Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Các chỉ tố liên kết báo hiệu sự phát triển chủ đề hội thoại : Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60 22 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 132 trang )

Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------------

TRỊNH THỊ MAI HẠNH

CÁC CHỈ TỐ LIÊN KẾT BÁO HIỆU
SỰ PHÁT TRIỂN CHỦ ĐỀ HỘI THOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2014
Khoa Ngôn Ngữ Học

1

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------------------TRỊNH THỊ MAI HẠNH



CÁC CHỈ TỐ LIÊN KẾT BÁO HIỆU
SỰ PHÁT TRIỂN CHỦ ĐỀ HỘI THOẠI

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp

Hà Nội - 2014

Khoa Ngôn Ngữ Học

2

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành tới GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp,
người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tác giả thực hiện luận văn này.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các cán bộ, giảng viên của Khoa
Ngôn ngữ học – Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, những người tâm
huyết đã truyền cảm hứng và kiến thức quý báu về ngôn ngữ học cho tác giả trong suốt
thời gian học tập tại Khoa.

Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Gia đình đã ủng hộ, động viên
và tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Hà Nội, ngày 01 tháng 04 năm 2014
Người thực hiện

Trịnh Thị Mai Hạnh

Khoa Ngôn Ngữ Học

3

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Đối tƣợng ...................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ ................................................................................. 2
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài luận văn ....................................................... 2
5. Giới hạn, tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.......................................... 3
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết.............................................................................. 6
1. Lý thuyết hội thoại ....................................................................................... 6
1.1. Khái niệm .................................................................................................... 6
1.2. Các đơn vị hội thoại ................................................................................... 6

1.3. Vận động của hội thoại .............................................................................. 9
1.4. Nguyên tắc cộng tác hội thoại ................................................................. 12
2. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ ...................................................................... 13
2.1. Khái niệm hành vi tại lời ........................................................................ 14
2.2. Tiêu chuẩn phân loại các hành vi tại lời ............................................... 15
2.3. Các loại hành vi tại lời ............................................................................ 16
3. Các chỉ tố liên kết văn bản ....................................................................... 17
3.1. Khái niệm .................................................................................................. 17
3.2. Phân loại ................................................................................................... 18
4. Tiểu kết ....................................................................................................... 19
Chƣơng 2: Chỉ tố liên kết đa chức năng với việc phát triển chủ đề hội thoại
......................................................................................................................... 21
1.

Hình thức phát triển chủ đề hội thoại ............................................. 22

1.1.

Phát triển bằng cặp chêm xen ............................................................ 22

1.2.

Phát triển bằng hành vi ở lời .............................................................. 26

2. Các chỉ tố liên kết đa chức năng tham gia vào sự phát triển chủ đề hội thoại
............................................................................................................. 34
Khoa Ngôn Ngữ Học

4


Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

2.1. Đại từ hồi chỉ - khứ chỉ ............................................................................ 34
2.2. Phó từ chỉ thời, thể ................................................................................... 36
2.3. Tiểu từ tình thái cuối câu ........................................................................ 41
2.4. Quán ngữ tình thái ................................................................................... 42
3. Tiểu kết ....................................................................................................... 48
Chƣơng 3: Chỉ tố liên kết đơn chức năng với việc phát triển chủ đề hội
thoại ................................................................................................................ 50
1. Chỉ tố liên kết biểu thị quan hệ về trình tự thời gian ............................ 50
2. Chỉ tố liên kết biểu thị quan hệ nhân – quả............................................ 54
3. Chỉ tố liên kết biểu thị quan hệ tƣơng đồng ........................................... 59
4. Chỉ tố liên kết biểu thị quan hệ tƣơng phản ........................................... 63
5.Tiểu kết ………………………....……………………………………….. 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN ............................................................. 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 74

Khoa Ngôn Ngữ Học

5

Lớp Cao học K53



Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, khi sự phát triển của internet cùng mạng xã hội cho phép con
người kết nối toàn cầu với nhau thì nhu cầu giao tiếp, trao đổi thông tin cũng trở
nên đa dạng hơn, hội thoại cũng dần thay đổi cả về mặt hình thức lẫn nội dung.
Mối quan hệ và hình thức của các vai tham thoại giữa người phát và người tiếp
nhận cũng trở nên linh hoạt hơn. Song, những phương thức, nguyên lý cơ bản để
tạo lập cuộc hội thoại thì vẫn giữ nguyên giá trị.
Trong giao tiếp hội thoại, người nói (viết) và người nghe (đọc) luôn luôn
tác động lẫn nhau nhằm làm thay đổi nhận thức, tình cảm, hành động của đối
ngôn. Tùy thuộc mục đích của hội thoại mà những người tham gia giao tiếp sử
dụng chiến lược và ý đồ duy trì cuộc thoại riêng, một trong những cách làm cho
chủ đề hội thoại mở rộng hay phát triển là sử dụng phương tiện phát triển chủ
đề. Trong nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại, các phương tiện đó được gọi là chỉ
tố (indicator hay marker).
Tuy nhiên, để chỉ ra mối liên quan giữa các chỉ tố liên kết với việc báo
hiệu sự phát triển chủ đề hội thoại thì chưa có một công trình nghiên cứu nào đề
cập đến một cách sâu sắc. Chính điều đó đã tạo động lực cho chúng tôi thực hiện
đề tài. Công việc tưởng như đơn giản này hóa ra lại rất cần khi chúng ta tiến
hành kiến tạo các cuộc thoại trong đời sống thực (chẳng hạn, trong đàm phán,
thương lượng) cũng như trong việc phân tích diễn ngôn, tìm hiểu các tác phẩm
văn chương, nghệ thuật.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi không có tham vọng lấn sâu vào
các mặt phức tạp của hội thoại nói riêng và ngữ dụng học nói chung. Chúng tôi
xuất phát từ nhu cầu trao đổi thông tin, nội dung liên kết ngữ nghĩa của cuộc
thoại, từ nghiên cứu những mặt biểu hiện ngôn ngữ, hình thức biểu đạt của nó

thông qua các tín hiệu ngôn ngữ có vai trò làm cho chủ đề hội thoại được mở
rộng, phát triển hoặc báo hiệu hội thoại kết thúc. Đó cũng là hướng giải quyết
xuyên suốt của luận văn.
Khoa Ngôn Ngữ Học

6

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

Tính thời sự của đề tài luận văn thể hiện ở chỗ vừa đáp ứng nhu cầu của
thực tiễn phân tích hội thoại và phân tích diễn ngôn, vừa góp phần làm phong
phú thêm lí thuyết chung về hội thoại từ thực tiễn của tiếngViệt.
2. Đối tƣợng
Đối tượng mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu là các cuộc hội thoại giao
tiếp trong tiếng Việt. Các hội thoại này được thu thập qua các tác phẩm văn học,
internet, mạng xã hội, trong lời nói giao tiếp hàng ngày.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích: Xác định, tìm hiểu, phân tích các phương tiện ngôn ngữ báo
hiệu sự phát triển chủ đề cuộc hội thoại trong tiếng Việt.
Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện được mục đích trên, chúng tôi đặt ra
một nhiệm vụ cho mình đó là phải phác họa cho được các dấu hiệu về mặt hình
thức, ý nghĩa, xác định vị trí và vai trò của chúng trong giao tiếp hội thoại, trong
lời nói và trong sự phát triển chung của ngôn ngữ.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài luận văn
Việc nghiên cứu các dấu hiệu phát triển cuộc hội thoại trong tiếng Việt

góp phần nhất định vào việc nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp, góp
phần nâng cao chất lượng cũng như hình thức, mục đích sử dụng ngôn ngữ giao
tiếp hàng ngày.
Về mặt lý thuyết: Bước đầu xác định các dấu hiệu, các từ ngữ và các hành
động ngôn ngữ tham gia phát triển cuộc hội thoại trong tiếng Việt. Điều này sẽ
làm sáng tỏ hơn những vấn đề về chức năng giao tiếp của ngôn ngữ, các hành vi
ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày.
Về thực tiễn: Những kết quả khảo sát này sẽ bước đầu được ứng dụng
trong một số lĩnh vực ứng dụng của Việt ngữ học như giúp cho việc dạy học
tiếng Việt; trong việc nghiên cứu và sáng tạo văn chương, nghệ thuật… vốn là
lĩnh vực sử dụng lời nói tự nhiên hàng ngày với mạch lạc và liên kết của nó,
trong số đó có mạch lạc và liên kết về chủ đề.
Khoa Ngôn Ngữ Học

7

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

5. Giới hạn, tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Giới hạn: Do trình độ của học viên và thời gian hạn hẹp, chúng tôi không
thể đi sâu hơn vào phân tích mọi khía cạnh của hội thoại cũng như các phương
tiện liên kết trong tiếng Việt. Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu, tìm
hiểu về đặc điểm cấu tạo, vị trí của các từ ngữ và các hành động ngôn ngữ có tác
dụng mở rộng, phát triển và thậm chí kết thúc chủ đề hội thoại.
Tư liệu: Luận văn lấy tư liệu là những câu cụ thể trong đàm thoại giao

tiếp hàng ngày, internet, mạng xã hội như facebook, hội thoại trong các tác
phẩm văn học, truyện ngắn Việt Nam. Số lượng tư liệu được thu thập bằng cách
tổng hợp sau đó phân chia ra theo từng phương tiện biểu hiện.
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, với mục đích của mình,
luận văn sẽ được nghiên cứu trên quan điểm ngữ pháp chức năng hiện đại, đi từ
nội dung đến hình thức, từ mục đích đến phương tiện, từ ý nghĩa đến cấu trúc
ngữ pháp. Trong khi nghiên cứu chúng tôi cũng chú ý tới mối quan hệ tương tác
qua lại giữa ba bình diện: Kết học - nghĩa học - dụng học.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để làm nổi bật những vấn đề mà luận
văn quan tâm, chúng tôi sử dụng các phương pháp: Thống kê, miêu tả, phân
tích, so sánh… Cách thức làm việc được xác định dựa trên phương pháp nghiên
cứu và được chúng tôi thực hiện nhất quán trong từng phần cũng như trong toàn
bộ luận văn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tư liệu khảo cứu, luận văn gồm ba chương
được sắp xếp như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
1. Lý thuyết hội thoại
1.1.

Khái niệm hội thoại

1.2.

Các đơn vị hội thoại

1.3.

Vận động của hội thoại


1.4.

Nguyên tắc cộng tác hội thoại

Khoa Ngôn Ngữ Học

8

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

2. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ
2.1.

Khái niệm hành vi tại lời

2.2.

Tiêu chuẩn phân loại hành vi tại lời

2.3.

Các loại hành vi tại lời

3. Chỉ tố liên kết
3.1.


Khái niệm

3.2.

Phân loại

4. Tiểu kết
Chương 2: Chỉ tố liên kết đa chức năng với việc phát triển chủ đề hội thoại
1. Hình thức phát triển chủ đề hội thoại
1.1.

Phát triển bằng cặp chêm xen

1.2.

Phát triển bằng hành vi ở lời

2. Các chỉ tố liên kết đa chức năng tham gia vào phát triển chủ đề hội thoại
2.1.

Đại từ hồi chỉ – khứ chỉ

2.2.

Phó từ chỉ thời – thể

2.3.

Tiểu từ tình thái cuối câu


2.4.

Quán ngữ tình thái

3. Tiểu kết
Chương 3: Chỉ tố liên kết đơn chức năng với việc phát triển chủ đề hội thoại
1. Chỉ tố liên kết biểu thị quan hệ về trình tự thời gian
2. Chỉ tố liên kết biểu thị quan hệ nhân – quả
3. Chỉ tố liên kết biểu thị quan hệ tương đồng
4. Chỉ tố liên kết biểu thị quan hệ tương phản
5. Tiểu kết

Khoa Ngôn Ngữ Học

9

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

NỘI DUNG
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết
1. Lý thuyết hội thoại
1.1. Khái niệm
Hội thoại là một hoạt động xã hội, được nảy sinh nhờ vào sự tham gia của
người phát lời và người thụ lời. Trong cuộc thoại khi hoạt động phản hồi nảy

sinh, vai trò của hai người tham gia cuộc thoại đã thay đổi. Bên nghe trở thành
bên nói và bên nói trở thành bên nghe.
Có nhiều yếu tố tham gia vào tạo lập hội thoại. Theo Đỗ Hữu Châu, các
cuộc thoại có thể khác nhau ở nhiều khía cạnh như: Thời gian, không gian, số
lượng người tham gia, về cương vị và tư cách người tham gia cuộc thoại, về tính
chất cuộc thoại, về vị thế giao tiếp, về tính có đích hay không có đích, tính hình
thức hay không hình thức, về ngữ điệu hay động tác kèm lời… Những yếu tố
này không tách rời nhau mà liên kết nhau, tạo thành một khối lượng thống nhất
Khoa Ngôn Ngữ Học

10

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

hữu quan trong hội thoại, chi phối và điều hòa cuộc thoại để đạt đến đích cuối
cùng của mỗi bên giao tiếp theo những quy tắc nhất định.
Hội thoại là một sự nỗ lực hợp tác giữa các bên tham gia, có thể có ba bên
hoặc nhiều hơn thế. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn của mình, chúng tôi
chỉ chủ yếu đề cập đến hội thoại hai bên hay còn gọi là song thoại.
1.2. Các đơn vị hội thoại
Hội thoại cũng có cấu trúc nội tại của nó. Mục đích của việc phân tích cấu
trúc hội thoại là làm rõ người phát lời muốn biểu đạt cái gì và người thụ lời lý
giải nghĩa như thế nào và phản ứng ra sao.
Theo tổng kết của Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học tập
2, nghiên cứu về cấu trúc hội thoại có 3 trường phái tiêu biểu, đó là: trường phái

phân tích hội thoại ở Mỹ, trường phái phân tích diễn ngôn ở Anh và trường phái
lý thuyết hội thoại Thụy Sỹ - Pháp.
Lý thuyết phân tích hội thoại cho rằng hội thoại có hai tổ chức tổng quát,
đó là: tổ chức cặp và tổ chức được ưa thích. Các tổ chức đó được xây dựng từ
lượt lời. Như vậy, theo quan điểm này thì lượt lời chính là đơn vị cơ sở, tổ chức
nên các đơn vị lớn hơn của hội thoại. Lượt lời do các hành vi ngôn ngữ tạo ra và
khi chúng đi với nhau lập thành từng cặp. Cặp kế cận (cách gọi của Schegloff và
Sacks, 1973) là hai phát ngôn mang đặc điểm: kế cận nhau, do hai người khác
nhau nói ra, được tổ chức thành bộ phận thứ nhất và bộ phận thứ hai, có tổ chức
riêng sao cho bộ phận riêng thứ nhất đòi hỏi phải có bộ phận riêng thứ hai.
Trong một số trường hợp, bộ phận thứ hai của cặp kế cận không xuất hiện ngay
sau bộ phận thứ nhất thì giữa chúng có sự có mặt của cặp chêm xen. Chúng tôi
coi cặp chêm xen là một yếu tố làm cho chủ đề hội thoại phát triển và sẽ khảo
sát kỹ hơn ở chương sau.
Trong khi đó, trường phái phân tích diễn ngôn và trường phái lý thuyết
hội thoại tuy có sự khác nhau đôi chút về tên gọi song giống nhau về cấu trúc
tầng bậc của các đơn vị hội thoại và gần với thực tế giao tiếp hơn. Theo đó, các
đơn vị làm nên một cấu trúc hội thoại bao gồm: cuộc thoại, đoạn thoại, cặp
Khoa Ngôn Ngữ Học

11

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

thoại, tham thoại (bước thoại, lượt lời) và hành động ngôn từ. Trong đó,cuộc

thoại, đoạn thoại và cặp thoại là ba đơn vị lưỡng thoại (do hai thoại nhân tạo nên
nhờ vận động trao đáp). Tham thoại (bước thoại) và hành động ngôn ngữ là đơn
vị đơn thoại (do một thoại nhân tạo ra).
a. Cuộc thoại
Cuộc thoại đó là một lần trao đổi, nói chuyện cá nhân trong hoàn cảnh xã
hội nào đó. Theo C.K.Orcchioni, để có một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện cần
và đủ là có một nhóm nhân vật có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong
một khung thời gian – không gian có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, nói
về một vấn đề có thể thay đổi nhưng không đứt quãng.
(Dẫn theo [7], trang 298)
Như vậy, một cuộc thoại cần phải tuân thủ theo một hướng nhất định từ
đầu cho đến khi kết thúc. Đó chính là mục đích mà bất cứ cuộc hội thoại nào
cũng cần đạt được.
b. Đoạn thoại
Mỗi cuộc thoại bao giờ cũng có lúc bắt đầu và lúc kết thúc, chúng làm nên
ranh giới của một cuộc thoại. Mỗi cuộc thoại lại chứa đựng nhiều chủ đề, mỗi
chủ đề lại có nhiều vấn đề. Tập hợp các lượt lời trao đổi về một vấn đề làm
thành một đoạn thoại. Chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu
khi cho rằng: “Đoạn thoại là mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết
chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc ngữ dụng”. Trong đoạn thoại những người
tham gia hội thoại nói về cùng một chủ đề.
Một đoạn thoại thông thường bao gồm ba phần: mở thoại (dẫn nhập đề
tài), thân thoại (triển khai đề tài) và kết thoại (kết thúc hội thoại). Tuy nhiên,
trong phạm vi luận văn này, chúng tôi không có ý định đi sâu nghiên cứu mô
hình của đoạn thoại và sự dẫn nhập đề tài hội thoại như thế nào, mà chỉ muốn
chỉ ra một ranh giới tương đối của các đơn vị trong cấu trúc của hội thoại làm cơ
sở cho các bước khảo cứu của chúng tôi ở chương 2 và chương 3.
c. Cặp thoại
Khoa Ngôn Ngữ Học


12

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

Cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất tạo nên đoạn thoại và qua đoạn
thoại mà góp phần tổ chức nên cuộc thoại. Các loại cặp thoại thường gặp: Cặp
thoại tối thiểu, cặp thoại một tham thoại, cặp thoại chủ hướng và cặp thoại phụ
thuộc.
Cặp thoại tối thiểu tương đương với sự kiện lời nói tối thiểu, tức là tối
thiểu cặp thoại phải là một cặp kế cận với hành động dẫn nhập và hành động hồi
đáp.
Cặp thoại một tham thoại xảy ra khi: người nghe thực hiện một hành động
vật lý (gật đầu, lắc đầu, xua tay,…) thay cho hành động ngôn ngữ hoặc khi
người nghe im lặng, không có hành động hồi đáp nào, trường hợp như vậy gọi là
cặp thoại hẫng.
d. Tham thoại
Tham thoại hay còn gọi là Bước thoại. Cặp thoại là cấu trúc gồm hai tham
thoại do hai đối tác của cuộc hội thoại tạo nên. Tham thoại là phần đóng góp của
một thoại nhân vào một cặp thoại. Tham thoại do hành động ở lời tạo nên. Dựa
trên phân loại về hành vi cơ sở của Hinderlang, Đỗ Hữu Châu cho rằng có 7
tham thoại cơ sở: Dẫn nhập (DN), Phản hồi tích cực (PHTC), Phản hồi tiêu cực
(PHTiC), Tái dẫn nhập (TDN), Phản dẫn nhập (PDN), Xét lại (XL) và Từ bỏ
(TB).
Về tổ chức nội tại, tham thoại do một hoặc một số hành vi ngôn ngữ tạo
nên. Một tham thoại có một hành vi chủ hướng (hành động quyết định đích của

tham thoại, cùng với hành động chủ hướng của tham thoại kia trong cặp thoại
lập thành một cặp kế cận) và có thể có hành vi phụ thuộc (làm rõ lý do hoặc bổ
sung nghĩa cho hành động chủ hướng).
Hành động chủ hướng của một tham thoại hoặc đòi hỏi hành động chủ
hướng của tham thoại kia trong cặp thoại hồi đáp hoặc hồi đáp cho hành động
chủ hướng của tham thoại ấy.
1.3. Vận động của hội thoại
Khoa Ngôn Ngữ Học

13

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

Hội thoại diễn tiến theo những quy tắc nhất định. Những quy tắc chi phối
trực tiếp đến cuộc thoại theo C.K.Orecchioni bao gồm: quy tắc điều hành sự
luân phiên lượt lời, quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại và quy tắc chi phối
quan hệ liên cá nhân trong hội thoại. Tác giả Đỗ Hữu Châu [8] đề nghị bổ sung
thêm một nhóm quy tắc điều hành nội dung của hội thoại. Ông cho rằng các loại
quy tắc đó có vai trò “làm cơ sở, đứng đằng sau sự vận hành của hội thoại”.
Nguyên lí chi phối các quy tắc hội thoại là nguyên lí cộng tác bởi vì hội
thoại là một hoạt động xã hội. Từ nguyên lí chung này mà các quy tắc hội thoại
ràng buộc các đối tác hội thoại trong một hệ thống những quyền lợi và trách
nhiệm.
Luân phiên lượt lời là nguyên tắc của sự tương tác qua lại trong hội thoại.
Trong cuộc thoại mỗi lúc có một người nói và không đồng thời. Người nói luân

phiên nhau và đó là lượt lời. Sẽ không có lượt lời nếu nhiều người nói cùng một
lúc. Như vậy vai nói sẽ thường xuyên thay đổi, trật tự của những người nói
không cố định mà luôn thay đổi. Đồng thời lượt lời thứ nhất có chức năng định
hướng cho lượt lời thứ hai. Khi nói một điều, người ta dự đoán chờ một điều
khác sẽ xảy ra. Nghĩa là hai lượt lời có quan hệ mật thiết với nhau, liên kết chặt
chẽ với nhau. Hội thoại là một hình thức hoạt động xã hội, nên theo G.Yule lượt
lời hoạt động theo một “hệ thống điều hành cục bộ” (thuật ngữ của Diệp Quang
Ban) được hiểu theo lối quy ước giữa thành viên trong một nhóm xã hội. Đây
thực chất là quy ước nắm giữ lượt lời, giữ hoặc trao lượt lời cho người đối thoại
một cách uyển chuyển. Kiểm soát được quyền được nói, chủ động nắm giữ đề
tài và lượt lời là một quyền lực đáng kể trong hội thoại, có thể chi phối cuộc
thoại.
Về quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại, theo Nguyễn Đức Dân [10],
những phát ngôn trong một lượt lời là hành vi hội thoại. Sự liên kết giữa hai lượt
lời là sự liên kết giữa hành vi dẫn nhập và hành vi hồi đáp. Trong hội thoại, hành
vi ngôn ngữ gây ra những dạng hành vi nhất định. Rất nhiều loại phát ngôn
trong hội thoại đòi hỏi phải có sự hồi đáp riêng biệt như: Hành vi chào yêu cầu
Khoa Ngôn Ngữ Học

14

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

một lời chào trở lại; hành vi hỏi yêu cầu có một câu trả lời; hành vi đề nghị cần
một phản hồi; hành vi cảm ơn cần một yêu cầu đáp lời… Wardhaugh gọi hành

vi ngôn ngữ này là điều muốn nói. Một hành vi ngôn ngữ xuất hiện có thể được
tiếp nhận tích cực hoặc tiếp nhận tiêu cực, chấp nhận hoặc từ chối. Tuy nhiên
người tham gia hội thoại có thể lờ đi mà không có biểu hiện ngôn ngữ nào.
Với những hành vi ngôn ngữ đòi hỏi thông tin phản hồi, Wardhaugh cho
rằng, người tham thoại có quyền lựa chọn cách thức hồi đáp khác nhau: Hoặc
tuân theo, hoặc từ chối, hoặc đơn giản là lờ đi những gì người ta nói với mình.
Nhưng dù tuân theo hành vi dẫn nhập từ chối hay lờ đi, người tham gia hội thoại
vẫn phải có chiến lược giao tiếp và sử dụng phương tiện biểu đạt trong hành vi
hồi đáp của mình. Một số khuôn mẫu về hình thức biểu hiện các hành vi này đã
được định sẵn cho người tham gia hội thoại lựa chọn. Nhưng trong hành vi hội
thoại, sự liên kết các hành vi tại lời chỉ có giá trị trên bề mặt phát ngôn. Sự liên
kết các hiệu lực tại lời của hành vi ngôn ngữ mới có giá trị đích thực. Có nhiều
hình thức biểu đạt ngôn ngữ cũng đem lại một hiệu lực tại lời là rất quan trọng.
Điều này quyết định hiệu quả giao tiếp. Trong thực tế, mỗi chúng ta cần phải lựa
chọn một cách nào đó đem lại hiệu quả giao tiếp cao nhất chứ không chỉ yêu cầu
bằng một mệnh đề từ chối thẳng thừng. Nghi thức, thói quen, phong tục, tập
quán… làm thành quy ước xã hội mà mỗi cá nhân đều phải tuân theo. Những
quy ước này giữ gìn và tạo độ cân bằng trong cuộc thoại. Những quy ước mang
tính nghi thức này được quy định theo một trình tự chặt chẽ với những hành vi
cụ thể mà mỗi bên tham gia cuộc thoại cần tuân theo ở mỗi loại hội thoại xác
định. [42]
Quan hệ giữa những người tham thoại cũng đóng vai trò đặc biệt trong
quá trình hội thoại. Cần phải kể tới các nhân tố như: Quan hệ thân – sơ, quan hệ
vị thế xã hội, tuổi tác, quyền lực… được thể hiện khác nhau ở từng cộng đồng
người. Theo tác giả Nguyễn Đức Dân, quan hệ cá nhân được xem xét dưới các
góc độ: Quan hệ ngang (hay còn gọi là quan hệ thân sơ), quan hệ dọc (hay còn
gọi là quan hệ vị thế).
Khoa Ngôn Ngữ Học

15


Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

1.4. Nguyên tắc cộng tác hội thoại
Khái niệm “cộng tác hội thoại” được tác giả P.Grice đưa ra lần đầu vào
năm 1967, sau đó được nhắc lại trong công trình nghiên cứu Logic và hội thoại
(1978) và các bài thuyết minh sau đó.
Trước hết, phải nói rằng “cộng tác” mà Grice gọi tên “không phải để
nhằm đạt được những mục đích chung trong thế giới bên ngoài ngôn ngữ. Cái
mục đích chung – đích và phương hướng của cuộc hội thoại được nêu ra trong
nguyên tắc cộng tác hội thoại – là mục đích ở lời, là mục đích sử dụng ngôn ngữ
ngay trong cuộc hội thoại”. [8, trang 233].
Theo P.Grice, nguyên tắc cộng tác hội thoại làm cho “cuộc hội thoại được
xem xét đúng như mục đích hay phương hướng mà cuộc thoại đòi hỏi”. Nguyên
tắc này đúng với cả người nói và người nghe. Khi nói, người tham gia hội thoại
phải quan sát và thực hiện nguyên tắc cộng tác theo phương châm nhất định.
Nguyên tắc cộng tác hội thoại có vai trò trung tâm trong lý thuyết hội thoại. Hai
bên tham gia giao tiếp cùng cố gắng để đối tác của mình hưởng ứng, phát triển
cuộc thoại. Nguyên tắc này bao gồm các phương châm: Lượng, chất, quan hệ và
cách thức.
Phương châm về lượng: Hãy làm cho phần đóng góp của bạn có lượng tin
đúng như đòi hỏi của mục đích cuộc thoại. Hãy đảm bảo nội dung vừa đủ.
Phương châm về chất: Đừng nói điều gì mà bạn tin là sai, đừng nói điều
gì mà bạnkhông đủ bằng chứng.
Phương châm về quan hệ: Hãy nói đúng với chủ đề đang được đề cập đến.

Phương châm về cách thức: Tránh nói tối nghĩa, tránh nói mập mờ, mơ hồ
về nghĩa, hãy nói ngắn gọn, có trật tự.
(Dẫn theo [12], trang 128)
Grice cho rằng nguyên tắc cộng tác và các phương châm này là những
chấp ước hội thoại mà khi tham gia vào hội thoại, cả người nói người nghe đều
phải tuân thủ chúng “một cách chuẩn mực, nhưng không phải bất di bất dịch” [8,
Khoa Ngôn Ngữ Học

16

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

trang 237]. Nguyên tắc và phương châm hội thoại của Grice có hiệu lực cả cho
nội dung được nói ra trực tiếp, cả nội dung hàm ẩn.
Trong thực tế giao tiếp, người nói có thể vô tình hoặc cố ý vi phạm
nguyên tắc và phương châm hội thoại. Grice phân biệt hai trường hợp này và gọi
chúng là vi phạm và phạm lỗi. Trường hợp phạm lỗi về nguyên tắc và phương
châm hội thoại là do người nói vụng về, không cố ý và sẽ khiến người nghe hiểu
sai ý mình. Còn xúc phạm, vi phạm, từ bỏ chúng là sự cố ý không tuân thủ, tôn
trọng phương châm để tạo ra các hàm ý, gài vào phát ngôn trực tiếp của mình
những hàm ngôn hội thoại. Tuy nhiên, cách phân biệt này chưa thực sự rành
mạch nên vấp phải sự phản đối của một số tác giả khác.
Bên cạnh đó, cũng có không ít trường hợp được cho là vi phạm nguyên
tắc cộng tác hội thoại do sự khác biệt về về văn hóa và ngôn ngữ mà Grice chưa
khảo cứu hết được. Mặt khác, lí thuyết của Grice cũng có những hạn chế khi chỉ

bó hẹp trong những nội dung thông tin mà không đưa ra đượcmô hình, cơ chế
tạo ra nội dung và đích liên cá nhân; nhắc tới tính quan yếu tuy nhiên không
khai thác triệt để dẫn đếnkhông coi trọng vai trò của ngữ cảnh đối với sự vận
hành lượt lời cả về hình thức lẫn nội dung,... Đây cũng chính là lý do sau này lý
thuyết quan yếu được phát triển bởi D. Sperber và D. Wilson và lí thuyết về lịch
sự ra đời giống như một sự bù đắp cho lỗ hổng trong lí thuyết của Grice.
Mặc dù vậy, lý thuyết nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice vẫn có giá
trị lớn lao và là cơ sở cho các công trình nghiên cứu hội thoại về sau.
2. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ
Người có công đầu tiên khởi xướng lý thuyết hành vi ngôn ngữ đó chính
là Austin (1962) trong công trình nghiên cứu của mình: “How to do things with
words”, tác giả đã đưa ra khái niệm “hành vi nói năng”. Nội dung chủ yếu của
khái niệm này là, khi con người nói năng đều muốn sử dụng ngôn ngữ để làm
việc gì đó, hoàn thành một hành vi nhất định nào đó. Chẳng hạn như có thể dùng
lời nói để trần thuật, hỏi, cầu xin, đề xuất, hứa hẹn, dọa nạt,…
(Dẫn theo [20], trang 170)
Khoa Ngôn Ngữ Học

17

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

Lý thuyết này về sau được nhà triết học J.Searle phát triển. Trong công
trình nghiên cứu của mình, Austin đã đưa ra các tiêu chí phân biệt sự khác nhau
trong cùng một hành vi ngôn ngữ (hành vi ở lời, hành vi tạo lời và hành vi mượn

lời). Cụ thể như sau:
Hành vi tại lời: Là những hành vi được người nói thực hiện ngay khi nói
năng. Hiệu quả của chúng thuộc về ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một
phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận.
Hành vi tạo lời: Là hành vi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như: ngữ âm, từ,
các kiểu kết hợp thành câu… để tạo ra một phát ngôn có hình thức và nội dung
nhất định.
Hành vi mượn lời: Là những hành vi mượn phương tiện ngôn ngữ để gây
ra một hiệu lực ngoài ngôn ngữ nào đó (hiệu quả tâm lí) ở người nghe, người
nhận hoặc chính người nói.
Hành vi ngôn ngữ chính là đơn vị nhỏ nhất của ngữ pháp hội thoại. Các
hành vi ngôn ngữ trên đây xét trong quan hệ hội thoại thì hành vi tại lời được
quan tâm hơn cả, khi tham gia hình thành nên tham thoại thì chúng tạo ra tính
đối thoại giữa người nói và người nghe: người nói có trách nhiệm đối với phát
ngôn của anh ta và anh ta có quyền đòi hỏi người đối thoại phải hồi đáp lại bằng
một hành vi ở lời tương ứng.
2.1. Khái niệm hành vi tại lời
Trong giao tiếp một phát ngôn được đưa ra bao giờ cũng nhằm một mục
đích nhất định. Sự thực hiện hành vi như vậy gọi là hành vi tại lời. Nó cho người
nghe biết ý định và mục đích mà người nói hướng tới. Chính vì thế loại hành vi
này thường có những động từ ngữ vi tương ứng để gọi tên như: Khẳng định, hỏi,
mời, chào, chúc, khuyên, ra lệnh, yêu cầu…
Khác với hành vi mượn lời, hành vi tại lời có ý định qui ước và có thể chế
mặc dù điều này không bộc lộ rõ ràng. Vì vậy, việc biết một ngôn ngữ không chỉ
dừng lại ở chỗ nắm được ngữ âm, từ ngữ, câu và cách kết hợp bởi đó chỉ là bề
Khoa Ngôn Ngữ Học

18

Lớp Cao học K53



Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

mặt… sâu hơn chúng ta cần phải nắm được những qui tắc điều khiển các hành vi
tại lời của ngôn ngữ đó.
2.2. Tiêu chuẩn phân loại các hành vi tại lời
Theo Nguyễn Đức Dân, từ những nghiên cứu nền tảng của Austin, Searle
đã nêu ra tới 12 phương diện mà các hành vi tại lời có thể khác nhau. Trong số
này ông chọn ra ba tiêu chí cơ bản để phân loại các hành vi tại lời đó là: Đích ở
lời, hướng khớp ghép lời và trạng thái tâm lý được biểu hiện.
a. Đích tại lời
Đích tại lời của một hành vi ngôn ngữ là mục đích của hành vi ngôn ngữ
đó. Đích tại lời không trùng với hiệu lực tại lời, chỉ là bộ phận của hiệu lực tại
lời. Ví dụ: Đích tại lời của hành vi đề nghị là mong muốn người nghe giải quyết,
xem xét ý kiến mình nêu ra; hay đích tại lời của hành vi xin là làm cho ai đó bị
thuyết phục để cho mình cái gì; đích tại lời với hành vi hỏi là mong muốn nhận
được thông tin từ phía người nghe…
b. Hướng khớp ghép lời
Tiêu chuẩn này quy định mối quan hệ giữa từ ngữ và thực tại mà hành
động đề ra. Hướng khớp ghép này có thể được xây dựng theo hai chiều, từ ngôn
ngữ tới hiện thực và từ hiện thực tới ngôn ngữ. Các hành vi đề nghị, yêu cầu,
mệnh lệnh,… là các loại hành vi mà ngôn từ có xảy ra trước và hiện thực diễn ra
như thế, tức hiện thực khớp với lời. Các loại hành vi như trần thuật, miêu tả,
khẳng định, hỏi… là các loại hành vi mà hiện thực xảy ra trước, ngôn ngữ diễn
ra sau và phản ánh đúng hiện thực ấy, tức lời khép với hiện thực.
c. Trạng thái tâm lý được thể hiện
Khi thực hiện một hành vi nào đó người ta có thể biểu hiện lòng tin, mong

muốn, điều đáng tiếc… Tiêu chuẩn này cho phép ta nhìn nhận nhiều hành vi
khác nhau về bề ngoài dưới cùng một góc độ.
Chúng ta có thể dựa vào ba tiêu chuẩn cơ bản này để xác định một hành vi
cụ thể nào đó. Mặc dù khi đi vào thực tế chắc chắn chỉ với ba tiêu chí này chúng
Khoa Ngôn Ngữ Học

19

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

ta có thể gặp khó khăn khi nhận diện một hành vi tại lời, song chúng vẫn là cơ
sở khoa học cho ta cái nhìn đầu tiên cơ bản về hành vi được nói tới.
2.3. Các loại hành vi tại lời
Việc phân loại hành vi ngôn ngữ suy cho cùng có thể căn cứ vào phản
ứng qua lại của những người tham gia giao tiếp. Đây cũng chính là căn cứ để
nhận ra hành vi tại lời.
a. Cách phân loại của Austin
Austin đã đưa ra một bảng phân loại hành vi tại lời bao gồm: Phán định:
(đánh giá trên cơ sở sự kiện và lý lẽ xác đáng), hành xử (thể hiện quyền thế, luật
lê), ước kết (ràng buộc vào trách nhiệm), ứng xử (phản ứng lại), bày tỏ (trình
bày, thể hiện).
b. Cách phân loại của Searle
Tác giả này đã liệt kê 12 điểm được dùng làm tiêu chí phân loại hành vi
ngôn ngữ. Từ đó phân lập được 5 loại hành vi ở lời: Tái hiện, điều khiển, cam
kết, biểu cảm, tuyên bố.

Tùy thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, hành vi tại lời có thể chia thành
hành vi tại lời trực tiếp và hành vi tại lời gián tiếp. Trong đó:
Hành vi tại lời trực tiếp: Là hành vi có sự tương ứng giữa cấu trúc phát
ngôn trên bề mặt với hiệu lực của nó gây ra.
Hành vi tại lời gián tiếp: Là hành vi không có sự tương ứng giữa cấu trúc
phát ngôn trên bề mặt với hiêu lực của nó gây nên. Nói cách khác, hành vi tại lời
gián tiếp là hành động mà trên cấu trúc bề mặt là A nhưng gây một hiệu lực là
B. Tuy nhiên cũng tùy thuộc từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà xem đó là hành
vi tại lời trực tiếp hay gián tiếp.
(Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [8])
3. Các chỉ tố liên kết văn bản
3.1. Khái niệm
Cái từ ngữ liên kết văn bản đã được bàn đến nhiều trong công trình của
Trần Ngọc Thêm và các nhà ngữ pháp văn bản ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong
Khoa Ngôn Ngữ Học

20

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

phạm vi cú pháp học, khái niệm chỉ tố liên kết cũng được Nguyễn Văn Hiệp đề
cập trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (2009). Tác giả cho rằng “các yếu tố tham
gia tạo lập liên kết cho văn bản không chỉ giới giạn trong phạm vi các loại đề”
(mô hình cấu trúc Đề - Thuyết của Halliday) mà còn “trải rộng cho toàn câu, đặc
biệt ở tiếng Việt, nhiều khi phương tiện tạo lập mạch lạc và liên kết văn bản

được thể hiện một cách tinh tế”. Vậy nên, cũng không có gì lạ khi cuốn sách có
cách triển khai khác với thực tế phân loại của Halliday trước đó về các phương
tiện liên kết văn bản (phương thức quy chiếu, phương thức nối, phương thức
tỉnh lược, phương thức liên tưởng trường từ vựng,…).
Với cách tiếp cận chức năng và ngữ nghĩa, tác giả nhận định, có nhiều
loại nghĩa mà câu chuyển tải chỉ có thể hiểu được thấu đáo khi câu được đặt
trong hoạt động giao tiếp, trong diễn ngôn. Vì vậy mà cuốn sách chỉ ra cần thiết
phân loại và miêu tả các yếu tố liên kết câu với những câu khác trong diễn ngôn,
các yếu tố đánh dấu sự tương thích của câu với ngữ cảnh. Quan điểm như vậy
rất gần với quan điểm của Halliday khi ông cho rằng cấu trúc Đề - Thuyết của
câu là cấu trúc đảm bảo cho câu (mà ông gọi là cú/clause) tương thích với những
câu đi trước nó và tương thích với ngữ cảnh.

3.2. Phân loại
Nguyễn Văn Hiệp đề xuất chia các dấu hiệu này thành hai loại: loại dấu
hiệu đa chức năng và loại dấu hiệu đơn chức năng, trong đó loại dấu hiệu thứ hai
được đặc biệt quan tâm.
Loại dấu hiệu đa chức năng là những yếu tố trong câu vừa mang một nội
dung nào đó, thực hiện một chức năng nào đó lại vừa thể hiện chức năng liên kết
văn bản. Căn cứ theo khung miêu tả ngữ nghĩa của câu, tác giả xếp khả năng
tham gia biểu thị nghĩa của những yếu tố này vào 4 nhóm: nghĩa miêu tả, nghĩa
tình thái, nghĩa chủ đề và nghĩa mục đích phát ngôn.
Khoa Ngôn Ngữ Học

21

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học


Trịnh Thị Mai Hạnh

Những đại từ hồi chỉ - khứ chỉ, những từ có quan hệ thượng danh - hạ
danh, những vị từ tình thái tính, những phó từ chỉ thời thể, những tiểu từ tình
thái cuối câu, những quán ngữ tình thái được xếp vào loại dấu hiệu đa chức năng.
Loại dấu hiệu đơn chức năng được biết đến với tính chuyên dụng của nó:
là những dấu hiệu chuyên dùng để liên kết văn bản. Về cương vị cấu trúc, chúng
thuộc về văn bản, hay bậc cấu trúc trên câu, nhưng tồn tại theo lối “biệt phái
công tác” trong câu. Về bản chất, chúng là những tác tử biểu thị những mối quan
hệ logic – ngữ nghĩa giữa các câu. Đó là quan hệ về trình tự thời gian, quan hệ
nhân – quả, quan hệ tương phản, quan hệ tương đồng, quan hệ giải thích,…
Sự phân biệt tầng bậc cấu trúc của các thành tố đã được manh nha nghiên
cứu từ những năm 60 của thế kỉ XX, gắn với lí thuyết từ tổ được du nhập vào
Việt Nam, khi đó các nhà nghiên cứu ngữ pháp đã đề cập đến vấn đề phân biệt
thành phần phụ của câu với thành phần phụ của từ tổ. Và sau đó với sự phát
triển của ngữ pháp văn bản, xuất hiện các ý kiến phân biệt giữa thành phần của
câu với những yếu tố thuộc cấu trúc bậc trên câu, có chức năng liên kết văn bản
(Nguyễn Kim Thản, Trần Ngọc Thêm, Diệp Quan Ban, Nguyễn Minh Thuyết,
Nguyễn Văn Hiệp). Trong cuốn “Phân tích diễn ngôn”, hai tác giả Brown và
Yule cho rằng các yếu tố này có vai trò quan trọng trong việc hình thành nên
mạch lạc và liên kết của văn bản.
Ứng dụng trong kỹ thuật soạn thảo văn bản, những yếu tố liên kết này
được xem là những chuyển đoạn. Những chuyển đoạn trong văn bản có thể quy
về một số nhóm như chuyển đoạn về trình tự, chuyển đoạn thể hiện quan hệ
nhân – quả, chuyển đoạn thể hiện quan hệ giải thích, chuyển đoạn thể hiện quan
hệ tương phản hay tương đồng,… Trần Ngọc Thêm và Halliday xếp những
chuyển đoạn này vào nhóm phương thức liên kết nối.
Căn cứ theo cách phân loại này và khảo sát thực tế sử dụng trong tiếng
Việt, tác giả Nguyễn Văn Hiệp đề nghị bổ sung vào nhóm những yếu tố “thường

trú” này những từ ngữ cho biết mối quan hệ giữa câu nói và tình huống giao
Khoa Ngôn Ngữ Học

22

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

tiếp. Đó là trường hợp “thì, là” đứng đầu câu, như là chỉ báo cho sự tương thích
của câu nói đối với tình huống giao tiếp.
4. Tiểu kết
Như đã nói ở trên, để chỉ ra mối quan hệ giữa các chỉ tố liên kết và sự
phát triển của chủ đề hội thoại thì cần đến lý thuyết về hội thoại và lý thuyết về
hành vi ngôn ngữ làm cơ sở.
Hội thoại là một hoạt động xã hội, có sự tương tác chặt chẽ giữa người nói
và người nghe, dựa trên sự vận hành, trao đáp lượt lời của các nhân vật tham gia
giao tiếp. Vì vậy, việc chỉ ra một cách tương đối các đơn vị cấu thành nên hội
thoại cũng như các nguyên tắc chi phối tới hội thoại giúp xác định được cuộc
thoại đó vận động ra sao, phát triển theo hướng nào, có chệch khỏi đích ban đầu
hay không. Điều đó có vai trò to lớn của các hành vi ngôn ngữ, chính những
hành vi ngôn ngữ sẽ tạo lập nên các đơn vị cơ sở của hội thoại, thể hiện thái độ,
mục đích và trạng thái tâm lý của người nói.
Khi hội thoại vận động, phát triển, nó tác động nhất định tới nội dung và
hình thức của chính nó. Mặt nội dung sẽ quyết định tới hình thức biểu hiện, tức
là tùy theo mục đích cần đạt được về mặt hành vi và ngữ nghĩa mà người nói sẽ
sử dụng các chỉ tố liên kết tương ứng để nhằm kéo dài, tiếp tục hay chấm dứt

hội thoại.

Khoa Ngôn Ngữ Học

23

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

Chƣơng 2: Chỉ tố liên kết đa chức năng với việc phát triển chủ đề hội
thoại
Mỗi cuộc hội thoại đều có một đề tài độc lập. Trong khi hội thoại vận
động thì đề tài đó được triển khai theo nhiều cách khác nhau, thể hiện qua các
chủ đề được nói đến.
Mỗi một mô hình hội thoại cơ bản thường mang một chủ đề trao đổi. Tuy
nhiên, trong thực tế giao tiếp, các mô hình thường có sự đan xen phức hợp với
nhau. Như vậy, khi mô hình hội thoại phát triển hay mở rộng ra thì chủ đề của
hội thoại cũng vận động theo.
Ngữ pháp hội thoại cho rằng cách để phát triển các mô hình hội thoại có
thể là bằng cặp chêm xen hoặc bằng các hành vi ở lời dùng trong các kiểu hành
vi cơ sở tạo nên mô hình hội thoại.
Theo Đỗ Hữu Châu [8], trên cơ sở phân loại các cuộc hội thoại đơn giản
theo tiêu chí kết hợp đích và lời của Franke (1990) và Hundsnurscher (1995),
Gotz Hinderlang đưa ra 4 mô hình hội thoại sau:
Hội thoại có đích
Khoa Ngôn Ngữ Học


24

Lớp Cao học K53


Luận Văn Cao Học

Trịnh Thị Mai Hạnh

Hài hòa
Đồng nhất

Tương hợp

Bất hòa
Nhượng bộ

Không nhượng bộ

Hình thức tối thiểu của những cuộc hội thoại trên do các chuỗi 7 hành vi
sau lập nên:
(1) Hành vi dẫn nhập (DN): Bằng hành vi dẫn nhập, Sp1 nêu ra đích.
(2) Hành vi phản hồi tích cực (PHTC): Bằng hành vi phản hồi tích cực,
Sp2 chấp nhận đích mà Sp1 nêu ra ở DN.
(3) Hành vi phản hồi tiêu cực (PHTiC): Bằng hành vi này, Sp2 chối bỏ
đích của Sp1 nêu ra ở DN.
(4) Hành vi từ bỏ (TB): Bằng hành vi này, người nói từ bỏ đích đã nêu ra
ở hành vi trước của mình.
(5) Hành vi xét lại (XL): Bằng hành vi này, người nói thay đổi đích của

mình.
(6) Hành vi phản dẫn nhập (PDN): Bằng hành vi này, Sp2 đưa ra đích của
mình như là một phản ứng đối với đích của Sp1 ở DN.
(7) Hành vi tái dẫn nhập (TDN): Bằng hành vi này, người nói nhấn lại lập
trường của mình thể hiện ở hành vi trước.
Với bảy hành vi cơ sở nêu trên, có các mô hình hội thoại cơ sở như sau:
(I) Hội thoại hài hòa, (II) Hội thoại bất hòa nhượng bộ và (III) Hội thoại bất
hòa không nhượng bộ.
Ở mô hình (I) Hội thoại hài hòa thì dù hội thoại diễn tiến theo hướng tích
cực (Sp2 ngay lập tức chấp nhận đích của Sp1) hay tiêu cực (Sp 2 đưa ra phản
hồi là sự phản bác và Sp1 dễ dàng từ bỏ đích của mình), cũng không có chỗ cho
cặp chêm xen nào chen vào giữa “gây rối” hay mở rộng hội thoại. Vì vậy, chúng
tôi tạm thời loại bỏ những hội thoại theo mô hình này ra khỏi đối tượng khảo
Khoa Ngôn Ngữ Học

25

Lớp Cao học K53


×