Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Sự thực hành nghi lễ tôn giáo của người Công Giáo nhập cư tại Hà Nội hiện nay (Nghiên cứu trường hợp Giáo xứ Cổ Nhuế, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội : Luận văn ThS. Xã hội học và Nhân học: 603103

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ NGỌC ANH

SỰ THỰC HÀNH NGHI LỄ TÔN GIÁO
CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO NHẬP CƯ
TẠI HÀ NỘI HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp Giáo xứ Cổ Nhuế, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ NGỌC ANH

SỰ THỰC HÀNH NGHI LỄ TÔN GIÁO
CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO NHẬP CƯ
TẠI HÀ NỘI HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp Giáo xứ Cổ Nhuế, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thu Hương


Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng bản thân tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác.

Học viên

Nguyễn Thị Ngọc Anh


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian một năm nỗ lực nghiên cứu, làm việc cách tích cực và nghiêm
túc, luận văn “ Sự thực hành nghi lễ tôn giáo của người nhập cư Công giáo tại
Hà Nội hiện nay” đã được hoàn thành. Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc tới PGS.TS Hoàng Thu Hương, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Xã hội học đã dạy dỗ
và truyền đạt những tri thức quý báu cho tôi trong suốt hai năm qua, để tôi có thể
hoàn thành tốt khóa học của mình.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Cha xứ giáo xứ Cổ Nhuế, các Sơ Dòng
Con Đức Mẹ Phù Hộ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi cũng như khích lệ tôi
trong suốt thời gian nghiên cứu này.
Cảm ơn bố mẹ và những người thân trong gia đình đã không ngừng khích lệ,
yêu thương và là động lực giúp tôi hoàn thành tốt luận văn của mình.
Tôi cũng không quên cảm ơn những người tín hữu Công giáo nhập cư cũng
như dân địa phương sinh hoạt tại giáo xứ Cổ Nhuế đã hết lòng cộng tác giúp trả lời
các bản trưng cầu ý kiến và phỏng vấn sâu cho đề tài nghiên cứu của tôi. Cám ơn

các bạn sinh viên nhóm Gốc Đa – những cộng tác viên đắc lực đã cùng với tôi trong
suốt thời gian thu thập dữ liệu cho nghiên cứu này.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng nhận thấy năng lực cũng như kiến thức
còn hạn chế, chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong
nhận được những góp ý của các thầy cô khoa Xã hội học nói riêng cùng các thầy cô
và các bạn đọc nói chung để tôi được rút kinh nghiệm cho các nghiên cứu tiếp theo
đạt kết quả tốt hơn.
Hà Nội, 2018

Nguyễn Thị Ngọc Anh


CHỮ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BTRT

Bí Tích Rửa Tội

BTTT

Bí Tích Thánh Thể


BTHG

Bí Tích Hòa Giải

ĐHSP

Đại học sư phạm

GLHTCG

Giáo lý hội thánh Công giáo

NCDH

Nhập cư dài hạn

NCTH

Nhập cư trung hạn

NCNH

Nhập cư ngắn hạn

PVS

Phỏng vấn sâu

UNFPA


Quỹ dân số liên hợp quốc


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Tổng quan nghiên cứu .............................................................................................2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ................................................................8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................8
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu .........................................................9
6. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................................9
7. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................................9
8. Khung lý thuyết .....................................................................................................10
9. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .........................14
1.1 Khái niệm công cụ .............................................................................................14
1.1.1. Tôn giáo ..........................................................................................................14
1.1.2. Người nhập cư .................................................................................................15
1.1.3. Người Công giáo nhập cư ...............................................................................16
1.1.4. Niềm tin và sự thực hành nghi lễ của người Công giáo .................................17
1.1.5 Khái niệm Bí Tích.............................................................................................19
1.2. Các lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu ........................................................19
1.2.1. Lý thuyết hành động xã hội .............................................................................19
1.2.2. Lý thuyết lựa chọn duy lý ................................................................................21
1.2.3 Lý thuyết nhóm xã hội ......................................................................................22
1.2.4 Lý thuyết về di dân .........................................................................................24
1.3 Khái quát về nội dung niềm tin và các nghi lễ của người Công giáo ...........25
1.4. Khái quát địa bàn nghiên cứu ........................................................................26
1.4.1 Cổ Nhuế ............................................................................................................26
1.4.2 Đôi nét về giáo xứ Cổ Nhuế và giáo họ Hoàng Thôn ......................................27

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VÀ NIỀM TIN TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI CÔNG
GIÁO NHẬP CƯ Ở HÀ NỘI ĐANG THAM GIA SINH HOẠT TẠI GIÁO XỨ
CỔ NHUẾ ................................................................................................................29
2.1 Đặc điểm nhân khẩu học của người Công giáo nhập cư ...............................29
2.2. Lý do di cư và đời sống của người Công giáo nhập cư ở Hà Nội ................32


2.4.1 Lý do di cư ........................................................................................................32
2.2.2. Người đi cùng người nhập cư ........................................................................35
2.2.3. Thời gian nhập cư và hình thức cư trú............................................................36
2.2.4. Tình trạng nhà ở và thu nhập ..........................................................................37
2.3. Niềm tin tôn giáo của người nhập cư Công giáo ...........................................39
Chương 3: CÁC CHIỀU CẠNH

THỰC HÀNH NGHI LỄ CỦA NGƯỜI

CÔNG GIÁO NHẬP CƯ Ở HÀ NỘI ĐANG THAM GIA SINH HOẠT TẠI
GIÁO XỨ CỔ NHUẾ .............................................................................................45
3.1. Đánh giá mức độ cần thiết việc thực hành nghi lễ của người nhập cư Công giáo .45
3.2. Địa điểm tham gia thực hành nghi lễ tôn giáo ...............................................47
3.3. Tần suất thực hành nghi lễ và những tác động đối với việc thực hành nghi
lễ của người nhập cư Công giáo .............................................................................50
3.3.1 Đọc kinh, cầu nguyện hàng ngày .....................................................................50
3.3.2. Tham dự nghi lễ ngày thường .........................................................................55
3.3.3. Nghi lễ ngày Chủ Nhật ....................................................................................61
3.3.4 Nghi lễ các ngày lễ trọng .................................................................................63
3.3.5. Thực hành nghi lễ cử hành các Bí Tích và lễ an táng ....................................65
3.3.6 Mức độ thường xuyên lãnh nhận hai Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải ......68
3.4. Biến đổi về thực hành nghi lễ của người Công giáo nhập cư ở Hà Nội so với
thời điểm trước khi nhập cư ..................................................................................72

3.4.1 Các nghi lễ buộc phải thực hành .....................................................................72
3.4.2 Các nghi lễ không buộc nhưng khuyến khích thực hành .................................75
3.4.3 Mối quan hệ giữa nhóm nghề nghiệp và quê quán với sự thay đổi tần suất
tham dự thánh lễ ngày chủ nhật của người Công giáo nhập cư vào Hà Nội ...........76
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................83
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Đặc điểm nhân khẩu học của người Công giáo nhập cư ................ 29
Bảng 2.2. Cơ cấu nghề nghiệp ........................................................................ 32
Bảng 2.3. Lý do di cư ...................................................................................... 33
Bảng 2.4. Những khó khăn của người nhập cư khi đến nơi ở mới ................. 34
Bảng 2.5. Người đi cùng người nhập cư ......................................................... 35
Bảng 2.6: Tôn giáo của người cùng di chuyển với người nhập cư ................. 36
Bảng 2.7. Thời gian nhập cư ........................................................................... 36
Bảng 2.8. Hình thức đăng ký tạm trú tạm vắng của người nhập cư ............... 37
Bảng 2.9. Tình trạng nhà ở của người nhập cư Công giáo ............................. 38
Bảng 2.10. Thu nhập của người nhập cư ........................................................ 38
Bảng 2.11: Mức độ hoàn toàn tin tưởng vào những điều sau đây .................. 40
Bảng 3.1. Đánh giá mức độ cần thiết của việc thực hành nghi lễ ................... 45
Bảng 3.2: Địa điểm tham dự nghi lễ của người nhập cư ................................ 47
Bảng 3.3: Người cùng thực hành nghi lễ với người nhập cư .......................... 49
Bảng 3.4: Thực hành đọc kinh, cầu nguyện .................................................... 51
Bảng 3.5: Mối liên hệ giữa nhận thức sự cần thiết của việc đọc kinh cầu
nguyện với việc thực hành đọc kinh cầu nguyện. ........................................... 52
Bảng 3.6. Mối quan hệ giữa Giới tính và việc đọc kinh cầu nguyện.............. 53
Bảng 3.7. Mức độ tham dự nghi lễ ngày thường ............................................ 55

Bảng 3.8. Mối liên hệ giữa nhận thức sự cần thiết của việc tham dự nghi lễ
ngày thường với mức độ thực hành nghi lễ ngày thường ............................... 58
Bảng 3.9: Mối quan hệ giữa những người nhập cư tham gia nhóm ca đoàn và
tham dự nghi lễ ngày thường .......................................................................... 60
Bảng 3.10: Mức độ thường xuyên tham dự nghi lễ ngày Chủ Nhật ............... 61
Bảng 3.11: Mối liên hệ giữa giới và việc thực hành nghi lễ ngày Chủ Nhật.......... 62
Bảng 3.12. Mức độ tham dự những nghi lễ trọng ........................................... 63
Bảng 3.13: Mức độ tham dự nghi lễ cử hành các Bí Tích và lễ an táng ......... 65


Bảng 3.14. Mức độ thường xuyên lãnh nhận BTTT và BTHG ...................... 68
Bảng 3.15. Mối liên hệ giữa giới tính và việc lãnh nhận hai Bí Tích Thánh
Thể và Bí Tích Hòa Giải ................................................................................. 70
Bảng 3.16: Mối liên hệ giữa người nhập cư tham gia nhóm sinh viên Công
giáo và việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể ..................................................... 71
Bảng 3.17: Mối quan hệ giữa nhóm nghề nghiệp và quê quán với sự thay đổi
tần suất tham dự thánh lễ ngày chủ nhật của người Công giáo nhập cư vào Hà
Nội ................................................................................................................... 77


BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Sự thay đổi tần suất thực hành một số nghi lễ bắt buộc: thánh lễ
chủ nhật và các ngày lễ trọng của người Công giáo sau khi nhập cư vào Hà
Nội. .................................................................................................................. 72
Biểu đồ 3.2 : Sự thay đổi tần suất thực hành nghi lễ bắt buộc: BTHG, BTTT
của người Công giáo sau khi nhập cư vào Hà Nội. ........................................ 74
Biểu đồ 3.3: Sự thay đổi một số nghi lễ không bắt buộc của người Công giáo
sau khi nhập cư vào Hà Nội. ........................................................................... 76



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, làn sóng di cư là rất lớn. Theo số liệu trên thế giới, “trong số
213 quốc gia/vùng lãnh thổ có số liệu, thì năm 1990 cả thế giới có 152.563.212
người di cư quốc tế. Con số này tăng lên đến 172.703.309 người vào năm 2000;
221.714.243 người năm 2010; lên đến mức kỷ lục là 243.700.236 người vào năm
2015 Việt Nam đang trên đà phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Hồ sơ di cư
Việt Nam, 2016). Vì thế, nước ta cũng không tránh khỏi làn sóng di cư từ miền quê
lên thành thị để mưu sinh và học tập cũng như thăng tiến đời sống.
Với những lợi thế và tiềm lực của trung tâm văn hóa - chính trị - kinh tế lớn
nhất trong cả nước, Hà Nội là một trong các địa phương thu hút rất nhiều người di
dân từ các tỉnh, thành khác đến học tập, làm việc và sinh sống. Bên cạnh đó, Hà Nội
còn có các trường đại học, cao đẳng, trung cấp hàng năm thu hút rất nhiều học sinh,
sinh viên ngoại tỉnh về học tập. Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê về tỷ
suất nhập cư của cả nước vào năm 2016, tỷ suất nhập cư ở cả nước và Hà Nội đều là
4,6%. (Tỷ suất nhập cư, xuất cư, di cư thuần theo địa phương. Tổng cục thống kê).
Các nghiên cứu về di cư đã cho thấy việc di chuyển từ địa bàn sinh sống này sang
địa bàn sinh sống khác có những tác động tới bản thân người di cư, đến nơi họ đến
và cả nơi đi của họ. Trong các nghiên cứu trên thế giới về những người di chuyển
đến các nước Tây Âu cho thấy nhu cầu tâm linh của họ ngày càng cao và nhà thờ
luôn là nơi rất cần thiết để người nhập cư có thể lui tới cầu nguyện, thờ phượng,
thực hành các nghi lễ và gắn bó như nhà của mình; nhờ thế qua tôn giáo họ có khả
năng đến với người khác là những người cùng nhập cư hay những người không
nhập cư và từ đó mở ra một sự gắn kết mới đối với con người và môi trường nơi họ
đến (Hirschman, 2004).
Ở Việt Nam, vấn đề di cư hay nhập cư được nhà nước ta quan tâm và có
những chính sách cụ thể dành cho đối tượng này; nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước chú ý nhiều đến vấn đề di cư đặc biệt khi mà làn sóng di cư ngày càng
tăng. Tuy nhiên, những nghiên cứu về mặt tôn giáo về người di cư vẫn chưa được

quan tâm thỏa đáng đặc biệt những đối tượng di cư là người Công giáo.

1


Nằm trên quận Bắc Từ Liêm (huyện Từ Liêm –cũ) là nơi tập trung rất nhiều
trường đại học và khu công nghiệp thu hút nhiều sinh viên và lao động nhập cư từ
các tỉnh lân cận và khắp các tỉnh trong cả nước, Giáo xứ Cổ Nhuế là một trong các
giáo xứ ở Hà Nội thu hút đông đảo người nhập cư Công giáo tới tham gia sinh hoạt
và thực hành nghi lễ. Cụ thể là có hơn 5.000 người nhập cư Công giáo mà phần
đông là sinh viên tham gia sinh hoạt tại giáo xứ Cổ Nhuế, còn người Công giáo
không nhập cư thuộc giáo xứ Cổ Nhuế này là rất ít, chỉ khoảng 500 người. (Thông
tin từ Cha xứ giáo xứ Cổ Nhuế ).
Trong bối cảnh như vậy, tác giả quyết định đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Sự
thực hành nghi lễ tôn giáo của người Công giáo nhập cư tại Hà Nội hiện nay
(Nghiên cứu trường hợp giáo xứ Cổ Nhuế, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội)” trong đó
bàn luận và so sánh về sự thực hành nghi lễ giữa người Công giáo nhập cư và người
Công giáo không nhập cư, cũng như so sánh về sự thực hành nghi lễ trước và sau
khi nhập cư, để từ đó bàn luận và phân tích về mối quan hệ giữa tôn giáo và di cư
của người Công giáo.

2. Tổng quan nghiên cứu
Tôn giáo và di cư là hai vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài quan
tâm đặc biệt là ở Mỹ vấn đề này được nhắc đến rất nhiều về vai trò và tầm quan
trọng của nhà thờ đối với người di cư. Nhưng đối với Việt Nam thì đây là vấn đề
khá mới mẻ mà ít nhà nghiên cứu đề cập đến, có chăng thì chỉ là một số những bài viết
của một vài cá nhân quan tâm đến vấn đề này nhưng chỉ là nêu lên những khát vọng
của người di cư Công giáo ước muốn có được sự quan tâm của Cha xứ và những người
có chức sắc trong giáo xứ đến đời sống vật chất và tinh thần của họ hơn.


2.1. Những nghiên cứu nghi lễ và phát triển cộng đồng Công giáo
nói chung
Bài viết Nghi lễ, chuẩn mực, tính linh hoạt trong đời sống đạo của vùng
Công giáo Hố Nai, Đồng Nai in trong sách Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở
Việt Nam hiện nay (Nguyễn Đức Lộc, 2008). Bài viết này quan tâm đến hệ giá trị
trong nghi lễ của người Công giáo ở Hố Nai vì đối với nhận thức của tín đồ ở đây

2


thì trong đời sống tinh thần của họ đều tồn tại song song hệ giá trị Công giáo cũng
như hệ giá trị về văn hóa truyền thống Việt Nam.
Một nghiên cứu điền dã dân tộc học khác về Cơ cấu tổ chức cộng đồng theo
giáo xứ của người Việt công giáo di cư năm 1954 tại Nam Bộ (Lộc, 2010). Nghiên
cứu này chỉ ra rằng quá trình di cư vào miền Nam năm 1954 đã tạo điều kiện cho
toàn bộ nhóm cư dân này tái hiện kết cấu cộng đồng làng xã theo mô hình Bắc Bộ.
Song song với cơ cấu tổ chức làng xã thì nhóm di cư Công giáo cũng lập ra một cơ
cấu để vận hành trong giáo xứ được gọi tên là Hội Đồng Giáo xứ đứng đầu với
nhóm tinh hoa gồm cha xứ và một số người được giáo dân tín nhiệm bầu lên. Nói
chung, nghiên cứu chỉ muốn làm rõ cơ cấu tổ chức cộng đồng trong Giáo xứ của
người Việt Công giáo di cư được điều hành từ trên xuống và cùng với các nhóm hội
đoàn khác nhau để vận hành giáo xứ. Tóm lại, mô hình tổ chức các cộng đồng Công
giáo của người Bắc di cư hiện nay tại Nam Bộ là biểu hiện sự thích nghi, vay mượn
các đặc trưng văn hóa truyền thống của người Việt vào cơ cấu tổ chức tôn giáo của
Giáo Hội Việt Nam.
Nghiên cứu Quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng Công giáo
người Việt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (Trần Hữu Hợp, 2004) bàn về việc
hình thành và phát triển cộng đồng Công giáo người Việt theo tiến trình lịch sử.
Nghiên cứu cho thấy hầu hết người dân ở đây đều là những người di cư Công giáo ở
các vùng ngoài đến khẩn hoang và khai thác vùng đất Nam Bộ. Lý do họ di cư là để

trốn lính, thử vận may mới, không có khả năng chi trả thuế, tránh thiên tai, nạn đón
và tránh các chỉ dụ cấm đạo thường được thi hành cách gắt gao.
Trong luận văn thạc sĩ Triết học của Dương Văn Biên (2011) thuộc trường
Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn – ĐHQGHN, đề tài Tổ chức xứ, họ đạo
Công giáo ở Hà Nội từ sau Công Đồng Vaticano II (1962- 1965) đến nay có đề cập
hầu hết đến việc tổ chức xứ đạo và một phần rất nhỏ đề cập đến niềm tin và thực
hành nghi lễ bằng cách phân tích trên dữ liệu sẵn có của các Giáo xứ thuộc địa bàn
Hà Nội. Đề tài nêu lên niềm tin chủ đạo của giáo dân theo kết quả điều tra xã hội
học cũ thì hầu hết người tín hữu tin vào Chúa Ba Ngôi, tin vào thiên đàng, địa ngục,
tội tổ tông, ngày tận thế, phép lạ… Nghiên cứu cũng liệt kê được một số nghi lễ

3


Công giáo như: lễ Chủ Nhật, lễ rửa tội, xưng tội, Chầu Mình Thánh, lễ mồ (lễ an
táng cho người đã qua đời), các lễ trọng theo năm Phụng Vụ, lễ quan thày, lễ hôn
phối, lễ mai táng…từ thời điểm trước Công Đồng Vaticano mà chưa đi sâu vào nội
dung từng nghi lễ cũng như chưa lý giải được nguyên nhân, động cơ của việc tin
theo và thực hành nghi lễ này.
Nghiên cứu “Rào cản pháp luật và thực tiễn đối với người lao động di cư
trong tiếp cận an sinh xã hội” (2015). Chương trình Quyền Lao động của Oxfam
tại Việt Nam, do Oxfam và Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ phối hợp với các tổ
chức phi chính phủ Việt Nam trong mạng lưới Hành động vì quyền của Lao động di
cư (M.net). Nghiên cứu có một vài phát hiện về luật và chính sách về hướng tới bảo
vệ quyền lợi cho người di cư, điển hình là luật Bảo hiểm y tế và luật Bảo hiểm xã
hội 2014 về việc chăm sóc sức khỏe và ưu đãi giá nước sạch cho người di cư. Đề tài
nghiên cứu cũng chỉ ra được những khó khăn của người lao động di cư và một số
những hạn chế về chính sách đối với người di cư vì bản thân họ là một nhóm yếu thế,
dễ bị tổn thương cũng như họ được tiếp cận rất ít đến các chính sách An sinh xã hội.
Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp của người di cư là khá cao lý do công việc của họ không

ổn định và họ thường là thành phần bị gạt ra khỏi chương trình giảm
nghèo và hỗ trợ vay vốn tạo việc làm. Qua nghiên cứu, ta thấy được người di
cư có rất nhiều rủi ro trong việc làm, trong đời sống cũng như là thành phần yếu thế
giữa cuộc sống đô thị xa lạ. Họ còn là thành phần ít được tiếp xúc với các vấn đề
An sinh xã hội hay các chương trình vay vốn hỗ trợ việc làm. Chính vì thế, họ là
thành phần cần được xã hội và nhà nước quan tâm giúp đỡ vượt qua những khó
khăn bước đầu của việc di chuyển chỗ ở.
Một bài viết khác trên báo công giáo dân tộc nói về giáo xứ Thái Hòa thuộc
giáo phận Xuân Lộc, Tỉnh Đồng Nai. Giáo xứ chỉ có khoảng 40 gia đình Công giáo
gốc còn hầu hết là những người di dân. Vì giáo xứ nằm giữa hai khu công nghiệp
Hố Nai và Sông mây nên giáo dân ở đây toàn là công nhân. Nhìn thấy được nhu cầu
của những người xa quê nên Giáo xứ đã tổ chức bữa ăn Tất Niên vào ngày 28 Tết
cho những anh chị em xa quê không có điều kiện về thăm quê, tổ chức phát học
bổng cho những em nghèo cũng như thăm hỏi các gia đình nghèo, tạo những giải thi

4


đấu thể thao cho những người trẻ Công giáo cũng như ngoài Công giáo… với mục
đích vừa tạo sân chơi, vừa để rèn luyện sức khỏe. (Tam Nguyên, truy cập
12.11.2015)

2.2. Những nghiên cứu về vai trò của tôn giáo và nhà thờ đối với
người nhập cư
Nghiên cứu của nước ngoài cho thấy tầm quan trọng của nhà thờ cho những
người nhập cư (Catholics, Jay, & Luebke, 1976). Sự tham gia vào tôn giáo, nhận
dạng sắc tộc và đáp ứng cho thanh thiếu niên Việt Nam trong cộng đồng di cư (Iii
& Zhou, 2013) là nghiên cứu về các cộng đồng sắc tộc và di dân mới, có xu hướng
ủng hộ cho rằng các hoạt động tôn giáo củng cố sắc tộc của người tham gia và ràng
buộc họ với nhóm dân tộc. Sự tách rời tôn giáo: chủng tộc- tôn giáo là do sự nhập

cư mới, đó là chủ đề rất lớn (Warner, 2000). Tôn giáo là điển hình cho người di cư,
di cư thúc đẩy người ta suy nghĩ về ý nghĩa lịch sử của nhóm, theo Timothy Smith
(1978), đó là một "kinh nghiệm thần học hoá". Đặc biệt nhấn mạnh đến một "thần
học hạn chế", đưa ra lý do tại sao người nhập cư Hàn Quốc tự thấy mình phải ở
trong một vùng đất mới lạ và có một sứ mệnh cho truyền giáo (Lee, 2001). Người
nhập cư nhà quê, tìm thấy trong các cơ sở tôn giáo một nơi cảm thấy giống như một
ngôi nhà (Warner, 2000).
Vai trò của tôn giáo đối với cuộc sống của người nhập cư (Hirschman, 2004)
đề cập tới làn sóng nhập cư sau năm 1965 đã mang lại sự đa dạng tôn giáo mới cho
Hoa Kỳ. Phần lớn người nhập cư cũng "trở thành người Mỹ" thông qua việc tham
gia vào các hoạt động tôn giáo và cộng đồng của các nhà thờ và đền thờ. Các nhà
thờ và các tổ chức tôn giáo khác cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo
dựng cộng đồng và là một nguồn hỗ trợ chính về kinh tế xã hội cho những người có
nhu cầu. Những người nhập cư cũng như người bản xứ đều có những nhu cầu tâm
linh. Niềm tin và thực hành tôn giáo có thể là sự trăn trở đối với người di dân. Vì
thế, họ phải cố gắng để thích ứng với quê hương mới của họ. Herberg (1960) tuyên
bố rằng người nhập cư phải đối mặt với câu hỏi hiện tại về "Tôi là ai?". Họ thường
có thể tìm thấy ý nghĩa và nhận dạng bằng cách làm vững chắc niềm tin truyền

5


thống, bao gồm các cấu trúc đức tin tôn giáo có thể đã được thực hiện từ trước
(Hirschman, 2004)
Nói chung, trong lịch sử Hoa Kỳ, tôn giáo trở thành trung gian của sự khác
biệt. Sự khác biệt ở Hoa Kỳ là sự khác biệt về nhóm mà xã hội chúng ta cho phép.
Do đó đối với người nhập cư, tôn giáo là một không gian công cộng chứ không chỉ
là một thực tế tâm lý. Vì thế, có hàng ngàn nhà thờ cho người nhập cư mới, các cơ
sở tôn giáo khác và các trung tâm thờ tự tại Hoa Kỳ mọc lên. Đây là một số ước
tính và ước tính được trích dẫn rộng rãi (Warner, 1998), có khoảng 3.000 Hội thánh

Tin lành Hàn Quốc, 700 nhà thờ Thiên Chúa giáo Trung Quốc, và có lẽ 7.000 nhà
thờ Tin Lành Latino hiện nay ở Hoa Kỳ. Khoảng 3.500 hay một phần sáu tất cả các
giáo xứ Công giáo ở Hoa Kỳ (R. Wanner, 2000).

2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của di cư trên niềm tin và thực
hành nghi lễ
Ảnh hưởng của di cư trên niềm tin và sự thực hành tôn giáo (Massey &
Higgins, 2011) cho rằng việc di dân là một vấn đề mang tính phân chia mà những
người di cư xa lánh dần sự thực hành mang tính tôn giáo của họ.
Những bài viết trong báo công giáo dân tộc nói về những nguyện vọng và
thao thức của người giáo dân Công giáo di dân: những người con của đất mẹ Phát
Diệm, vì muốn thoát khỏi cảnh nghèo khổ của vùng quê mà họ quyết định di dân ra
Hà Nội để mưu sinh trên mảnh đất xa lạ, và vì thế họ bị nhìn là những kẻ làm cho
thành phố trở nên lộn xộn, nhưng trước những gánh nặng về kinh tế họ không còn
lựa chọn nào khác. Việc thay đổi không gian sống dẫn đến những thay đổi về nhận
thức của đời sống đạo và thay đổi về “căn tính” đức tin của người di dân tạo nên
những khủng hoảng trong đời sống đạo. Vì thế, họ ao ước được các linh mục chánh
xứ quan tâm đến họ và nếu được thì nên có một chương trình chuẩn bị cho các bạn
trẻ trước khi rời quê hương có thể bước vào môi trường xa lạ mà tránh được khủng
hoảng về mặt “đức tin” (Bạch Vân, Minh Huy, mục vụ di dân.com)
Từ các nghiên cứu ở trên ta có thể rút ra một vài kết luận sau
Có thể nói, các nghiên cứu nước ngoài phần lớn tập trung vào vấn đề nhập
cư của người dân đến từ nhiều đất nước khác nhau do đó có nhiều nghiên cứu đi sâu

6


vào vấn đề nhận diện các chủng tộc, sắc tộc tham gia vào đời sống tôn giáo. Và vì
thế, Nhà thờ có một tầm quan trọng rất lớn đối với những nhóm này vì nó có khả
năng liên kết cộng đồng, trợ giúp về mặt kinh tế cũng như đáp ứng những nhu cầu

về mặt tinh thần. Bên cạnh đó, nhà thờ đối với người nhập cư còn được ví như là
nhà, là không gian công cộng để qua đó các tín đồ có thể thể hiện niềm tin qua việc
thực hành nghi lễ của mình nhưng không đề cập đến động cơ nào dẫn các tín đồ đến
việc thể hiện niềm tin và việc thực hành nghi lễ tôn giáo. Các nhà nghiên cứu nước
ngoài cũng đề cập đến những khó khăn của người di cư trong việc cố gắng để thích
ứng với những nơi ở mới và vì thế họ xao lãng, hoặc xa lánh dần việc thực hành tôn
giáo nhưng chưa đề cập đến hay đi sâu để tìm hiểu đâu là những yếu tố tác động
trực tiếp đến những xao lãng hoặc xa lánh việc thực hành nghi lễ tôn giáo.
Đối với các nghiên cứu trong nước chủ yếu tập trung vào nghiên cứu cách
thức tổ chức cộng đồng tôn giáo cũng như tìm hiểu về quá trình hình thành và phát
triển của cộng đồng tôn giáo nhập cư đó. Những nghiên cứu này đều mang tính lịch
sử do biến cố 1954, 1975 của nước ta mà có quá nhiều người phải di cư vào các
vùng phía Nam Việt Nam. Phần đông những người di cư đó đều là người Công giáo
hay cả một Giáo xứ di cư nên khi nhập cư vào vùng đất mới vẫn giữ được nét
truyền thống văn hóa làng xã miền Bắc Việt Nam cũng như truyền thống đạo và
mang vào trong việc xây dựng cơ cấu của nhà thờ nét cơ cấu làng xã Miền Bắc. Tuy
nhiên, những nghiên cứu này không chỉ ra được đâu là những nét văn hóa Miền Bắc
cụ thể được người nhập cư đưa vào trong thực hành Nghi lễ Công giáo.
Ngoài những nghiên cứu mang tính lịch sử về các cộng đồng người Công
giáo thì chưa có nghiên cứu Xã hội học nào về thực hành nghi lễ của người Công
giáo, có chăng thì chỉ là những bài viết về nghi lễ, chuẩn mực, tính linh hoạt trong
đời sống đạo của người Công giáo trong khía cạnh nhận thức về hệ giá trị trong
nghi lễ chuẩn mực hay chỉ là điểm qua về niềm tin và nghi lễ Công giáo nói chung
chứ chưa có đề tài nào đo lường về niềm tin và thực hành nghi lễ của người di dân
và đâu là nguyên nhân, động cơ mà người nhập cư thực hành nghi lễ Công giáo.
Chính vì thế, nghiên cứu thực hành nghi lễ tôn giáo của người Công giáo nhập cư
là điều cần thiết.

7



3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
Trên cơ sở vận dụng các quan điểm lý thuyết Xã hội học như lý thuyết hành
động xã hội, lý thuyết lựa chọn duy lý, lý thuyết nhóm xã hội và lý thuyết di dân để
phân tích về niềm tin và thực hành nghi lễ Công giáo giữa người nhập cư và người
không nhập cư, đề tài có những đóng góp về mặt khoa học khi góp phần làm rõ việc
vận dụng các quan điểm lý thuyết xã hội trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa tôn
giáo và di dân. Bên cạnh đó, những kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có những
đóng góp khoa học góp phần sự phát triển hướng chuyên ngành xã hội học tôn giáo.

3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Di dân đang là một vấn đề đáng báo động và cần được quan tâm đối với di dân
trên thế giới nói chung và đối với người di dân Công giáo nói riêng. Kết quả nghiên
cứu sẽ đóng góp một phần không nhỏ trong việc xem xét mức độ thực hành của người
nhập cư Công giáo và chỉ ra mối liên hệ cụ thể giữa việc thực hành nghi lễ tôn giáo với
yếu tố cá nhân và các yếu tố xã hội khác.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này hướng tới làm sáng tỏ sự thực hành nghi lễ tôn giáo của
những người Công giáo nhập cư hiện đang tham gia sinh hoạt tôn giáo tại Giáo xứ
Cổ Nhuế từ đó làm rõ đặc trưng của sự thực hành nghi lễ của người Công giáo nhập
cư trong sự so sánh với người Công giáo không nhập cư và sự biến đổi trong thực
hành nghi lễ sau khi nhập cư vào Hà Nội.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Mô tả chân dung những người Công giáo nhập cư đang tham gia sinh


hoạt tôn giáo tại Giáo xứ Cổ Nhuế: đặc điểm nhân khẩu xã hội, thời điểm nhập cư,
lý do nhập cư.


Tìm hiểu niềm tin tôn giáo của người Công giáo nhập cư đang tham

gia sinh hoạt tại Giáo xứ Cổ Nhuế.

8




Phân tích sự tham gia thực hành các nghi lễ tôn giáo của người Công

giáo nhập cư Giáo xứ Cổ Nhuế cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới sự thực hành
nghi lễ của người Công Giáo nhập cư tại Giáo xứ Cổ Nhuế.

5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu: Sự thực hành nghi lễ tôn giáo của những người
Công giáo nhập cư đang tham gia sinh hoạt tôn giáo tại Giáo Xứ Cổ Nhuế.

5.2 Khách thể nghiên cứu: Người Công giáo nhập cư đang tham gia sinh
hoạt tôn giáo tại Giáo xứ Cổ Nhuế.

5.3 Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu này tập trung vào nghiên cứu người
Công giáo nhập cư gồm những người di chuyển tới Hà Nội sinh sống, làm việc và
học tập trong độ tuổi từ 15 đến 59 tuổi trong khoảng thời gian từ 1 tháng đến 10
năm, tham gia sinh hoạt tại giáo xứ Cổ Nhuế, Phường Cổ Nhuế 2, Quận Bắc Từ

Liêm, Hà Nội. Tác giả tiến hành nghiên cứu trên Giáo xứ Cổ Nhuế và giáo họ
Hoàng Thôn.
Thời gian nghiên cứu 05/ 2017 – 05/ 2018.

6. Câu hỏi nghiên cứu


Người Công Giáo nhập cư tại Giáo xứ Cổ Nhuế có đặc điểm như thế

nào về nhân khẩu xã hội, thời điểm nhập cư, lý do nhập cư?


Niềm tin và sự thực hành các nghi lễ Công giáo của người nhập cư tại

Giáo xứ Cổ Nhuế như thế nào?


Yếu tố nào tác động tới sự thực hành nghi lễ của người Công Giáo

nhập cư tại Giáo xứ Cổ Nhuế?

7. Giả thuyết nghiên cứu
Người Công giáo nhập cư đang tham gia sinh hoạt tại Giáo xứ Cổ Nhuế có một
số đặc điểm về nhân khẩu học tương đồng với người di cư nói chung trong cả nước.
Khi nhập cư vào Hà Nội, người Công giáo vẫn giữ niềm tin vào đạo và tham
gia thực hành các nghi lễ tôn giáo. Tuy nhiên, sự tham gia thực hành của người
Công giáo nhập cư có những biến đổi so với thời gian trước khi tới Hà Nội do sự tác
động của các yếu tố cá nhân và sự tham gia vào các hội đoàn của người Công giáo.

9



8. Khung lý thuyết

Đặc điểm kinh tế, văn
hóa, xã hội, tôn giáo

Lý do di cư

Thời gian
nhập cư

Đặc điểm cá nhân,
xã hội của người
nhập cư Công
giáo-(giới tính,
tuổi, trình độ học
vấn, tình trạng hôn
nhân, nghề nghiệp,
thu nhập...

Niềm tin
tôn giáo

Sự thực hành nghi lễ tôn giáo của người
Công giáo nhập cư.

Đọc
kinh, cầu
nguyện.


Thực
hành
nghi lễ
ngày
thường

Thực
hành
nghi lễ
các
ngày lễ
trọng.

Thực
hành
nghi lễ
ngày
Chủ
Nhật

10

Thực
hành
nghi lễ
cử hành
các Bí
Tích.


Lãnh
nhận Bí
Tích
Thánh
Thể và
Bí Tích
Hòa
Giải.


9. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
9.1 Phương pháp luận
Dùng phương pháp luận so sánh để so sánh giữa hai nhóm nhập cư và bản xứ
trong việc thực hành nghi lễ. Từ đó có những kết luận cụ thể về sự khác biệt mang ý
nghĩa thống kê của hai nhóm này.

9.2 Phương pháp nghiên cứu
9.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu tập trung phân tích một số tài liệu thứ cấp liên
quan đến nội dung nghiên cứu như: sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, Kinh tin
kính của người Công giáo cũng như những luận văn, bài viết trong các tạp chí
trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề nhập cư.

9.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Mục đích của phỏng vấn sâu là để tìm ra lý do bên trong của việc thực hành
nghi lễ và để bổ sung cho phân tích số liệu trong phương pháp trưng cầu dân ý.
Nghiên cứu đã thực hiện 13 phỏng vấn sâu: 8 phỏng vấn sâu người nhập cư và 5
phỏng vấn sâu người dân địa phương, trong đó có 1 PVS trưởng hội đoàn là những
người nhập cư, 1PVS trưởng hội đoàn là người dân địa phương.


9.2.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến
Đối tượng trưng cầu ý kiến: Người Công giáo nhập cư từ 15 tuổi trở lên tham
gia sinh hoạt tại Giáo xứ Cổ Nhuế và người Công giáo không nhập cư ở tại Giáo xứ
Cổ Nhuế.
Tổng số phiếu phát cho người nhập cư: 420 phiếu. Số phiếu thu về: 400 và số
phiếu hợp lệ sử dụng cho phân tích dữ liệu là: 381 phiếu.
Thời điểm phát phiếu trưng cầu vào các ngày lễ Chủ Nhật tại giáo xứ Cổ Nhuế
Tổng số phiếu phát cho người bản xứ: 200 phiếu. Số phiếu thu về: 150 và số
phiếu hợp lệ sử dụng cho phân tích là: 132 phiếu.
Địa điểm và thời điểm phát phiếu cho người bản xứ: Phiếu cho người bản xứ
cũng được phát tại các ngày lễ Chủ nhật tại giáo xứ Cổ Nhuế. Tuy nhiên, do số
lượng người bản xứ ở đây ít, nên chúng tôi có phát phiếu thêm ở Giáo họ Hoàng

11


Thôn. Nhà thờ giáo họ Hoàng Thôn tọa lạc trên đường Trần Cung cách nhà thờ Cổ
Nhuế khoảng 500m. Sức chứa của nhà thờ khoảng 250 – 300 người mỗi Thánh Lễ.
Nhà thờ giáo họ này được xây dựng trước nhà thờ Cổ Nhuế 2 năm, bắt đầu xây
dựng vào năm 2012 và hoàn thành vào năm 2014. Tiền xây dựng nhà thờ giáo họ
Hoàng Thôn đều do sự đóng góp của giáo dân bản xứ và nhập cư sinh hoạt tại giáo
xứ Cổ Nhuế. Mỗi tuần nhà thờ giáo họ Hoàng thôn có hai Thánh lễ: một thánh lễ
ngày thường vào tối thứ 6 từ 18h00 đến 18h30 và một Thánh lễ ngày Chủ Nhật vào
lúc 7h00 đến 8h00. Thường những người tham dự lễ tại nhà thờ giáo họ phần đông
là người dân địa phương và một số ít người nhập cư sống gần nhà thờ.
Cách thức lấy phiếu trưng cầu: Sau khi đã tập huấn cho khoảng 20 cộng tác
viên là các em sinh viên, tác giả cùng với nhóm cộng tác đã khảo sát thử để sau đón
chỉnh sửa lại bảng hỏi cho chính xác hơn. Tuần tiếp sau đó vào trước mỗi giờ lễ
ngày chủ nhật, tác giả đến nhà thờ xin cha phụ trách của mỗi giờ lễ rao trên nhà thờ
để ai có thể có thời gian hơn thì giúp ở lại trả lời phiếu. Nhờ sự trợ giúp của các cha,

các tín hữu đã ở lại mỗi thánh lễ khá đông từ khoảng 60 đến 80 người. Tuy nhiên
cũng có thánh lễ cũng chỉ có 20 người ở lại. Tác giả đã lấy phiếu trong 4 tuần: một
tuần dành cho người nhập cư, một tuần dành cho người dân địa phương và hai tuần
đến gặp gỡ các nhóm hội đoàn sinh hoạt trong giáo xứ tại giáo xứ Cổ Nhuế và giáo
họ Hoàng Thôn như hội các bà mẹ, hội cầu nguyện, ca đoàn, nhóm di dân cũng như
tới những gia đình người bản xứ ở tại khu vực Giáo xứ Cổ Nhuế và giáo họ Hoàng
Thôn để xin những ai chưa trả lời phiếu thì giúp trả lời.

12


Bảng cơ cấu mẫu khảo sát chung
STT

Đặc trưng

1

Xuất xứ (n=515)

2

3

4

5

Giới (n=509)


Tuổi (n=479)

Trình độ học vấn (n=510)

Số lượng Tỷ lệ %

Tiêu chí
Người nhập cư

381

74,0

Người dân địa phương

134

26,0

Nam

202

39,7

Nữ

307

60,3


Dưới 22 tuổi

160

31,2

Từ 22 đến 59 tuổi

335

68,8

Tiểu học

13

2,5

Trung học cơ sở

56

11,0

Trung học phổ thông

246

48,2


Trung cấp, Cao đẳng

67

13,1

Đại học

111

21,8

Sau đại học

17

3,3

354

69,1

149

29,1

Góa

6


1,2

Ly thân

2

0,4

Ly hôn

1

0,2

Tình trạng hôn nhân (n=512) Chưa kết hôn
Đang có vợ/

Nguồn: Số liệu khảo sát

13


NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Khái niệm công cụ
1.1.1. Tôn giáo
Trong xã hội học cho đến nay có khá nhiều định nghĩa khác nhau về tôn
giáo, song các định nghĩa tôn giáo thường được chia thành hai nhóm: định nghĩa
bản thể và định nghĩa chức năng. Durkheim đã đưa ra định nghĩa tôn giáo dựa trên

sự kết hợp của hai lối định nghĩa là định nghĩa bản thể và định nghĩa chức năng:
Định nghĩa chức năng về tôn giáo nhằm trả lời câu hỏi tôn giáo làm gì.
Lenski (1963) định nghĩa tôn giáo “là một hệ thống tín ngưỡng về các thế lực của tự
nhiên sắp đặt số phận của con người và các hoạt động liên quan tới điều đó, được
chia sẻ bởi các thành viên trong nhóm” (trích theo Alan Aldridge, 2000:26). Theo
Yinger (1970) “Tôn giáo là một hệ thống các niềm tin và thực hành thông qua các
công cụ mà qua đó một nhóm người đấu tranh với những vấn đề cơ bản của cuộc
sống con người” (trích theo Alan Aldridge 2000: 26). Nhìn chung, cách định nghĩa
theo chức năng đã xem xét tôn giáo có chức năng bộc lộ và tạo nên các giá trị và
khế ước xã hội để duy trì xã hội. Do vậy, cách định nghĩa này bị phê phán vì quá
rộng, vì với cách hiểu như vậy, bất cứ cái gì thể hiện chức năng này đều là tôn giáo
và nó khiến cho tất cả mọi người đều có niềm tin tôn giáo, cho dù người ta có thừa
nhận hay phản đối tôn giáo (Hoàng Thu Hương, 2011)
Khác với định nghĩa chức năng về tôn giáo, định nghĩa bản thể lại xem xét
theo khía cạnh tôn giáo là gì, chứ không phải tôn giáo làm gì. Sprio (1966) cho rằng
tôn giáo là “Một thể chế gồm các tương tác theo khuôn mẫu văn hoá với bản chất
siêu phàm được thừa nhận theo mô hình văn hoá” (trích theo Alan Aldridge, 2000:
26). Điểm chung của các định nghĩa bản thể là thường nhấn mạnh tới các yếu tố như
siêu nhiên, siêu kinh nghiệm, siêu phàm. Nhóm định nghĩa này bị phê phán vì nhấn
mạnh tới yếu tố niềm tin, ít đề cập đến khía cạnh thực hành và quá tập trung vào
yếu tố siêu nhiên, siêu phàm.Những quan niệm về cái thiêng, đấng siêu nhiên thích
hợp với nền văn hóa Phương Tây và không phải lúc nào cũng phù hợp với những

14


nền văn hóa ngoài Phương Tây. Chẳng hạn như đạo Phật hay đạo Hindu, không tồn
tại khái niệm về đấng sáng thế (Hoàng Thu Hương, 2011).
Định nghĩa của E. Durkheim về tôn giáo đã thể hiện được sự kết hợp của hai
lối định nghĩa này:

“Một tôn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và
những thực hành liên quan đến những điều linh thiêng, nghĩa là được tách biệt, cấm
đoán; những niềm tin và thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào một cộng
đồng tinh thần, được gọi là Giáo hội”. (Hoàng Thu Hương, 2011)
M. Weber: “Một loại hành động đặc biệt thành cộng đồng” liên quan đến
“các sức mạnh “siêu nhiên”. Khuôn các mối quan hệ của nó với con người tạo thành
lĩnh vực hoạt động “tôn giáo” (Nguyễn Quốc Tuấn, 2013) .
T. Parsons: “Một tổng thể các tín tưởng, các thực hành và các thiết chế mà
con người triển khai trong các xã hội khác nhau, trong chừng mực mà chúng có thể
được hiểu như là những câu trả lời cho các khía cạnh của cuộc sống hay tình trạng
của con người mà cuộc sống và tình trạng ấy được xem như không thể hiểu được
hay không thể làm chủ được theo tinh thần của tính hợp lí kinh nghiệm - công cụ,
và những tín tưởng, thực hành, thiết chế ấy gắn chặt với một đặc trưng bao gồm một
số cách thức quy chiếu với một trật tự “siêu nhiên” được tưởng tượng và cảm nhận
như là nền tảng về vị trí của con người trong vũ trụ và về các giá trị đưa lại ý nghĩa
như mục đích của cá nhân và những mối liên hệ đồng dạng của nó” (Nguyễn Quốc
Tuấn, 2013).
K. Dobbelaere: “Một hệ thống thống nhất các tín tưởng và thực hành liên
quan đến một thực tế siêu kinh nghiệm, siêu việt, mà thống nhất tất cả những ai tin
theo với mục đích tạo thành duy nhất một cộng đồng đạo đức”. (Nguyễn Quốc
Tuấn, 2013).

1.1.2. Người nhập cư
Theo Cơ quan thống kê EU (Eurostat), người nhập cư là “những người đến
hoặc trở về từ nước ngoài để về sống ở một đất nước trong một thời gian nhất định,
trước đó họ đã cư trú ở một nơi khác”. Trong khi đó, theo định nghĩa của Liên Hợp
Quốc: “người nhập cư dài hạn là những người ở lại nước tiếp nhận trong thời gian

15



×