Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ NHTM NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.23 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ NHTM NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát hoạt động của NHTM Nhà nước
2.1.1 Những thành tựu đạt được
Thế kỉ 21 đánh dấu những sự kiện quan trọng trong hoạt động của ngành
Ngân hàng Việt Nam. Là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, ngành
Ngân hàng đã tham gia và đóng góp tích cực cho chiến lược phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước. Bên cạnh đó, ngành đã có những chiến lược phát triển phù hợp
vượt qua những yếu kém tồn tại, đối phó với mọi thách thức từ môi trường bên
ngoài, đồng thời biết tận dụng mọi cơ hội để phát triển.
Vẫn giữ vị trí đi đầu trong toàn hệ thống, các NHTM quốc doanh với thị
phần huy động vốn và tín dụng chiếm 70 – 80%, hoạt động hiệu quả đã đạt được
những thành tích đáng mừng, góp phần quan trọng cho tăng trưởng, ổn định kinh tế
trong thời kì đổi mới. Những thành tích đó được biểu hiện cụ thể qua các chỉ tiêu:
Về vốn tự có: Là chỉ tiêu cơ bản đánh giá tiềm lực tài chính của NHTM Nhà
nước. Vốn tự có của Ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ dưới 10% so với tài sản
có nhưng vốn tự có có vai trò quan trọng đối với Ngân hàng vì :
Tiềm lực vốn tự có của Ngân hàng quyết định quy mô hoạt động của Ngân
hàng.
Vốn tự có của Ngân hàng quy định năng lực thanh toán và tạo ra uy tín của
Ngân hàng .
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng .
Đối với kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng có vốn tự có lớn và duy trì được vốn
tự có là biểu hiện của một Ngân hàng bền vững.Theo Thoả ước về Đo lường vốn
và tiêu chuẩn vốn quốc tế năm 1988 của uỷ ban Basel II, hệ số vốn tự có/ tổng tài
sản có điều chỉnh theo mức độ rủi ro (Hệ số CAR=Capital Adeqcy Ratio) của các
Ngân hàng tối thiểu phải là 8%.
ở Việt Nam, vốn tự có của các NHTM Nhà nước tăng liên tục trong giai
đoạn 2002 – 2005. Năm 2002 – 2003, vốn tự có tăng với tỉ lệ tương ứng là 69% và
42% đạt mức 17018 tỷ đồng vào cuối năm 2003. Sự gia tăng vốn này chủ yếu bằng
hoạt động cấp bổ sung vốn điều lệ của nhà nước cho các Ngân hàng. Chỉ tính riêng
trong năm 2002 – 2003, tổng số vốn điều lệ cấp bổ sung cho 5 NHTM Nhà nước


lên tới 9.346 tỷ, chiếm khoảng 55% vốn tự xử lý nợ và bổ sung vốn điều lệ cho các
NHTM Nhà nước. Đến cuối năm 2004, tổng số vốn điều lệ của 5 Ngân hàng này
ước đạt 18.031 tỷ đồng (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Vốn điều lệ và tỉ lệ an toàn vốn của các NHTM Nhà nước
(tháng 12/2004)
NHTM Nhà nước
Vốn điều lệ
(Tỷ đồng)
Tỉ lệ an toàn vốn
(%)
Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn
6.095 6,17
Ngân hàng Công thương
3.265 4,43
Ngân hàng đầu tư và phát triển
3.818 5,25
Ngân hàng Ngoại thương
4.030 5,97
Ngân hàng phát triển nhà đồng
bằng sông Cửu Long
823 5,74
Nguồn : NHNN Việt Nam
Đầu năm 2005, bộ tài chính lại quyết định cấp thêm vốn đợt 4, đợt
cuối cùng cho các Ngân hàng trên. Tính chung trong giai đoạn 2002 - 2005, 5
Ngân hàng trên đã được cấp thêm vốn 4 lần với tổng số tiền là 10.921 tỷ đồng.
Lượng vốn tăng thêm này góp phần cải thiện tình hình tài chính trong các NHTM
Nhà nước, giảm bớt rủi ro trong hoạt động ngân hàng do thiếu vốn và tăng cường
sự chủ động trpng việc cho vay những khách hàng có nhu cầu về vốn đầu tư lớn.
Do vốn tự có tăng nên tỷ lệ an toàn vốn/ tổng tài sản có của các Ngân

hàng cũng tăng. Cuối năm 2003, tỉ lệ an toàn vốn trung bình là 3%. Đến nay, tỉ lệ
này khoảng 5 - 6%, đưa các Ngân hàng tiến dần đến tỉ lệ an toàn vốn quốc tế.
Về xử lý nợ xấu: Nợ xấu, nợ đọng là chỉ tiêu quan trọng nhất quyết
định đến việc làm lành mạnh hoá tình hình tài chính cho các NHTM, là cơ sở để cơ
cấu lại NHTM góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định.
Đầu năm 2002, tỉ lệ nợ quá hạn của NHTM Nhà nước gần 7%. Nhờ sự chỉ
đạo kiên quyết của Chính phủ, sự chủ động của NHNN trong việc phối hợp với các
cơ quan có liên quan đưa ra những giải pháp hữư hiệu để tháo gỡ khó khăn cho các
NHTM Nhà nước, cộng thêm sự nỗ lực của bản thân các Ngân hàng, hàng nghìn tỷ
đồng nợ đã được thu hồi do bán tài sản thế chấp, do thu hồi được từ con nợ chây ỳ,
do xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro ,do nhà nứoc cấp thêm vốn… 30/9/2004 tình
hình xử lý nợ đọng của các Ngân hàng đã rất sáng sủa. Ngân hàng Ngoại thương
cơ bản xử lý được nợ tồn đọng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
xử lý được 80% nợ đọng, Ngân hàng đầu tư và phát triển xử lý được 70%, Ngân
hàng Công thương thì chưa đạt được tiến độ đề ra do nợ tồn đọng quá lớn phát sinh
từ các vụ án. Tỷ lệ xấu / Tổng dư nợ giảm đáng kể. Năm 2004 bình quân giảm 4-
5% so với năm 2003, được thể hiện qua bảng.
Bảng 2.2.Tình hình nợ xấu của các NHTM Nhà nước năm 2003-2004
NHTM Nhà nước
Tháng 12/2003 Tháng 12/2004
Nợ xấu
(Tỷ đồng)
Tỷ lệ nợ xấu/
Tổng dư nợ
(%)
Nợ xấu
(Tỷ đồng)
Tỷ lệ nợ xấu/
Tổng dư nợ
(%)

Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn
3.647,8 3,20 4.053,7 2,89
Ngân hàng Công thương 6.560,4 10,62 7.245,4 9,25
Ngân hàng đầu tư và 3.064,8 4,89 4.897,6 7,01
phát triển
Ngân hàng Ngoại thương 1.240 3,13 1.450,2 2,79
Ngân hàng phát triển nhà
đồng bằng sông Cửu
Long
80,7 1,91 1.11,2 2,23
Nguồn : NHNN Việt Nam
Khả năng sinh lời: là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của NHTM Nhà
nước. NHTM Nhà nước tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất tiền gửi, hoa hồng môi giới và phí dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Lợi
nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của NHTM Nhà nước.
Thời gian qua thu nhập của các NHTM Nhà nước liên tục tăng trung bình từ
20-30%. Dư nợ tín dụng của các NHTM Nhà nước tăng với tốc độ cao khoảng trên
20% trong những năm gần đây, thậm chí cao hơn cả tốc độ tăng vốn huy
động( bảng 2.3). Những con số đó khẳng định khả năng cung ứng vốn cho nền
kinh tế ngày càng tăng nhất là trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang rất cần vốn
để phát triển.
Bảng 2.3 :Dư nợ tín dụng của các NHTM Nhà nước Việt Nam
thời kỳ 2000-2004
NHTM Nhà nước
Năm
2000
Năm
2001
Năm

2002
Năm
2003
Năm
2004
Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn
32.581 56.138 76.233 113.920 140.270
Ngân hàng Công thương 26.281 42.142 54.543 61.761 78.329
Ngân hàng đầu tư và phát
triển
22.014 45.393 56.463 62.677 69.867
Ngân hàng Ngoại thương 11.630 16.721 25.549 39.895 51.845
Ngân hàng phát triển nhà
đồng bằng sông Cửu Long
790 1.206 2.473 4.221 4.986
Nguồn : NHNN(2000-2004)
Tuy nhiên trong cơ chế thị trường hiện nay, các Ngân hàng nói chung và
NHTM Nhà nước nói riêng đang dần dịch chuyển trọng tâm từ tập trung thực hiện
nghiệp vụ Ngân hàng truyền thống cấp tín dụng sang cung ứng các dịch vụ Ngân
hàng tiện ích cho khách hàng. Quá trình này phù hợp với xu thế phát triển tất yếu
của nền kinh tế, của thương mại quốc tế và sự tiến bộ về công nghệ thông tin.
Ngày nay chỉ tiêu tỷ lệ phí trên tiền lãi được các Ngân hàng quan tâm và xem đây
là thước đo thành tựu công nghệ của một Ngân hàng .Tỷ lệ phí trên lãi càng cao có
nghĩa là các dịch vụ phi tín dụng mà Ngân hàng sử dụng càng tiên tiến. Theo đánh
giá chung của giới tài chính tiền tệ, năm 2004 và mấy tháng đầu năm 2005 có sự
thay đổi đáng chú ý và có thể coi là “bùng nổ” về phát triển thẻ tín dụng ở Việt
Nam. Sự xuất hiện của máy rút tiền tự động ATM, vấn tin tài khoản BBMS, dịch
vụ Phone Banking, I-Banking, sản phẩm của INCAS, thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín
dụng quốc tế VISA, MASTER… với những tiện ích của chúng đã tạo những bước

ngoặt lớn cho sự phát triển của ngành Ngân hàng. Dẫn đầu về sản phẩm dịch vụ là
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với hơn 400 máy ATM lắp đặt tại 28 tỉnh
thành phố trong cả nước và 516000 chủ thẻ. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn hiện có 54 máy, đã ký hợp đồng nhập 150 máy và kế hoạch nhập tiếp
200 máy ATM nâng tổng số lên gần 400 máy và 20.000 chủ thẻ. Các công nghệ
hiện đaị khác cũng được tích cực áp dụng như: kết nối mạng thanh toán điện tử
liên Ngân hàng với NHNN, triển khai hệ thống thanh toán điện tử trực tuyến
(online), Home- Banking, Mobile Banking…Các dịch vụ thanh toán xuất nhập
khẩu, thanh toán hoá đơn ngày càng phổ biến. Tổng thu nhập từ các dịch vụ Ngân
hàng chiếm trên dưới 20% tổng thu nhập của các NHTM Nhà nước.
Do sức ép cạnh tranh ngày càng lớn, cùng với chiến lược đa dạng hoá các
loại hình dịch vụ, các NHTM Nhà nước cũng không ngừng phát triển chiến lược
khách hàng. Trong những năm gần đây các NHTM Nhà nước đã quan tâm hơn đến
vấn đề nghiên cứu khách hàng và có giải pháp để tăng cường thu hút khách hàng,
tạo dựng kênh phân phối phù hợp với nhu cầu riêng của từng khách hàng. Hoạt
động của Ngân hàng đã xâm nhập tới các lĩnhvực mới như cho vay du học, cho vay
mua nhà, cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng đặc biệt là các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó là các hình thức như tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng để
khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn đang áp dụng các hình thức như tăng lãi suất tiết kiệm, tiết kiệm
đặc biệt lãi suất lũy tiến, huy động vốn bằng chứng chỉ tiền gửi dài hạn dự thưởng
bằng vàng ba chữ A trên toàn quốc. Ngân hàng đầu tư phát triển thực hiện chương
trình tiết kiệm dự thưởng đến 8/8/2005 với tổng giá trị 5,58 tỷ đồng. Cơ cấu khách
hàng của các Ngân hàng ngày càng đa dạng nhưng giảm dần số DNNN.
Đứng trên góc độ Ngân hàng, việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ Ngân
hàng còn là một giải pháp hữu hiệu để phân tán rủi ro. Các Ngân hàng đa dạng hoá
hoạt động thì sẽ ít gặp rủi ro hơn các Ngân hàng có phạm vi sản phẩm dịch vụ hẹp.
Hoạt động Ngân hàng vốn là hoạt động luôn tồn tại rủi ro. Để giảm thiểu rủi ro,
các Ngân hàng cũng đã triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ như quyền lựa chọn
(Option), các hợp đồng tương lai (Futures Contract).

Ngoài những bước tiến cơ bản đã đạt được trên đây các NHTM Nhà nước
còn mở rộng mạng lưới chi nhánh, mở rộng mối quan hệ với các Ngân hàng, tổ
chức tài chính nước ngoài (IMF, WB), nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên thông
qua đào tạo bổ sung từ các trường đại học, học viện và hiệu quả của bộ máy hoạt
động, nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng.
2.1.2 Những hạn chế, tồn tại.
Tuy nhiên nhìn chung bên cạnh những thành tựu đạt được, những đóng góp
cho sự nghiệp đổi mới đất nước, các NHTM nhà nước vẫn chưa đáp ứng kịp thời
nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế với nhiều tồn tại, yếu kém trong hoạt
động.
Về vốn tự có : là vấn đề bất cập nhất của các NHTM Nhà nước hiện nay. Mặc
dù sau nhiều lần được Chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ nên so với những năm
trước vốn tự có của các Ngân hàng là tăng nhưng nếu so với các ngân hàng trong
khu vực thì là rất thấp. Năm 2003 sau khi được bổ sung hơn 9 nghìn tỷ, tổng vốn
tự có của các NHTM Nhà nước cũng chỉ khoảng chưa đến năm 500 triệu USD.
Trong khi trước đó ở các nước ASEAN khác, chỉ một Ngân hàng lớn cuả họ đã có
số vốn tự có lớn hơn nhiều lần số đó như ngân hàng Development Bank of
singapore vốn tự có là 8452 triệu USD, Malayan Banking vốn tự có là 3164 triệu
USD, Krung Thai Bank vốn tự có là 1435 triệu USD (năm 2001). Quy mô vốn tự
có của các NHTM Nhà nước Việt Nam được đánh giá là không tương xứng với tốc
độ tăng huy động vốn và tín dụng của nền kinh tế. Đến tháng 12/2004, tỷ lệ an toàn
vốn trung bình của các NHTM Nhà nước là 5,62%. So vơí caí đích 8% thì vẫn còn
rất xa.Nếu tổng tài sản có của các NHTM Nhà nước tiếp tục tăng trung bình 25%
một năm trong giai đoạn 2005-2010 trong khi đó nguồn vốn tự có chỉ tăng 6% (chỉ
nguồn tích luỹ nội bộ, ngân sách Nhà nước không cấp thêm ) thì cuối năm 2010, hệ
số CAR của các NHTM Nhà nước chỉ còn 1,4%, và để đáp ứng theo chuẩn mực
quốc tế thì các NHTM Nhà nước cần bổ sung thêm một lượng vốn tự có vào
khoảng 117940 tỷ đồng. (Bảng 2.4)
Mức vốn tự có thấp ảnh hưởng đến quy mô hoạt động và uy tín của Ngân
hàng trên thị trường kinh doanh trong điều kiện gay gắt là rất hạn chế. Tỉ lệ vốn tự

có quá thấp so với tài sản có làm tăng rủi ro và nguy cơ khủng hoảng của hệ thống
Ngân hàng do khó có thể khống chế được những diễn biến xấu, phức tạp trên thị
trường. Theo đánh giá của tổ chức Standard and Poor thì các NHTM nhà nướcViệt
Nam hiện đang xếp hạng có độ rủi ro cao nhất trong khu vực Đông á. Không
những thế khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại cũng sẽ bị hạn chế trong điều kiện
vốn tự có thấp.
Như vậy, nếu không tìm được giải pháp khả thi thì các NHTM Nhà nước sẽ
lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng để có thể đảm baỏ an toàn và phát triển bền
vững.
Bảng 2.4. Dự báo mức độ thiếu vốn và nhu cầu bổ sung vốn của các NHTM
Nhà nước, giai đoạn 2005-2010.
Năm
Chỉ tiêu
2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tổng tài sản có(tỷ VND) 734.867 918.583 1.148.230 1.435.287 1.794.109 2.242.636
Tốc độ tăng trưởng tài
sản có (%)
25% 25% 25% 25% 25% 25%
Tổng tài sản có điều chỉnh
theo rủi ro(tỷ VND)
587.893 734.867 918.583 1.148.230 1.435.287 1.794.109
Vốn tự có(Vốn điều lệ
+quỹ bổ sung vốn điều lệ
19.121 20.268 21.484 22.773 24.140 25.588
Tỉ lệ tăng vốn tự có theo
nguồn tích luỹ nội bộ(%)
6% 6% 6% 6% 6% 6%
Tỷ lệ vốn tự có /tài sản
điều chỉnh theo rủi ro
3,3% 2,8% 2,3% 2,0% 1,7% 1,4%

Tổng số vốn tự có tối
thiểu theo thông lệ quốc
tế (tỷ VNĐ)
47.032 58.789 73.487 91.858 114.823 143.529
Tổng số vốn tự có bị
thiếu
27.910 38.521 52.002 69.084 90.683 117.940
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng (số chuyên đề 2004)
Về nợ xấu : 31/12/2000, các NHTM nhà nước đã xác định được số nợ tồn
đọng cần xử lý phát sinh trước 31/12/2002 là 23.000 tỷ đồng theo từng nhóm nợ và
dự kiến đến năm 2003 sẽ xử lý xong toàn bộ số nợ tồn đọng. Nhưng, khi những
khó khăn của việc xử lý nợ này chưa hết thì năm 2003 lại phát sinh thêm nhiều
khoản nợ xấu khác. Đầu năm 2004, mặc dù việc xử lý nợ xấu, nợ tồn đọng đã có
nhiều chuyển biến nếu tính theo tiêu chuẩn kế toán của Việt Nam thì là 5,44%
(12/2004), nhưng nếu tính theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế (cứ chậm trả nợ một
ngày thì tính thành nợ quá hạn) thì tỷ lệ nợ này là 40%, so với thông lệ quốc tế là
5% thì gấp 8 lần cho phép. Nợ xấu cao, vốn tự có thấp làm giảm hiệu quả kinh
doanh của các NHTN Nhà nước, tăng rủi ro và giảm khả năng sinh lời.
Về khả năng sinh lời : Nghiệp vụ tín dụng hiện nay vẫn là nghiệp vụ truyền
thống tạo thu nhập chủ yếu đối với các NHTM Nhà nước nên mặc dù gia tăng dịch
vụ nhưng các Ngân hàng vẫn chú trọng đẩy mạnh đầu tư nghiệp vụ này. Tốc độ dư
nợ tín dụng hàng năm tăng cao nhưng chất lượng tín dụng chưa cao, nhiều khi phải
thực hiện vai trò cấp tín dụng theo chỉ định của chính phủ và chủ yếu cho các
DNNN. Do cạnh tranh, các Ngân hàng vừa phải tăng lãi suất tiền gửi để huy động
vốn trong khi lãi suất tiền vay lại không tăng nhiều để thu hút khách hàng. Vì vậy,
chênh lệch lãi suất có xu hướng giảm cộng với chi phí mở rộng mạng lưới chi
nhánh, dịch vụ tăng lên làm lợi nhuận của các NHTM Nhà nước giảm xuống.
Đối với mảng dịch vụ, hầu hết các NHTM Nhà nước đều còn tập trung cung
ứng dịch vụ Ngân hàng truyền thống như : thanh toán trong nước, thanh toán quốc
tế, thu phí nghiệp vụ bảo lãnh. Thu nhập từ dịch vụ chiếm 20% trong tổng thu nhập

là thấp so với các Ngân hàng thế giới khoảng hơn 40%. Ví dụ như Bank of China
đạt 77,80%; American Express đạt 39,87%, Kookmin Bank Korea đạt 52,10%,
ANZ Bank Australia đạt 30% (2003). Từng dịch vụ Ngân hàng chưa tạo dựng được
thương hiệu riêng, quy mô của từng dịch vụ còn nhỏ, chất lượng dịch vụ thấp, sức
cạnh tranh yếu, hoạt động Maketing Ngân hàng hạn chế nên tỷ lệ khách hàng là cá
nhân tiếp cận và sử dụng dịch vụ Ngân hàng còn ít. Dịch vụ thẻ thanh toán với
máy ATM chưa liên kết được giữa các ngân hàng với nhau. Rủi ro trong sử dụng
thẻ tín dụng là tương đối cao nhưng thông tin phòng ngừa rủi ro trong nghiệp vụ
thẻ tín dụng thì chưa có.
Theo thông lệ quốc tế, một Ngân hàng tốt trên thế giới thường có lợi nhuận
ròng / vốn tự có (ROA) trung bình là 1%, lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE) là
15%. So sánh với các NHTM Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ ROA giai đoạn 1999 -2003
chỉ đạt 0,38% còn chỉ số ROE thì có khuynh hướng giảm liên tục trong giai đoạn
2001-2003, từ mức 15,85% năm 2001 xuống còn 6,54% năm 2003.
Về khả năng cạnh tranh : mặc dù hoạt động Ngân hàng vẫn tập trung chủ
yếu tại 5 NHTM quốc doanh với thị phần lớn nhưng thực tế năng lực cạnh tranh
của các NHTM Nhà nước đều rất kém. Điều này xuất phát từ sở hữu NHTM quốc
doanh là Nhà nước.Tâm lý trao tiền cho quốc doanh an toàn hơn cho tư nhân đã ăn
khá sâu vào tiềm thức của người dân Việt Nam vì họ hiểu sau các NHTM quốc
doanh là Chính phủ. Bản thân các NHTM Nhà nước cũng được Nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi trongkinh doanh. Thực trạng này đã tạo nên thói quen bao cấp nặng
nề, nguyên nhân của nó là tâm lý ỷ lại vào Nhà nước của các NHTM. Trước đây
các NHTM cổ phần thường bị yếu thế vì vốn nhỏ, mức tin cậy thấp còn các Ngân
hàng nước ngoài thường bị ràng buộc bởi cơ chế. Bước vào xu thế đổi mới, tự do
hoá tài chính, các NHTM quốc doanh phải chịu áp lực cạnh tranh gay gắt và luôn
bị đe doạ. Thị phần của các NHTM Nhà nước bị chia sẻ khi Ngân hàng nước ngoài
và NHTM cổ phần đang ngày một lớn mạnh. Hơn nữa, tâm lý người dân cũng dần
dần thay đổi theo hướng tin tưởng hơn đối với Ngân hàng ngoài quốc doanh.Năm
2004 huy động vốn của khối NHTM quốc doanh tăng chậm khoảng thấp hơn 2%.
Trong khi ở các NHTM cổ phần ”không khí giao dịch đông đúc hơn mọi năm”

31/8/2004, số dư huy động của VP Bank đạt trên 2873,7 tỷ đồng. Cơ cấu thị phần
dự đoán sẽ có nhiều biến đổi theo hướng giảm thị phần NHTM Nhà nước, tăng thị
phần NHTM cổ phần, Ngân hàng nước ngoài.
Bảng 2.5 Nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay của hệ thống NHTM
Việt Nam thời điểm tháng 12/2004.

×