, tầng
lớp trên, thượng lưu hay tầng lớp trí thức trung gian, hay thuộc tầng lớp dưới, tầng
lớp bị trị, mang một quan điểm chính trị nhất định. Thuộc tính giai cấp của nó được
biểu hiện như thế nào trong văn chương ? Trong văn học trung đại, các diễn ngôn
chính trị của vua chúa, quan lại đều mang tính giai cấp theo một nghĩa nào đó, cần
được nhìn nhận từ góc độ chính trị. Đó là tiếng nói của những người thuộc tầng lớp
thống trị, dù bàn về dân hay về chính tầng lớp họ, về bản thân họ thì hình ảnh của họ
trong các tác phẩm cũng ít hay nhiều, đậm hay nhạt, phản ánh đường lối, tư tưởng
chính trị đạo đức phong kiến. Mẫu người lý tưởng trong môi trường chính trị của mỗi
thời đại văn học là gì? Điểm nhìn của mẫu người chính trị chi phối như thế nào đến
các phương diện khác của con người này (về giá trị làm người, về quan niệm thẩm
mỹ, về bản chất chức năng của văn học…)? Về mặt văn hóa tinh thần, văn hóa tâm
linh, con người-đặc biệt con người trong xã hội cổ trung đại, còn là một thực thể chịu
ảnh hưởng của tư tưởng triết học – đạo đức của các tôn giáo. Phật giáo, trong đó có
Thiền tông, là một tôn giáo. Tuy nói Thiền tông là một khuynh hướng trí tuệ nhưng
bản chất tôn giáo, thần bí, siêu hình vẫn là một nét biểu hiện rõ rệt, qua cách tu hành
cũng như cách diễn ngôn. Nho giáo tuy có tính duy lí, ―tử bất ngữ quái lực loạn
thần‖, nhưng màu sắc tôn giáo vẫn bộc lộ qua nghi lễ thờ trời, tế nam giao, qua biện
luận vua là thiên tử, nhận được thiên mệnh; coi nam nhi, quân tử, anh hùng là ―tú
5


khí‖ do núi sông chung đúc. Ngoài ra, bất cứ con người thuộc tầng lớp, giai cấp nào,
thời đại nào, tôn giáo nào cũng mang một kiểu văn hóa ứng xử như thế nào đó đối với
thân xác và tâm lý của bản thân mình. Nhìn con người như thế là nhìn từ góc nhìn
nhân học văn hóa mà nghiên cứu là vấn đề văn học quan tâm.
Vì thế mà để nghiên cứu nhân vật của bất kì giai đoạn văn học nào, ít nhất
cũng cần phải tiếp cận chúng từ các góc nhìn mang tính hệ thống như vậy.

1.3. Nguyên tắc xác định hệ thống nhân vật:
Hệ thống nhân vật trong VHTĐVN giai đoạn X-XV phong phú và đa dạng:
nam nhi- quý tộc- vua quan - nhà nho - ẩn sĩ- thiền sư- phụ nữ…Như chúng ta biết,
nhân vật chính trong triều đình thời độc lập là các nhà sư. Điều này cũng dễ lí giải bởi
đó là thời điểm Phật giáo đang trên đà phát triển, ảnh hưởng của nó trùm khắp xã hội.
Và nhà sư cũng trở thành ―nhân vật‖ chính trong văn học vài thế kỉ đầu. Nhà sư gồm
nhiều kiểu loại theo những tiêu chí khác nhau: Đại sư (Khuông Việt, Mãn Giác),
Quốc sư (Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Viên Thông…), Tổ sư (Trần Nhân Tông, Pháp
Loa, Huyền Quang), Thiền sư (Vạn Hạnh, Huyền Quang, Viên Chiếu, Mãn Giác, Từ
Đạo Hạnh, Dương Không Lộ…), Cư sĩ (Thông Sư, Ứng Vương), Ni sư (Diệu Nhân).
Các ông vua và vương hầu nhà Trần lại chính là những vị thiền sư thông tuệ
nhất: Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông…Trong triều đình, thay
thế địa vị của các nhà sư trong buổi đầu là quý tộc, võ tướng. Vai trò của quý tộc nhà
Trần thực sự nổi bật trong đời sống của đất nước. Trong ba cuộc chiến thắng chống
quân Nguyên- Mông, chính họ là những người xứng đáng có công đầu. Vào giai đoạn
hưng thịnh của mình, nhà Trần đã có một thế hệ tôn thất quý tộc đầy tài năng và lòng
kiêu hãnh, thật sự là bộ phận tinh hoa của đất nước. Họ là những võ tướng tài ba nơi sa
trường, là những người quản lí đất nước, là những thi sĩ, học giả đáng kính, là những
thiền sư cao đạo. Ở họ có sự dung hòa giữa tinh thần phóng khoáng của giới võ tướng,
tính chất thâm trầm nhưng rộng rãi của văn hóa Phật giáo và cả cái gọi là trung liệt của
Nho gia. Có thể kể đến những nhân vật như Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải, Trần
Quốc Tuấn, Trần Ích Tắc, Phạm Ngũ Lão…Đến khi Hồ Quý Ly thôn tính nhà Trần,
vai trò lịch sử của giới quý tộc về cơ bản chấm dứt. Phần đông trong số họ cố gắng níu
giữ sự mất mát to lớn này nhưng đều đã bị mất hết địa vị chính trị, kinh tế, xã hội và
6


cuối cùng bị tàn sát hàng loạt. Có một bộ phận rất nhỏ của tầng lớp này lại theo xu
hướng khác: về xuất thân, địa vị hiện tại, họ thuộc về tầng lớp quý tộc, nhưng họ lại là
những người có trí thức Nho học, suy nghĩ theo kiểu Nho gia. Thấu hiểu thời cuộc và

sự trớ trêu của hoàn cảnh cá nhân, con đường tỉnh táo duy nhất họ có thể lựa chọn lúc
đó là đành thoái lui để bảo toàn tính mạng cá nhân và đứng ngoài cuộc chứng kiến gia
tộc suy vong. Trần Nguyên Đán là một trường hợp điển hình. Đây cũng là một trong
những ngả đường hình thành nhân cách nhà Nho ở Việt Nam. Và bởi vậy ―nhân vật‖
văn học lúc này ngoài thiền sư, cư sĩ…còn phải kể đến quý tộc-thiền sư (vua quan nhà
Trần), quý tộc-nhà nho (Phạm Ngũ Lão, Trần Nguyên Đán), quý tộc-võ tướng (Trần
Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Đặng Dung) – kiểu nhân vật quý tộc-nhà nho, quý tộcvõ tướng chúng tôi gọi chung là mẫu hình nhân vật nam nhi đời Trần và đã có một
công trình khảo về nhân vật này đăng trên Tạp chí khoa học trường ĐHSP Hà Nội năm
2012, nhà Nho (Chu Văn An, Nguyễn Phi Khanh, Phạm Sư Mạnh…).
Đến thế kỉ XV thì niềm tin của các ông vua vào Phật giáo và tăng sư dường như
đã giảm rất nhiều, thậm chí Lê Thánh Tông còn chỉ trích, phê phán gay gắt. Không có
những đụng độ quyết liệt hay tranh giành ầm ĩ, một cách âm thầm và lặng lẽ, các nhà
sư dần nhường chỗ cho quý tộc, võ tướng và nho sĩ trên vũ đài chính trị cũng như
trong các sáng tác văn học. Nho sĩ bắt đầu có mặt ở Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Hiện
không có tài liệu nào để làm sáng tỏ tình hình Nho giáo ở Việt Nam trước thế kỉ X.
Đến thời đầu tự chủ, khi giới tăng sư là những tri thức chủ yếu của đất nước thì số
lượng nho sĩ có lẽ cũng chưa đáng kể, vì lí do Nho giáo chưa thực sự phát triển và
nhà nho cũng chưa có đất dụng võ. Đến thời Lí- Trần, Nho giáo mới thực sự bắt đầu
hình thành và bắt rễ vào đời sống xã hội. Tiến trình Nho giáo thay thế Phật giáo cũng
như trạng thái ―tam giáo tịnh hành‖ biểu hiện ở sự đông đúc dần lên của nho sĩ cũng
như địa vị ngày càng quan trọng của họ trong xã hội. Chúng ta đều biết, Hưng Đạo
Vương nuôi trong nhà khá nhiều môn khách trong đó có những người như Trần Thì
Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực…
đều do văn chương chương chính sự nổi tiếng với đời. Trần Ích Tắc, một vương hầu
nuôi tham vọng đoạt ngôi cũng chiêu mộ khá nhiều nho sinh. Hoặc đời Trần Minh
Tông thì đội ngũ nho sĩ trong triều đã khá hùng hậu: ―bấy giờ quan ở trong triều như
7


bọn Trần Thì Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Đỗ Thiên Hứ, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Dũ, Phạm

Mại, Phạm Ngộ, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Lê Duy…, Trương
Hán Siêu, Lê Cự Nhân, nối nhau làm quan, nhân tài đầy rẫy‖ [75; tr357]. Đấy là chưa
kể sự xuất hiện của hàng loạt các danh nho như Trương Hán Siêu, Nguyễn Sưởng,
Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Ức, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Lê
Quát, Nguyễn Phi Khanh...Sang thế kỉ XV, Nho giáo đã trở thành quốc giáo, giữ địa
vị độc tôn thì nho sĩ đã trở thành một lực lượng hùng hậu, chiếm đại đa số trong các
hoạt động chính trị, xã hội, văn học. Hai nhà văn vĩ đại của thế kỉ này là Nguyễn Trãi
và Lê Thánh Tông đã lựa chọn Nho giáo và thực thi Nho giáo một cách triệt để nhất
trong lẽ sống, mục đích sống của mình và dân tộc. Và có thể khẳng định ―nhân vật‖
chính của văn học thế kỉ XV là nhà Nho.
Trong cả một giai đoạn dài như vậy, trước thực tế nhiều kiểu loại nhân vật đa
dạng, theo chúng tôi, có hai nguyên tắc cần chú ý khi chọn nhân vật như đối tượng
nghiên cứu: Thứ nhất, các nhân vật đó cho thấy xu thế vận động của văn học tiến đến
trạng thái điển hình của văn học chức năng, văn học chính thống quan phương của nhà
nho. Từ ba loại hình nhân vật thiền sư, liệt nữ, hoàng đế mà luận án nghiên cứu chúng ta
thấy văn học trung đại Việt Nam giai đoạn X-XV có sự vận động. Nếu Huyền Quang là
một thiền sư có yếu tố nho gia vì bản thân ông ta trước khi đi tu đã là một nhà nho, thi đỗ
làm quan, hơn nữa bấy giờ tuy Phật giáo là quốc giáo nhưng trên cơ sở tam giáo đồng
nguyên; đến Mỵ Ê thì đã là một diễn ngôn Nho giáo hay chí ít cũng bị Nho giáo hóa; còn
Lê Thánh Tông là một hoàng đế - nhà nho một trăm phần trăm. Đây rõ ràng là giai đoạn
của văn học nhà nho tiến đến điển phạm hóa. Điều này phản ánh văn hóa Việt Nam
chuyển động từ văn hóa đa nguyên (tam giáo) sang văn hóa nhất nguyên (Nho giáo độc
tôn), xã hội Việt Nam chuyển từ chế độ quân chủ quý tộc sang quân chủ chuyen chế
quan liêu. Như vậy, văn học giai đoạn đầu đi từ tình trạng manh nha, khởi phát đến hình
thành điển phạm của văn học chính thống quan phương của nhà nho. Thứ hai, các nhân
vật đó đại diện cho nhiều nhân vật khác từ các điểm nhìn khác nhau của nhân học văn
hóa (con người tâm linh tôn giáo, con người từ góc nhìn giới và con người giai cấp).
Nguyên tắc này sẽ giúp cho việc minh định các kiểu nhân vật trở nên sâu sắc, mới mẻ,
hấp dẫn góp phần rút ngắn khoảng cách văn học trung đại với con người hiện đại.


8


Luận án nghiên cứu hệ thống nhân vật từ thế kỉ X đến thế kỉ XV trên hai thể
loại lớn là thơ và văn xuôi nhưng do khuôn khổ luận án, cũng là để tránh trùng lặp
với những nghiên cứu đã có, với phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study),
chúng tôi chỉ lựa chọn ba kiểu nhân vật tiêu biểu cho ba điểm nhìn nhân học văn hóa
về con người. Nghiên cứu con người nhìn từ góc nhìn của văn hóa tâm linh trong giai
đoạn khi mà Phật giáo còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tư tưởng đạo đức chính
trị và văn học thì không thể không quan tâm đến mẫu hình nhà sư, nhà tu hành. Nhà
sư là ai, họ tự mình thể hiện mình ra sao và được mọi người nhìn nhận như thế nào
qua sáng tác văn học, tại sao giới tu hành thời Lí -Trần lại được cả xã hội sùng kính,
từ vua quan đến dân chúng; tinh thần ―viên dung‖ tam giáo được thể hiện trong tư
tưởng chính trị, đạo đức thẩm mỹ của kiểu người này như thế nào; tại sao mẫu hình
nhà sư trong các giai đoạn văn học sau không còn hấp dẫn đối với giới trí thức sáng
tác văn học và nói chung, tại sao mẫu nhà sư lại không được xã hội chuyên chế phong
kiến về sau này lựa chọn như nhân vật chính yếu của cả hệ thống chính trị, những câu
hỏi đó sẽ được làm sáng tỏ khi chúng ta tìm hiểu họ. Như một nghiên cứu trường
hợp, luận án chọn khảo sát nhân vật Huyền Quang qua thơ ông (tự biểu hiện- chân
dung tự họa) và qua Tam Tổ thực lục (cái nhìn của người khác quan sát, miêu tả chân dung được họa). Có ý kiến gợi ý nên chọn nghiên cứu Trần Nhân Tông, song
nếu chọn ông vua này thì nội dung nghiên cứu có thể sẽ bị trùng lặp nhất định với
việc nghiên cứu Lê Thánh Tông. Vì thế chúng tôi đành chọn Huyền Quang.
Về con người nhìn từ quan điểm chính trị -giai cấp, chúng tôi chọn khảo sát
kiểu nhân vật tiêu biểu -nhân vật hoàng đế, cụ thể là nhân vật Lê Thánh Tông qua các
sáng tác của chính ông và của các tác giả khác cùng thời viết về ông. Đây là nhân vật
vốn đã hiện diện trong sử sách và sáng tác văn học rất sớm, từ đời Lí, nhưng phải đến
Lê Thánh Tông thì ta mới có được hình mẫu tiêu biểu. Tất nhiên, nói đến con người
giai cấp thì phải đề cập đến cả tầng lớp bị trị, dưới đáy xã hội, tuy nhiên, vì các sáng
tác trung đại giai đoạn này là sáng tác của tầng lớp trên nên kiểu nhân vật đại diện
cho nông dân hầu như rất mờ nhạt, vắng bóng. Về các nhân vật trung gian, thiên về

tầng lớp trên như trí thức nho sĩ, nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật thì đã có quá
nhiều luận văn các cấp nghiên cứu. Nhân vật hoàng đế tiêu biểu cho một triều đại,
9


một thể chế chính trị, mang quan điểm đạo đức, nhân cách của giai cấp thống trị, thể
hiện đường lối văn hóa chính trị, thể hiện quan điểm chính trị, đạo đức, thẩm mỹ
chính thống của một triều đại. Nghiên cứu nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại lại
chưa được giới nghiên cứu quan tâm đúng mức nên luận án định hướng tìm hiểu nhân vật
này. Sự tìm hiểu nhân vật hoàng đế sẽ giúp hình dung không những đường lối chính trị,
mô hình nhân cách của người xưng là thiên tử, đứng đầu một triều đình phong kiến chuyên
chế tập quyền mà cũng có thể góp phần hiểu thực chất quan niệm văn học của giai cấp
phong kiến thống trị và đời sống văn học cung đình dưới sự trị vì của nhân vật hoàng đế.
Nhân vật hoàng đế như một điển hình nghệ thuật này hiện ra như thế nào trong thơ văn
của chính ông ta và của những người khác viết về ông ta, có quan hệ như thế nào với sự
nghiệp trị vì của ông ta ? Những tri thức này rất quan trọng để so sánh với quan niệm văn
học hay tư tưởng chính trị được phát biểu bởi các tác giả văn học nhân đạo khác trong tư
cách là thần dân, nhất là trong giai đoạn xã hội phong kiến suy yếu, khủng hoảng.
Nhân vật nhìn theo quan điểm văn hóa về ứng xử giới tất nhiên cần được khảo
sát từ góc độ cả hai giới: giới nam và giới nữ. Tuy nhiên, các vấn đề của nhân vật nam
giới, cái nhìn nam giới đã tích hợp trong bản thân hai nhân vật Huyền Quang và Lê
Thánh Tông nên chúng tôi chỉ chọn nghiên cứu nhân vật nữ, kiểu nhân vật hiện vẫn ít
được chú ý. Lí do chủ yếu có thể là vì nhân vật nữ còn quá hiếm hoi trong những thế kỉ
đầu tiên. Xã hội phong kiến xét về văn hóa giới là xã hội nam quyền, phụ quyền, trong
đó đàn ông thống trị. Vậy thì ở những thế kỉ văn học đầu tiên ấy, biểu hiện của xã hội
nam quyền đã có chưa và nó nhấn mạnh khía cạnh gì trước nhất ở người phụ nữ ? Đó
là vấn đề chúng tôi quan tâm trong luận án này. Chúng tôi nhận thấy qua một số nhân
vật nữ tuy còn ít ỏi đó, đã quan sát thấy biểu hiện của định hướng xây dựng kiểu người
phụ nữ lí tưởng của xã hội nam quyền sẽ còn tiếp tục tồn tại mãi đến thế kỷ XX. Trong
luận án này, chúng tôi chọn nghiên cứu kiểu nhân vật người liệt nữ bắt đầu định hình

qua trường hợp nhân vật Mỵ Ê và so sánh với một số trường hợp ghi chép trong lịch
sử. Kiểu người liệt nữ lấy cái chết để bảo toàn trinh tiết, lòng chung thủy với một người
chồng (dù có thực hay là sản phẩm của hư cấu) được xã hội phong kiến tuyên truyền,
cổ vũ, được các tác giả trung đại bắt đầu từ giai đoạn văn học này ngâm vịnh, ngợi ca
thực sự đã kết tinh tư tưởng nam quyền, phản ánh mục đích giáo huấn của nền văn học
10


trung đại, hướng đến định hình một khuôn hành vi cần thiết cho phụ nữ phù hợp với
yêu cầu của trật tự đạo đức phong kiến. Nhưng lịch sử phát triển văn học thường đồng
hành với lịch sử nhận thức về quyền sống của người phụ nữ, với sự ra đời của kiểu
nhân vật phụ nữ tự ý thức về quyền sống tự do của mình, vượt khỏi sự trói buộc của
đạo đức mà xã hội nam quyền ràng buộc họ. Nghiên cứu kiểu nhân vật này sẽ tạo cơ sở
so sánh, hiểu sâu hơn những kiểu nhân vật nữ mang tinh thần nữ quyền chống lại nam
quyền, có những nét đặc điểm đối lập đối với người liệt nữ.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đó là nhân vật Thiền sư Huyền Quang trong thơ thiền và trong Tam Tổ thực lục,
nhân vật liệt nữ trong Việt điện u linh, nhân vật Hoàng đế trong thơ Lê Thánh Tông.
Bởi vì trong giai đoạn X-XV, có những kiểu nhân vật vừa chung cho cả văn học trung
đại, vừa có sự tồn tại lâu dài (ví dụ nhân vật hoàng đế, liệt nữ); lại có nhân vật đặc thù
chỉ cho riêng giai đoạn đầu tiên như nhân vật thiền sư. Tìm hiểu chúng sẽ xác định
được tính chất nền móng của giai đoạn văn học này đối với toàn bộ văn học trung đại,
đồng thời thấy sự phát triển tiếp theo của giai đoạn văn học sau.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Phạm vi văn bản
- Về số lượng tác phẩm luận án lựa chọn nghiên cứu: đối với Lê Thánh Tông
luận án không đặt nhiệm vụ nghiên cứu toàn bộ sự nghiệp văn học của ông cũng như
những sáng tác của người khác viết về ông mà chỉ khảo sát những sáng tác thơ ca của
Lê Thánh Tông (cả chữ Nôm và chữ Hán) với 250 bài vì mục đích của luận án là phân

tích chân dung tự hoạ của hoàng đế qua chính sáng tác thơ ca của ông. Đối với thiền sư
Huyền Quang, luận án khảo truyện Tổ gia thực lục trong Tam Tổ thực lục và phần thơkệ của chính nhà sư. Dĩ nhiên khi cần luận án vẫn so sánh với những tác phẩm viết về
thiền sư khác như Đại Việt sử kí toàn thư, Thiền uyển tập anh hay thơ Thiền của những
tác giả khác thời Lí-Trần. Đối với liệt nữ, luận án khảo sát văn bản chính là Việt điện u
linh của Lí Tế Xuyên. Các thông tin để so sánh từ văn bản cùng thời và khác thời cũng
được tham khảo như Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử kí toàn thư, Nam Ông mộng
lục, Đại Nam thực lục, Tang thương ngẫu lục…
11


- Về mặt tư liệu: Chúng tôi không đi vào khảo cứu, giám định văn bản mà chỉ
thừa hưởng những thành quả của người đi trước. Cụ thể chúng tôi lựa chọn đối tượng
nghiên cứu là các văn bản đã được tuyển chọn trong các bộ sách Tiếng Việt. Cụ thể là
17 bộ sách mà chúng tôi đã đưa vào trong Danh mục Tài liệu tham khảo [4, 5, 6, 14,
13, 15, 24, 41, 46, 50, 52, 53, 61, 62, 69, 83, 85].
2.2.2. Phạm vi nội dung
Trên thực tiễn VHTĐVN giai đoạn X-XV còn có nhiều hơn ba kiểu nhân vật mà
chúng tôi đã lựa chọn là Hoàng đế (qua trường hợp ―nhân vật‖ Hoàng đế Lê Thánh
Tông), Thiền sư (qua trường hợp nhân vật Huyền Quang), Liệt nữ (qua trường hợp nhân
vật Mỵ Ê trong Việt điện u linh). Các kiểu nhân vật nam nhi, anh hùng, võ tướng, quý
tộc, nhà nho, ẩn sĩ, thiền sư (trong thơ thiền và Thiền uyển tập anh)…đã có nhiều công
trình nghiên cứu chuyên sâu của các nhà nghiên cứu đi trước như Trần Đình Hượu, Trần
Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Lã Nhâm Thìn, Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Hữu Sơn,
Đoàn Thị Thu Vân, Lê Văn Tấn…nên chúng tôi xem ba kiểu nhân vật trên là giới hạn
của đề tài nghiên cứu. Hơn nữa vận dụng những kiến thức liên ngành, đa ngành chúng
tôi muốn đem đến một sự đổi mới trong cách tiếp cận văn học trung đại và những đối
tượng nghiên cứu ấy phù hợp với mục đích mà luận án đặt ra.
3. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu ba kiểu nhân vật tiêu biểu cho hệ thống nhân vật trong VHTĐVN

từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XV và thi pháp thể hiện trên hai thể loại lớn: thơ và văn xuôi.
Cũng phải nói là có nhiều quan niệm phân kì văn học nhưng chúng tôi chọn khung
phân kỳ truyền thống: theo cách này chia văn học trung đại làm 4 giai đoạn mà đây là
giai đoạn thứ nhất. Về khung thời gian phân kì, chúng tôi chọn cách phân kì gần đây
nhất của Bùi Duy Tân trong Hợp tuyển VHTĐVN, tập 1: từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XV
(NXBGD, H- 2004) với nét nổi bật là thời kì đang lên của chế độ phong kiến Việt
Nam. (Trước đây nhóm tác giả Đinh Gia Khánh, Mai Cao Chương, Bùi Duy Tân chọn
khung thời gian từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV).
- Phân tích thi pháp thể hiện hay nghệ thuật thể hiện nhân vật trong các thể loại
tiêu biểu là việc làm có tính đến sự khác biệt về thể loại tất nhiên có hàm ý phân tích cả
12


thi pháp thể loại xét trong tương quan thể hiện nhân vật. Nói cách khác mỗi thể loại có
đặc trưng riêng nên khi nghiên cứu nhân vật sẽ khai thác ở những đặc trưng riêng ấy.
Thơ trữ tình xây dựng cái tôi trữ tình (nhân vật trữ tình); văn xuôi có cốt truyện kể nên
các nhân vật có hành động, chân dung, tâm lí hay tính cách ở mức độ nhất định.
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án giải quyết đề tài từ góc độ nhân vật và thi pháp nhân vật trong VHTĐVN
giai đoạn X-XV nên chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp. Trong đó có các
phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp tiếp cận văn hoá học
- Phương pháp thi pháp học
- Phương pháp loại hình học
- Phương pháp xã hội học
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Trong những phương pháp trên có nhiều phương pháp nghiên cứu đã quá

quen thuộc đối với nghiên cứu văn học nói riêng và các ngành khoa học nói chung
thì thiết nghĩ chúng ta có thể mặc nhiên sử dụng như những công cụ để phục vụ cho
mục đích nghiên cứu của mình như phương pháp xã hội học, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp nghiên cứu
trường hợp. Ở đây, luận án chỉ trình bầy một cách vắn tắt về hai phương pháp mới
được sử dụng nhiều nhât là phương pháp tiếp cận văn hóa học, phương pháp loại hình
học (riêng phương pháp thi pháp học, cụ thể là thi pháp nhân vật sẽ được trình bầy ở
phần giới thuyết về các khái niệm nghiên cứu nên ở đây chúng tôi không bàn đến nữa
– xem mục 1.2.4. Khái niệm thi pháp và thi pháp học, trang 34-35)
Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học: Vận dụng phương pháp này các nhân vật
sẽ được soi chiếu từ điểm nhìn nhân học văn hoá. Từ đó nhân vật văn học sẽ được
chúng tôi xét theo các phương diện của con người thời trung đại như quan niệm về
thân, tâm; trong các quan hệ cá nhân, cộng đồng. Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng
13


phương pháp tiếp cận văn hoá học để giải mã hình tượng các nhân vật như Đế vương,
thiền sư, liệt nữ, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng. Chẳng hạn, trong xã hội
Việt Nam truyền thống (chúng tôi nói đến xã hội người Kinh chịu ảnh hưởng Nho
giáo chứ không bàn đến xã hội của các tộc người ít hay không chịu ảnh hưởng Nho
giáo) nếu xét từ quan điểm giới là xã hội nam quyền, một kiểu xã hội trong đó, các
chuẩn mực đạo đức của người nữ do người nam áp đặt (ví dụ chỉ có người phụ nữ
phải giữ gìn trinh tiết, chỉ được phép lấy một chồng, chồng chết là phải chết theo
chồng, còn người nam lại không bị hạn chế, không bị ràng buộc bởi phạm trù này,
người nam có quyền chủ động hơn người nữ trong tình yêu, hôn nhân trong khi người
nữ phải đóng vai trò bị động). Quan điểm văn hoá này đã chi phối đến cách xây dựng
người liệt nữ trong VĐUL của Lí Tế Xuyên. Hay trong xã hội quân chủ chuyên chế
thế kỉ X-XV, xét từ góc nhìn chính trị-xã hội Đế vương là người có quyền lực tối cao,
là người có quyền và được quyền gây ra rất nhiều những bất công, tội ác đối với nhân
dân và cả những trung thần nghĩa sĩ…, điều đó đã dẫn đến xung đột giữa nhân cách

cao thượng của nhà nho với thể chế độc quyền đó. Quan điểm này chúng ta có thể
thấy rõ trong cách thể hiện con người ẩn sĩ trong thơ Chu Văn An, Trần Nguyên Đán
và đặc biệt là Nguyễn Trãi…
Phƣơng pháp loại hình học: Lối tiếp cận loại hình học cho phép chúng tôi đi từ
cái chung, tổng quát (loại hình- thiền sư, liệt nữ, hoàng đế) đến cái riêng, cu thể (nhân vật
– Huyền Quang, Mỵ Ê, Lê Thánh Tông). Đây là con đường ngắn nhất của nhận thức.
4. Đóng góp mới của Luận án
4.1. Nghiên cứu ba kiểu nhân vật Thiền sƣ, Liệt nữ, Hoàng đế theo điểm nhìn
nhân học văn hóa
4.2. Nghiên cứu sâu thi pháp tả ba kiểu nhân vật Thiền sƣ, Liệt nữ, Hoàng đế
5. Kết cấu của Luận án
Luận án gồm 178 trang. Ngoài phần Mục Lục (02 trang), Danh mục các chữ
viết tắt (01 trang) Danh mục Công Trình Khoa Học của tác giả có liên quan đến
luận án (01 trang), Tài liệu tham khảo (12 trang, từ trang 158 đến trang 169), Phụ
lục (09 trang, từ trang 170 đến trang 178); phần chính văn Luận án gồm 153 trang
được trình bầy như sau:
14


Mở đầu:

(12 trang, từ tr.04 đến tr.15)

Chương 1: Tổng Quan về vấn đề nghiên cứu (25 trang, từ tr.16 đến tr.40)
Chương 2:

Nhân vật Thiền Sƣ (46 trang, từ tr.41 đến tr.86)

Chương 3:


Nhân vật Liệt nữ (31 trang, từ tr.87 đến tr.117)

Chương 4:

Nhân vật Hoàng đế (36 trang, từ tr.118 đến tr.153)

Kết luận:

(03 trang, từ tr.154 đến tr.156)

Phần Nội dung chính của Luận án được trình bầy trong ba chương (2, 3, 4)
tương ứng với ba kiểu nhân vật luận án lựa chọn là Thiền sư, Liệt nữ, Hoàng đế. Việc
sắp xếp thứ tự các chương cho sự xuất hiện của từng nhân vật cũng hàm chứa ngụ ý
thể hiện về sự vận động, biến chuyển, thay đổi của bản thân tiến trình văn học mấy
thế kỉ đầu. Trước hết phải nói về Thiền sư vì từ thời Bắc thuộc, loại Thiền sư đã có
mặt, và Thiền sư xuất hiện sớm nhất trong văn học những thế kỉ đầu nhưng rồi với sự
hưng thịnh của Nho giáo, nhân vật thiền sư dần mờ nhạt. Chương về nhân vật liệt nữ
xếp sau Thiền sư vì tuy Mỵ Ê là nhân vật văn học đời Lý (thế kỉ XI) nhưng là nhân
vật được Nho giáo hóa, văn bản hóa muộn hơn (được ghi lại trong sách đời Trần- thế
kỉ XIV). Chương về Hoàng đế đặt ở vị trí cuối cùng vì Lê Thánh Tông là ―nhân vật‖
của nửa cuối thế kỉ XV. Các ông vua Việt Nam trong quá trình hình thành của lịch sử
dựng nước và giữ nước đã dần dần nhận ra tầm quan trọng của văn học đối với công
cuộc trị nước, sự nghiệp chính trị; các nhà nho cũng dần dần hình dung mường tượng
về những chuẩn mực đạo đức –chính trị mà một ông vua cần có.

15


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu
Xuất phát từ thực tế nghiên cứu VHTĐVN giai đoạn thế kỉ X- XV về vấn đề
nhân vật và thi pháp nhân vật, chúng tôi đi vào tìm hiểu những công trình, những tư
liệu nghiên cứu có liên quan đến đề tài Luận án theo các hướng sau:
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về ba loại nhân vật Thiền sƣ, Liệt nữ, Hoàng đế trong
văn học giai đoạn X-XV
1.1.1.1. Về nhân vật thiền sư
Những nghiên cứu về nhân vật thiền sƣ trong thơ thiền Lí-Trần:
Sự sáng tạo thơ thiền bắt đầu từ thế kỉ X, kéo dài đến hết thế kỉ XIX. Nhưng thơ
thiền phát triển rực rỡ nhất trong thời kì Lí- Trần (thế kỉ XI- XIV). Công tác sưu tầm,
nghiên cứu, giới thiệu mảng thơ này được tiến hành từ thế kỉ XV đến nay.
Số phận của thơ thiền cũng khá long đong. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ,
việc tiếp cận thơ thiền ở nước ta dường như bị hạn chế đặc biệt ở Miền Bắc. Ở Miền
Nam, do không khí xã hội, chính trị khiến cho sách vở nghiên cứu giới thiệu về Phật giáo
nở rộ. Tuy nhiên thơ thiền vẫn chưa được giới thiệu hệ thống thành một loại hình văn
học riêng mà các nhà nghiên cứu phật giáo và văn học phật giáo tên tuổi như Nguyễn
Đăng Thục, Nguyễn Lang, Nguyễn Duy Hinh, Phương Bối, Thanh Sơn, Thích Mãn
Giác…chủ yếu đi vào tìm hiểu nội dung triết học của thơ thiền chứ không nhìn nhận nó
như một tác phẩm văn học. Bởi thế ―nhân vật‖ càng chưa được bàn đến.
Sau giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975, nhất là sau thời đổi mới,
Phật giáo được nhìn nhận khách quan và công bằng hơn, văn học nghệ thuật bắt đầu được chú
ý khai thác, tìm hiểu sâu hơn. Những tiểu luận khoa học, nhiều công trình nghiên cứu, dịch
thuật, giới thiệu về thơ thiền, về các tác giả thơ thiền lần lượt ra đời. Trong các công trình
nghiên cứu về lịch sử văn học trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như Tạp chí văn học,
Tạp chí văn hóa dân gian, Nghiên cứu nghệ thuật, Tạp chí Hán Nôm, Phật học, Tôn giáo…đã
có sự quan tâm nhất định tới thơ thiền. Nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng Phật giáo ra
đời. Các từ điển phật học được biên soạn và tái bản. Các tuyển tập văn học trong đó có nhiều
thơ thiền được trích tuyển (Bộ Thơ văn Lí- Trần đã giới thiệu hầu hết các tác giả thơ thiền tiêu
biểu). Có thể kể đến một số công trình, bài viết đánh giá chung về thơ thiền đời Lí- Trần về các
mặt như quan niệm triết lí phật giáo, thái độ tích cực lạc quan, chất trữ tình, tính trực giác…:

16


- VHVN từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIV- Bùi Văn Nguyên (Lịch sử VHVN, tập 2.
NXBGD, H- 1978)
- Văn học đời Lí và những truyền thống dân tộc- Đinh Gia Khánh (VHVN từ
thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII, tập 1. NXBGD ĐH&CN, H- 1978).
- Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học- Đặng Thai Mai (Thơ văn LíTrần, tập 1. NXBKHXH, H- 1977).
- Chất trữ tình trong thơ thiền đời Lý- Phạm Ngọc Lan (TCVH, số 4- 1986).
- Thơ thiền và việc lĩnh hội thơ thiền đời Lý- Nguyễn Phạm Hùng (TCVH, Số 4- 1992)…
Như vậy, với việc được sưu tầm, giới thiệu rộng rãi thơ thiền bắt đầu được xem xét
như là một đối tượng thẩm mĩ, một loại hình nghệ thuật độc đáo, có quá trình mã hóa và
giải mã riêng. Và từ đây việc tìm hiểu về tư tưởng nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật, về quan
niệm con người…trong thơ thiền đã được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nói riêng về vấn
đề nhân vật, phân tích nhân vật tuy chưa có một công trình, bài viết chuyên sâu nhưng
không phải không có hướng nghiên cứu liên quan. Chẳng hạn, Đoàn Thị Thu Vân trong
khi Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỉ X- XIV (Luận án
Tiến sĩ, 1995) như về ngôn ngữ thơ thiền, không gian, thời gian trong thơ thiền…cũng đã
đề cập đến ―hình tượng con người‖ thơ thiền với những đặc điểm như con người tự do,
con người vô ý, con người vô ngôn…Sâu hơn, tác giả Quang Thảo đi tìm Chân dung con
người trong thơ thiền Lí- Trần (2007) và nhận ra rằng đó là con người với phật tính thường
hữu trong tâm, con người vô ngã và sống trọn vẹn với tinh thần đời đạo không hai. Đinh
Gia Khánh trong Văn học đời Lí và những truyền thống của dân tộc đã đặt vấn đề khái
quát: ―nói về con người văn học Thiền tông thường muốn khẳng định bản lĩnh của nhà tu
hành. Những điều mà tác giả nêu lên về bản lĩnh ấy có ý nghĩa gì đối với việc xây dựng
nhân phẩm?‖ [64; tr.57]. Nguyễn Hữu Sơn khi đặt vấn đề Con đường trở lại với thiên
nhiên và đời sống qua các bài kệ (2002) đã đặc biệt quan tâm đến cái Tâm đạt đạo của con
người thiền sư: ―ngoài xu thế tu chứng, giải thoát bằng tâm thế hướng về thiên nhiên để
lòng thanh thản hòa hợp với rừng suối, cỏ nội mây ngàn, trăng thanh gió mát, một tiếng
chim ban mai, một hương cúc mùa thu, một sắc hoa nở sớm… thì chính các thiền sư lại đạt

đạo ngay trong cuộc sống thường ngày…Về hình thức, điều này có vẻ như trái ngược song
kì thực lại chứng tỏ cái tâm được giải thoát đó đã khắc phục, vượt lên mọi chướng ngại,
làm chủ được thân tâm và hoàn cảnh‖ [111; tr.191-192].
17


Văn học Lí- Trần để lại hàng trăm bài thơ thiền trong đó có nhiều đạt đến giá trị nghệ
thuật và tư tưởng cao. Chính bởi vậy, khi nghiên cứu thơ thiền, hướng khai thác về tác giả, tác
phẩm cũng là hướng thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu từ trước đến nay. Có thể nhắc
đến những trường hợp cụ thể như: Nguyễn Huệ Chi: ―Mãn Giác và bài thơ thiền nổi tiếng của
ông‖ (Tạp chí văn học, số 5/1987), ―Trần Tung - một gương mặt lạ trong làng thơ thiền Lí Trần‖ (Tạp chí văn học, số 4/1977); Nguyễn Phương Chi: ―Huyền Quang- nhà sư thi sĩ‖ (Tạp
chí văn học, Số 3 /1982); Minh Chi: ―Thơ Huyền Quang‖ (Thiền học đời Trần, Viện Văn học,
Hà Nội, 1992); Thích Phước An: ―Thiền sư Huyền Quang và con đường thầm lặng của mùa
thu‖ (Tạp chí văn học, số 4/1992); Nguyễn Phạm Hùng: ―Dương Không Lộ - thiền sư – thi sĩ‖
(Nghiên cứu Phật học, số 4 và 5/1996); Nguyễn Khắc Phi: ―Quanh nguồn tư liệu liên quan đến
bài ―Ngôn hoài‖ của Không Lộ Thiền sư‖ (TCVH, số 12/1996); Nguyễn Đăng Na: ―Con đường
tuệ giải bài kệ gọi là ―Ngôn hoài‖ của Không Lộ Thiền sư‖ (TCVH, số 7/2002); Nguyễn Hữu
Sơn: ―Nguyễn Vạn Hạnh: nhà chính trị- thiền sư- thi sĩ‖ và ―Tác gia hoang đế - thiền sư- thi sĩ
Trần Nhân Tông‖ (NCVH, số 12/2008); Nguyễn Kim Sơn: ―Cội nguồn triết học của tinh thần
thiền nhập thế Trần Nhân Tông‖
( />85:trit-hc-m-hc-vn-hoa-hc&Itemid=256). Ngoài ra còn có thể kể đến bài viết của những tác giả như:

Đoàn Thị Thu Vân, Đỗ Văn Hỷ, Hà Văn Tấn, Tầm Vu, Trần Nghĩa…
Trong những bài viết trên, chúng tôi nhận thấy ở từng phương diện cụ thể như về tác gia
Thiền sư – thi sĩ, Thiền sư – nhà tư tưởng, Thiền sư – hoàng đế…hay giá trị tác phẩm thơ ở tư
cách lịch sử, văn hóa dân gian, ý nghĩa nhân văn, đặc trưng thể loại, cảm hứng nhân sinh trong
mối liên hệ xa gần với thiên nhiên, đất nước, con người…đã có nhiều trang phân tích, đúc kết
sâu sắc. Ngay trong việc lý giải ở từng khái niệm, từng câu chữ trong văn bản liên quan tới triết
lý tư tưởng phật giáo cũng đã được xem xét kỹ lưỡng. Chỉ một cụm từ ― trường khiếu nhất
thanh‖ trong câu kết của bài ―Ngôn hoài‖ thôi cũng đã tốn bao giấy mực của các nhà nghiên

cứu. Người thì cho rằng đó là ― kêu dài một tiếng‖; có người lại lập luận đó là ―tiếng cười‖ theo
kiểu ―Lý Ngao làm thơ về tiếng cười của Duy Nghiễm, không lẽ làm thơ về tiếng cười của
mình‖ (Nguyễn Phạm Hùng); và có người thì hiểu ―tất cả các quả chuông nhất tề vang lên…‖
(Nguyễn Đăng Na). Hướng nghiên cứu này giúp đi sâu vào tác giả, tác phẩm nhằm phát hiện ra
những nét độc đáo về tư tưởng, phong cách nghệ thuật. Ở đây tuy các nhà nghiên cứu không
trực tiếp phân tích ―nhân vật‖ nhưng khi tiếp cận về tác giả, tác phẩm họ cũng đã chỉ ra được bản
chất của con người Thiền Sư về thế giới tâm hồn, bản lĩnh, nhân cách…
18


Nhìn chung, qua tình hình nghiên cứu thơ thiền ở giai đoạn văn học Lí – Trần
có thể rút ra kết luận: thơ thiền từ chỗ được giới thiệu rời rạc, chưa xác định thành một
đối tượng thẩm mĩ độc lập đến chỗ được giới thiệu thành một hệ thống rộng rãi, được
tìm hiểu, nghiên cứu trên nhiều phương diện, đã bắt đầu có một số công trình đề cập đến
vấn đề ―nhân vật‖, về con người trong thơ thiền với những đặc điểm cơ bản nhất.
Nghiên cứu về nhân vật thiền sƣ trong văn xuôi đặc biệt là trong Thiền
uyển tập anh, Tam tổ thực lục:
Các tác phẩm văn xuôi chức năng phật giáo như Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục từ
lâu cũng đã thu hút các nhà nghiên cứu. Trước hết phải kể đến công tác dịch thuật, khảo cứu văn
bản của các nhà nghiên cứu như Trịnh Đình Rư, Lê Hữu Mục, Ngọc Hồ, Đinh Gia Khánh,
Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Đăng Na, Lê Mạnh Thát...Điều đáng chú ý là, bên cạnh công tác giới
thiệu, dịch, khảo cứu văn bản, khi viết về văn học Lí- Trần, các nhà nghiên cứu dù ít dù nhiều
cũng đã bắt đầu đề cập đến những phương diện tư tưởng, nghệ thuật của những tác phẩm trên.
Và đôi chỗ, vấn đề nhân vật, kiểu nhân vật thiền sư cũng đã được nhắc đến. Ví như, trong Thơ
văn Lí- Trần, tập 1 khi khảo cứu về Thiền uyển tập anh, đã có ý gợi mở: ―…cuốn sách là một
tập chân dung các nhà thiền học, với những phác họa đôi khi rất có cá tính, đã vượt ra khỏi mọi
tiểu sử nhạt nhẽo mà đạt đến những chân dung văn học có giá trị‖ [7; tr.135]. Đinh Gia Khánh
khi tìm hiểu Văn tự sự, truyện kí đời Trần cũng đã khẳng định trong Thiền uyển tập anh có
―những sự tích xứng đáng được coi như tác phẩm văn học hay, không kém gì những truyện
ngắn đầy hấp dẫn trong văn học đời sau‖. Sau đó ông cũng đã minh họa bằng các truyện về

thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh…Đáng chú ý là khi phân tích nhân vật Từ Đạo
Hạnh, nhà nghiên cứu đã chỉ ra tính cách, thi pháp nhân vật: ―Thiền sư Từ Đạo Hạnh là một
nhân vật được miêu tả với những nét kì dị, hoang đường‖, ―tính cách…được miêu tả một cách
ngắn gọn nhưng rất sinh động‖ [64; tr.124 -125]. Cũng GS. Đinh Gia Khánh khi giới thiệu về
Tam Tổ thực lục cho rằng tuy tác phẩm ít giá trị văn học, sử học hơn so với Thiền uyển tập anh
nhưng cũng ―có những đoạn văn kì thú, miêu tả nhân vật với những nét khá sinh động…chẳng
hạn như truyện về nhà sư Huyền Quang‖ [64; tr.126]. PGS. Nguyễn Đăng Na khi tìm hiểu Văn
xuôi tự sự Việt Nam- những bước đi lịch sử trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,
tập 1 đã chỉ ra trong các tác phẩm như Thiền uyển tập anh, Tam Tổ thực lục,…đều có các nhân
vật anh tài. Đặc biệt nhà nghiên cứu còn chỉ ra nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu dựa trên
các mô típ như ―thụ thai thần kì‖, ―ra đời thần kì‖, ―xuống thủy phủ‖, ―lên trời‖, ―người xấu có
giọng hát hay‖, ‗duyên kì ngộ‖, ―chết kì lạ‖…[84].
19


Như vậy, tuy chưa đi sâu phân tích nhưng những nhận xét khái quát trên đây của
các nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Đăng Na đã gợi mở cho
chúng tôi nhiều điều bổ ích khi thực hiện Luận án.
Ngoài ra cũng phải kể đến cách tiếp cận từ nghiên cứu riêng về tác giả, tác phẩm đối
với các tập văn xuôi viết về nhân vật thiền sư. Không kể những luận án thiên về khảo sát văn
bản của các tác giả như Nguyễn Thị Oanh (Nghiên cứu văn bản Lĩnh Nam chích quái, Luận
án, H-2005), Đào Phương Chi (Nghiên cứu văn bản Việt điện u linh và quá trình chuyển dịch
của văn bản, Luận án, H-2006) thì cách tiếp cận này đáng chú ý nhất đối với nghiên cứu nhân
vật thiền sư có lẽ là luận án của PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn: ―Khảo sát loại hình tiểu truyện
thiền sư trong “Thiền uyển tập anh” (Luận án, Viện văn học- 1998). Với khá nhiều tâm đắc
và công phu trong nghiên cứu Thiền uyển tập anh nhà nghiên cứu không chỉ thể hiện ở luận án
mà còn nhiều bài viết đăng trên TCVH, Nghiên cứu Phật học…Với Luận án, sau khi chỉ ra
rằng Thiền uyển tập anh đã được các học giả Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú…xếp vào thể tài
―lục‖, ―ghi chép‖, ―truyện kí‖…Nguyễn Hữu Sơn đã xác định Thiền uyển tập anh bao gồm
trong nó loại hình tiểu truyện thiền sư. Nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 68 tiểu truyện,

xem mỗi tiểu truyện là một tác phẩm độc lập. Tác giả từ đây mới đi vào phân tích cụ thể kiểu
nhân vật thiền sư theo phương pháp loại hình thể tài trên những khía cạnh: sự ra đời, cuộc đời
tu hành (tác giả phân chia thành bốn kiểu loại cuộc đời nhân vật thiền sư: các thiền sư có phép
lạ, các thiền sư nhập thế, các thiền sư ẩn dật, các thiền sư có công hoằng dương phật giáo), mô
típ về sự qui tịch. Hướng nghiên cứu này từng được nhà nghiên cứu thể hiện trong những bài
viết như: Vị trí của “Thiền uyển tập anh” trong dòng văn xuôi truyền thống dân tộc (Tác
phẩm mới, số 2- 1992); “Thiền uyển tập anh”- từ góc nhìn một nét tương đồng thể tài biến
văn (TCVH, Số 3- 1977); “Thiền uyển tập anh”- tác phẩm mở đầu loại hình Văn xuôi tự sự
Việt Nam thời trung đại” (TCVH, Số 8- 2001); Loại hình tác phẩm “Thiền uyển tập anh”
(Chuyên luận, NXBKHXH, H- 2002)…
1.1.1.2. Về nhân vật liệt nữ
Riêng về kiểu nhân vật liệt nữ hầu như chưa có nghiên cứu (cả ở phân tích nhân vật
và thi pháp miêu tả, do đó ở hướng nghiên cứu sau chúng tôi cũng không nhắc đến lịch
sử nghiên cứu về nhân vật này nữa). Tuy nhân vật người liệt nữ lúc này chưa phổ biến,
song đây là biểu hiện khá rõ của xu hướng xây dựng thể chế văn hóa nam quyền, phục
vụ cho mô hình đạo đức phong kiến nên rất cần được nghiên cứu. Và đây là một trong
những nhiệm vụ rất cần thiết trong nghiên cứu văn học hiện nay.
20


1.1.1.3. Về nhân vật hoàng đế
Hầu hết các nhà nghiên cứu cho đến nay đều ghi nhận Lê Thánh Tông là một minh
quân, một vị anh hùng và là một tác giả lớn của VHTĐVN. Sự nghiệp mà Lê Thánh Tông
để lại trên từng phương diện quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, văn học đã được
sử sách ghi nhận, đánh giá cao. Bởi thế, con người Hoàng đế này không chỉ được các nhà
nghiên cứu văn học quan tâm mà từ rất lâu hình mẫu ấy đã thu hút các sử gia cả thời quân
chủ và thời hiện đại. Cho nên trước khi đi vào tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề về Lê
Thánh Tông thiết nghĩ cũng cần điểm qua những ý kiến của các sử gia về ông.
Với các sử gia thời quân chủ, ta có thể kể đến những lời bàn của Ngô Sĩ Liên:
―vua sáng lập chế độ văn vật khả quan, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, thực là bậc

vua anh hùng tài lược, dù Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không hơn
được‖ [30; tr.708]. So sánh với hoàng đế các đời Hán, Đường là nhằm ghi nhận công
lao mở rộng bờ cõi, nhất là thiết lập nền văn hóa Nho giáo (chế độ văn vật). Vũ Quỳnh:
―vua tư trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, mà
thánh học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển…văn thơ thì hay hơn cả các quan văn
học…‖ [30; tr.712], ghi nhận tài năng văn võ kiêm toàn; Phan Huy Chú: ―tư chất và tính
khí vua cao sáng, ham học không biết mỏi, tay không rời sách; kinh sử, chư tử, lịch số,
toán chương đều tinh thông, văn thơ càng giỏi hơn các bề tôi‖ [30; tr.725]…Ngoài ra còn
phải kể đến bài tán của Thân Nhân Trung, những lời bàn của danh sĩ họ Mạc-Hà Nhậm
Đại, ý kiến của Lê Quý Đôn...Điều cần khẳng định là qua những lời bàn trên, Lê Thánh
Tông có một tư cách văn hóa ở bậc cao nhất trong số các hoàng đế Đại Việt xưa nay,
không một hoàng đế Đại Việt nào khác có được vị trí ấy như Thiên Nam động chủ. Tổng
hợp lại, ta thấy các nhà Nho nhấn mạnh tư chất, văn võ song toàn, chăm học, lập nền văn
trị, mở mang bờ cõi…tức là hình mẫu của ông vua trong cách nhìn Nho giáo thuần túy.
Với các sử gia thời hiện đại công nghiệp và vị trí của Lê Thánh Tông cũng được khẳng
định trên nhiều phương diện khác nhau. Trong Việt sử yếu, mục ―Lời bàn của sử thị‖ về Lê
Thánh Tông, Hoàng Cao Khải cho rằng: ―Bàn về nền quân chủ ở Việt Nam ta, được xưng
tụng về văn trị và võ công cực thịnh, không lúc nào bằng triều đại Hồng Đức. Người nước ta
nên tự cho Ngài là Hán Võ Đế, Đường Thái Tông của Việt Nam. Vua Lê Thái Tổ đã ly khai
được nhà Minh cường bạo, sáng tạo nên nước ta. Những nền văn minh tới trung diệp mới
được thấm nhuần và phát triển thì tới Lê Thánh Tông mới là cực điểm‖ [63; tr.270]. Với Lệ
thần Trần Trọng Kim - tác giả Việt Nam sử lược, ―Thánh Tông là một ông vua thông minh,
21


thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đều lấy lòng thành. Ngài trị vì được ba mươi tám năm, sửa
sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các việc vũ bị, đánh dẹp
nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ cõi, khiến cho nước Nam ta bấy giờ được văn minh thêm
ra và lại lừng lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ được cường thịnh như vậy‖
[62; tr.263]. Nhà giáo Dương Quảng Hàm, dù chấp bút cuốn Việt Nam văn học sử yếu (1941)

thì vẫn phải ―đụng‖ đến nhiều vấn đề của lịch sử. Theo họ Dương, ―Trong ba mươi tám năm
làm vua, ngài (Lê Thánh Tông) đánh thua Chiêm Thành để mở mang bờ cõi nước ta về mạn
Nam; lại sửa sang chính trị, san định luật lệ, chấn chỉnh phong tục (ngài đặt ra 24 điều giáo hóa
cho dân thường, giảng đọc, để giữ lấy luân thường và phong hóa tốt). Ngài cũng lưu tâm đến
việc văn học lắm. Chính ngài đặt ra lệ xướng danh và khắc bia tiến sĩ để tưởng lệ các sĩ phu
trong nước. Năm 1479, ngài sai Ngô Sĩ Liên biên tập bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Tóm lại, ngài
thật là một bậc anh quân về triều Hậu Lê vậy‖ [36; tr.336]. Các nhận xét này chưa có gì mới so
với nhận xét của nho gia xưa. Một năm sau Dương Quảng Hàm, giữa những ngày vận động
cách mạng sôi nổi, khi cần tóm tắt lịch sử nước ta để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, Hồ
Chí Minh ―khái quát‖: ―Vua hiền có Lê Thánh Tông/ Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành”. Năm
1943, trong công trình nghiên cứu riêng về Lê Thánh Tông, nhà sử học Đào Duy Anh đánh
giá: ―Thời Lê Thánh Tông là đỉnh cao nhất của nền quân chủ phong kiến Việt Nam‖. Những
kết quả nghiên cứu, tìm tòi khoa học của ông còn được lứa học trò các khóa đầu tiếp nhận, lĩnh
hội trong vài ba thập niên nữa. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cuốn Lịch sử
Việt Nam (tập 1. NXBKHXH, H-1971) - bộ sử chính thống thời đó - do các ―sử gia‖ thuộc Ủy
ban Khoa học Xã hội chấp bút, khẳng định: ―Trong buổi đầu, chính quyền nhà Lê về cơ bản
vẫn phỏng theo tổ chức chính quyền các triều đại trước. Trải qua nhiều lần sửa đổi và chấn
chỉnh, đến đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), bộ máy hành chính cũng như tổ chức quân đội
và hoạt động lập pháp của nhà Lê đạt đến mức hoàn bị với những thiết chế chặt chẽ‖ [tr.262].
Đến đêm trước và cả những ngày sau Đổi mới, việc nhìn nhận, đánh giá vai trò to lớn, ảnh
hưởng tích cực của Lê Thánh Tông trong tiến trình lịch sử - văn hóa Việt Nam vẫn khá thống
nhất trong giới sử học quốc nội. Ở cuộc hội thảo về danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm
năm 1985 tại Hải Phòng, giáo sư Phan Huy Lê từng nêu ý kiến: ―Vào nửa sau thế kỷ XV, dưới
triều Lê Thánh Tông, chế độ phong kiến tập quyền theo mô hình Nho giáo và đạt đến mức
phát triển cao nhất‖ [30; tr.626]. Gần một thập niên sau, giáo sư bày tỏ quan điểm: ―Trên
cương vị hoàng đế của nước Đại Việt, ông (Lê Thánh Tông) đã để lại một sự nghiệp phục
hưng đất nước rạng rỡ. Trên từng phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
22



những thành tựu mà triều vua Lê Thánh Tông đạt được đã được sử sách ghi nhận‖; ―Lê Thánh
Tông rất coi trọng giáo dục, chấn chỉnh và mở mang chế độ học và thi. Thời Lê Thánh Tông là
thời thịnh đạt nhất của nền giáo dục và thi cử phong kiến‖; ―Chúng ta có thể đồng tình hay
không đồng tình với những lời ca ngợi, nhất là cách so sánh của các sử thần triều Lê, nhưng
những thành tựu và cống hiến của Lê Thánh Tông thì đã được chứng thực qua nhiều nguồn sử
liệu…‖ [30; tr.159 - 161]. Duy nhất sử gia Trần Quốc Vượng ―đề nghị một cái nhìn hơi khác‖
về Lê Thánh Tông. ―Cơ sở‖ để cố giáo sư Trần đưa ra lời ―đề nghị‖ này là: nhà vua hiếu sắc,
hiếu sát, đổi người họ Trần thành họ Trình, lạm sát tù binh Chiêm, độc tôn Nho ―quá quắt‖,
không khoan dung với tín ngưỡng dân gian…Tuy nhiên, nói cho công bằng thì nhiều ―dẫn
chứng‖ trong số đó không tiêu biểu cho những điều đáng phê phán về một ông vua, lại là
những ―tỳ vết đương nhiên‖, ―có thể chấp nhận được‖…của bất kỳ hoàng đế nào (cấu trúc xã
hội quân chủ tạo cho hoàng đế ―siêu quyền lực‖ và rất nhiều cung phi, sao ―người ta‖ không
hiếu sát, hiếu sắc?). Trần Quốc Vượng đứng trên lập trường khách quan khoa học để đánh giá
toàn diện chứ không chỉ thuần túy ―tô hồng‖ đối tượng nghiên cứu…
Với một số học giả nước ngoài từng để ra nhiều công phu, tâm huyết nghiên cứu Việt
Nam, Lê Thánh Tông là hoàng đế có vị trí sáng giá trong lịch sử. Trong cuốn Từ điển lịch sử
Việt Nam xuất bản năm 1989, tác giả Wiliam J. Duiker xem Lê Thánh Tông là ―hoàng đế vĩ
đại nhất của thời Hậu Lê (1428 - 1788)‖, có nhiều cống hiến to lớn đối với lịch sử và văn hóa
dân tộc. Tác giả đã so sánh sự nghiệp của Lê Thánh Tông với Sejong Đại đế (1397 - 1450),
nhà vua thứ tư của triều đại Choson trong lịch sử Triều Tiên; với Tokugawa Iemitsu (1603 1651), tướng quân thứ ba của triều đại Tokugawa trong lịch sử Nhật Bản [60; tr.59].
Vẫn bắt nguồn từ ―cảm hứng‖ so sánh, Nicholas Tarling trong cuốn Lịch sử Đông Nam Á - do
Đại học Cambridge biên soạn - đã so sánh Lê Thánh Tông với Paramatrailokanat, ông vua đầy quyền lực
của triều đại Ayutthaya (1351 - 1782): ―Cả hai đều là những nhà tập quyền mạnh mẽ, họ đã tuyên truyền
và chế định luật pháp (…) khẳng định mọi tầng lớp xã hội đều dưới sự trị vì của họ, đồng thời các tầng
lớp đó cũng xác định được địa vị của mình trong một cơ chế quan liêu và thể chế phù hợp‖. Trước đó,
Nicholas Tarling luận về Lê Thánh Tông: ―Những cải cách về tư tưởng, luật pháp, nông nghiệp thời Lê
Sơ do ông thực hiện đã thiết lập nên chính quyền quan liêu và trở thành khuôn mẫu cho các nhà cầm
quyền Việt Nam suốt năm thế kỷ sau đó. Đây là thời kỳ phát triển chưa từng thấy của nền học thuật và
văn hóa: các tác phẩm quan trọng về thi ca, văn hóa dân gian, lịch sử, luật pháp và về chính quyền đã
được biên soạn, chấn hưng‖ [60; tr.59 - 60]. Các sử gia nước ngoài nhấn mạnh tính chất tập quyền và thể

chế quan liêu mà Lê Thánh Tông thiết lập cho cả lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
23


×