Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 159 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO
PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ
NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO
PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ
NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Thức

Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này do chính tôi thực hiện. Những
số liệu và kết quả đưa ra trong luận văn là trung thực và chính xác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền


LỜI CẢM ƠN

Luận văn được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều thầy, cô, gia đình,
bạn bè và các cơ quan đơn vị.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới quý Thầy Cô giáo trong khoa Lịch sử nói
chung, các Thầy Cô trong bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng đã
tận tình dạy dỗ, chỉ bảo, truyền thụ những kiến thức quý báu cho tôi trong quá trình
học cao học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy, TS. Trần Văn Thức – người
hướng dẫn khoa học. Thầy đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho tôi trong suốt quá trình chuẩn bị đề cương, nghiên cứu và bảo vệ luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định,
Thư viện tỉnh Bình Định, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bình Định, Trường
Đại học Quang Trung đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này
Hà Nội, tháng 7 năm 2015.
Học viên

Nguyễn Thị Huyền


MỤC LỤC
Trang

MỤC LỤC ................................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 8
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 8
7. Bố cục luận văn .................................................................................................. 9
CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO
CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN
TRANH CỤC BỘ” (1965-1968) ........................................................................... 10
1.1 Khái quát về tỉnh Bình Định .......................................................................... 10
1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội......................................... 10
1.1.2. Dân cư, truyền thống yêu nước và cách mạng. ...................................... 14
1.2. Quá trình lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh
(từ năm 1965 đến năm 1968) ............................................................................... 25
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử.................................................................................... 25
1.2.2. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện ....................................... 30
1.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định .......................................... 39
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 63
CHƢƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH TĂNG CƢỜNG LÃNH ĐẠO
PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN KẾT THÚC CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC (1969-1975) .............................. 66
2.1. Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần đánh bại về cơ bản chiến
lược Việt Nam hóa chiến tranh ( 1969-1973) ...................................................... 66
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử.................................................................................... 66


2.1.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích

(từ năm 1969 đến năm 1973) ............................................................................ 69
2.1.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định .......................................... 74
2.2. Lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp phần kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến (1973-1975) ..................................................................................... 88
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử.................................................................................... 88
2.2.2. Quá trình lãnh đạo chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ
tỉnh từ năm 1973 đến năm 1975 ....................................................................... 89
2.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định. ......................................... 95
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................ 102
3.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT .............................................................................. 102
3.1.1. Ưu điểm .............................................................................................. 102
3.1.2. Hạn chế ............................................................................................... 113
3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ....................................................................... 118
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 137
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 147


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Chiến tranh là một đề tài được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
quan tâm bàn bạc khá nhiều. Những luận chứng về chiến tranh của các nhà kinh
điển trở thành cơ sở quan trọng cho hầu hết các cuộc chiến tranh vệ quốc từ cuối
thế kỷ XIX.
Việt Nam – một quốc gia mà lịch sử dựng nước luôn luôn gắn liền với lịch sử
giữ nước thì những cơ sở lý luận về chiến tranh càng trở nên có ý nghĩa quan trọng,
đặc biệt từ cuối thế kỉ XIX khi Việt Nam trực tiếp đương đầu với một kẻ thù hoàn
toàn mới, đó là thực dân Pháp, sang thế kỷ XX là cả Pháp và đế quốc Mỹ. Đây là
những kẻ xâm lược có sự khác biệt lớn so với Việt Nam về phương thức sản xuất.
Họ mạnh hơn Việt Nam nhiều lần về tiềm lực kinh tế, quốc phòng. Cuộc chiến

tranh vệ quốc của dân tộc Việt Nam vì thế trở nên khó khăn hơn lúc nào hết. Tiếp
thu, chọn lọc sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân
tộc, kế thừa kinh nghiệm giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, ngay từ những
ngày đầu Việt Nam đánh Pháp, đánh Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ
trương huy động toàn dân vào cuộc kháng chiến, xây dựng thế trận chiến tranh
nhân dân, toàn dân đánh giặc. Với phương thức chiến tranh nhân dân ở một nước
đất không rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế quốc phòng nhỏ bé như Việt
Nam thì đi từ đánh nhỏ tiến dần lên đánh lớn là giải pháp tối ưu để Việt Nam từng
bước khắc phục được những khó khăn của mình trong cuộc chiến. Và hình thái
chiến tranh du kích trở thành hình thái chiến tranh chủ đạo trong cả kháng chiến
chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam. Chiến tranh du kích là “chiến
tranh được tiến hành theo phương thức đánh du kích với lực lượng nhỏ, lẻ và nòng
cốt là lực lượng vũ trang địa phương nhằm chống lại đối phương có ưu thế hơn về
sức mạnh quân sự. Thường được sử dụng ở các nước thuộc địa hoặc bị xâm lược

1


khi so sánh lực lượng ở các nước đó chưa cho phép tiến hành chiến tranh chính
quy. Chiến tranh du kích rất phong phú và đa dạng về hình thức tiến hành và luôn
phối hợp với chiến tranh chính quy” [135; tr224]. Những lý luận về hình thái chiến
tranh này được Bác Hồ và nhiều nhà lãnh đạo quân sự lỗi lạc của Việt Nam phản
ánh trong nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói mà điển hình là cuốn “Cách đánh du
kích” của Hồ Chí Minh (1944). Thực tế sinh động, sáng tạo của chiến tranh du kích
được thể hiện rõ nét trong chiến tranh giải phóng ở hầu khắp các tỉnh thành của
Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), chiến tranh giải
phóng ở Bình Định không nằm ngoài phạm vi của hình thái chiến tranh du kích. Là
một tỉnh nằm ở khu vực Nam Trung Bộ, án ngữ tuyến đường từ Bắc vào Nam hơn
100 km, là cửa ngõ lên Tây Nguyên từ biển Đông, là tỉnh thuộc vùng tự do Liên

khu V trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đến kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước Bình Định trở thành vùng do đối phương tạm thời kiểm soát. Suốt 21
năm tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, Mỹ và bọn tay sai đã gây
không biết bao nhiêu đau thương cho mảnh đất, con người Bình Định. Máu, nước
mắt kẻ thù gây ra trở thành động lực to lớn cho đồng bào chiến sĩ nơi đây vùng dậy
tạo ra sự hồi sinh cho mảnh đất này. Ngay từ buổi đầu đánh Mỹ, Đảng bộ tỉnh Bình
Định đã xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, huy động tối đa sức người sức của
của Bình Định phục vụ cho chiến tranh du kích chống lại các chiến lược chiến
tranh của Mỹ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của đồng bào Bình Định đã đi qua song
những bài học kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến vẫn có giá trị to lớn trong sự
nghiệp xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay. Với
mong muốn làm rõ phong trào chiến tranh du kích của đồng bào chiến sĩ Bình Định
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, qua đó
chỉ ra những ưu khuyết điểm sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với

2


phong trào chiến tranh du kích của tỉnh, rút ra một số kinh nghiệm góp phần phục
vụ một số nhiệm vụ quân sự tỉnh Bình Định hiện nay tôi quyết định chọn đề tài
“Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965
đến năm 1975” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Gần 40 năm kể từ khi nhân dân Bình Định hoàn thành cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước là một khoảng thời gian dài đủ để chúng ta có cái nhìn khái quát đa
chiều về cuộc kháng chiến này. Đã có không ít công trình nghiên cứu về kháng
chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định của các nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh.
Và do đó nhiều vấn đề xung quanh cuộc chiến đã được làm rõ. Tuy nhiên chủ đề

chiến tranh du kích ở Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống. Điểm lại các công trình nghiên cứu về chủ đề
này có thể chia thành hai nhóm như sau.
2.1. Các công trình nghiên cứu về đề tài chiến tranh, kháng chiến chống Mỹ,
cứu nƣớc liên quan đến Bình Định và ở Bình Định.
Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), các tập từ tập 1đến tập 9
do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam nghiên cứu, biên soạn.
Khu 5- 30 năm chiến tranh giải phóng (tập 2, tập 3) do Bộ tư lệnh Quân khu 5 xuất
bản năm 1989. Công trình nghiên cứu này trình bày quá trình hình thành, phát triển
chiến tranh cách mạng của quân và dân Khu 5, trong đó có Bình Định dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ Khu 5 trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Chiến tranh nhân dân địa phương trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954
– 1975). Chuyên đề: Chống phá bình định giành dân và giữ dân trên địa bàn khu
5,do Trần Quý Cát chủ biên, xuất bản năm 1997. Đây là công trình nghiên cứu đề
cập đến diễn biến quá trình chống phá bình định giành dân ở địa bàn khu 5, trong
đó có Bình Định.

3


Công trình nghiên cứu Nam Trung Bộ kháng chiến (1945 – 1975) của Viện Lịch
sử Đảng xuất bản năm 1992, trình bày quá trình kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ của quân dân các tỉnh Nam Trung Bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bảo vệ
Tổ quốc do Hoàng Minh Thảo (chủ biên) là công trình này tập hợp những bài
nghiên cứu về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, về nghệ thuật quân sự Việt Nam
trong kháng chiến chống Mỹ, quan điểm quân sự của Đảng trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
Nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Bình Định còn có nhiều
công trình được thực hiện bởi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ban chỉ huy quân sự các

huyện, thị trên địa bàn tỉnh Bình Định như:
Bình Định lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945 -1975) do Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh biên soạn, xuất bản năm 1992. Công trình này tập trung phản ánh
phong trào cách mạng tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Pháp và kháng
chiến chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh.
Chiến tranh du kích trên chiến trường Bình Định (1945 – 1975) xuất bản năm
1991 là công trình mà Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định tập trung mô tả phong trào
chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh từ năm 1945 đến năm 1975, qua đó rút ra một số
bài học kinh nghiệm từ phong trào chiến tranh này.
Trong công trình Những trận đánh điển hình của lực lượng vũ trang Bình Định
xuất bản năm 1994, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định tập trung mô tả một cách
sinh động một số trận đánh tiêu biểu của các lực lượng vũ trang tỉnh đồng thời chỉ
ra những đặc điểm nổi bật của các trận đánh đó.
Ngoài những công trình nghiên cứu về phong trào cách mạng Bình Định do Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh biên soạn, còn một số công trình nghiên cứu về phong trào đấu
tranh của nhân dân các huyện trên địa bàn tỉnh được thực hiện bởi Ban chỉ huy quân

4


sự ở các huyện. Ví như công trình Phù Cát lịch sử 30 năm chiến tranh giải phóng
(1945 – 1975, Truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hoài Ân (1945 –
2005), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Phù Mỹ (1945 – 2005)…
2.2 Những công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ các cấp ở tỉnh Bình Định.
Loại công trình này gồm có:
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (tập 1, tập 2, tập 3) do Ban chấp hành Đảng bộ
tỉnh Bình Định biên soạn và xuất bản năm 1992. Công trình này nghiên cứu về sự
ra đời và phát triển của Đảng bộ tỉnh Bình Định, quá trình Đảng bộ tỉnh Bình Định
lãnh đạo lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ.

Cùng với đó, hầu hết các huyện của tỉnh Bình Định đều có công trình nghiên
cứu về lịch sử Đảng bộ huyện. Ví như, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Quy
Nhơn có công trình Lịch sử Đảng bộ thành phố Quy Nhơn (1930 – 1975), Ban chấp
hành Đảng bộ huyện Tuy Phước nghiên cứu Lịch sử Đảng bộ huyện Tuy Phước
(1945 – 1975), Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vân Canh nghiên cứu Lịch sử Đảng
bộ huyện Vân Canh (1930 – 1975), Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hoài Ân ra mắt
công trình Lịch sử Đảng bộ huyện Hoài Ân (1930 – 1975), Ban chấp hành huyện
An Nhơn biên soạn Lịch sử Đảng bộ huyện An Nhơn (1930 – 1975), Lịch sử Đảng
Bộ Phù Cát (1930 – 1975) do Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phù Cát biên soạn
năm 1996; Lịch sử Đảng Bộ Tây Sơn (1930 – 1975) do Ban chấp hành Đảng bộ
huyện Tây Sơn biên soạn năm 1999; Lịch sử Đảng Bộ Vĩnh Thạnh (1945 – 1975)
do Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh biên soạn năm 1998 v.v. Những
công trình nghiên cứu lịch sử Đảng bộ của các huyện đều tập trung làm rõ quá trình
ra đời, phát triển của Đảng bộ huyện, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân
trong huyện qua các thời kỳ cách mạng.
Nhìn chung có khá nhiều công trình nghiên cứu công bố có đề cập ít nhiều đến
phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với

5


phong trào này trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975.
Những công trình nghiên cứu này chưa làm rõ:
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến
tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975.
- Những ưu điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích ở Bình
Định thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Những hạn chế và một số kinh nghiệm rút ra từ lãnh đạo phong trào chiến
tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975 của Đảng bộ tỉnh Bình Định.
2.3 Những vấn đề luận văn tập trung nghiên cứu.

Nhằm góp phần giải quyết những vấn đề tồn đọng của các công trình đã công
bố. Cụ thể là:
- Trình bày có hệ thống, toàn diện về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ đối với
phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh trong những năm 1965-1975
- Làm sáng rõ quá trình hiện thực hóa chủ trương của Đảng về chiến tranh du kích
của lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định trong những năm 1965-1975
- Phân tích đánh giá những thành công, hạn chế trong quá trình Đảng bộ Bình
Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích.
- Rút ra các kinh nghiệm.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn nhằm làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định
đối với phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh từ năm 1965 đến năm 1975.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Làm rõ chủ trương, đường lối, phương thức chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ tỉnh
Bình Định trong phong trào chiến tranh du kích giai đoạn 1965 – 1975.
- Dựng lại phong trào chiến tranh du kích dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Bình Định.

6


- Rút ra một số nhận xét về mặt tích cực, hạn chế trong công tác lãnh đạo phong
trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh giai đoạn 1965-1975. Chỉ ra nguyên nhân
của những tích cực và hạn chế đó.
- Nêu lên một số kinh nghiệm lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ
tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975, nhằm góp
phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng phương án tác chiến, sẵn sàng bảo
vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh, huyện hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.
Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Bộ tỉnh Bình Định
đối với phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975.
- Thời gian, không gian nghiên cứu của luận văn là địa bàn tỉnh Bình Định trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975 bao gồm 10 huyện là
Hoài Nhơn, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, An Lão, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy
Phước, Vân Canh, Bình Khê (huyện Tây Sơn ngày nay) và thị xã Quy Nhơn (nay là
thành phố Quy Nhơn).
- Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi có đề cập đến bối cảnh cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào chiến sĩ ở miền Nam Việt Nam và khu 5,
bối cảnh chung ở miền Bắc từ năm 1965 đến năm 1975, chủ trương của Trung
ương Đảng và Quân ủy khu 5 về chống Mỹ, cứu nước nhằm làm rõ hơn chủ trương,
đường lối lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Định đối với phong trào chiến tranh du
kích trên địa bàn tỉnh giai đoạn này.

7


5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tƣ liệu
Nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng các nguồn tư liệu sau:
Các tác phẩm của Mác – Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh viết về chiến tranh nhân
dân, chiến tranh du kích.
Các Văn kiện Đảng về chống Mỹ cứu nước tập 1, tập 2, NXB chính trị quốc gia,
H. 2011, 2012.
Các tư liệu gốc là các bản báo cáo, Nghị quyết của Tỉnh ủy Bình Định. Các báo
cáo, Nghị quyết, tổng kết quân sự, tổng kết chiến tranh du kích của Tỉnh đội Bình

Định từ năm 1965 đến năm 1975.
Công trình nghiên cứu lịch sử của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh Bình Định, Ban chấp hành Đảng bộ của các huyện, thành phố
trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Nhiều công trình nghiên cứu viết về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhà
xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Các công
trình nghiên cứu viết về mảnh đất, con người Bình Định.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn tôi sử dụng hai phương pháp
chính là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, tôi còn sử dụng
phương pháp thống kê, phân loại, so sánh và một số phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ quá trình lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Bình
Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975,
trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Trung ương Đảng, Khu ủy, Quân khu ủy 5.
- Đánh giá khách quan những thành tựu, hạn chế, đưa ra một số kinh nghiệm
lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Bình Định trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước.

8


- Góp phần làm sáng tỏ, đầy đủ hơn về lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
trên địa bàn tỉnh Bình Định trong 10 năm cuối ( 1965-1975)
- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về lịch sử
quân sự ở Bình Định thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1965 đến
năm 1975.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích góp

phần đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968).
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Bình Định tăng cường lãnh đạo phong trào chiến tranh
du kích góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1969 – 1975).
Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.

9


CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO
CHIẾN TRANH DU KÍCH GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƢỢC “CHIẾN
TRANH CỤC BỘ” (1965-1968)
1.1 Khái quát về tỉnh Bình Định
1.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Bình Định là tỉnh tương đối lớn, nằm ở khu vực Nam Trung Bộ. Với diện
tích khoảng 6.025 km2 trải dài từ vĩ tuyến 130 03‟ đến 140 42‟ bắc (chiều dài 110
km), 108036‟ đến 109022‟ kinh đông (chiều ngang trung bình 55 km). Phía bắc giáp
Quảng Ngãi được phân cách bởi đèo Bình Đê, phía Nam giáp Phú Yên được phân
cách bởi đèo Cù Mông, phía Tây giáp Gia Lai qua đèo Mang Giang và phía Đông
giáp biển Đông.
Theo sử cũ ghi lại, từ xa xưa Bình Định là vùng đất thuộc vương quốc Chăm
Pa, cuối thế kỉ X đầu thế kỉ XI vua Chăm Pa quyết định dời đô từ Quảng Nam về
đóng tại thành Đồ Bàn (thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay). Trong
khoảng 5 thế kỉ, với vị thế là kinh đô của quốc gia Chăm Pa, những dấu ấn biểu
trưng cho những giá trị văn hóa Chăm còn để lại khá nhiều ở Bình Định mà tiêu
biểu là hệ thống thành quách, đền tháp, bia, tượng.v.v.
Năm 1471 đội quân chinh chiến của vua Lê Thánh Tông đánh bại vương
quốc Vijaya xác lập ranh giới của quốc gia Đại Việt đến núi Thạch Bi (Phú Yên),
từ đây Bình Định trở thành một vùng lãnh thổ của Đại Việt. Cũng từ đây, tên gọi và
lãnh giới của vùng đất này nhiều lần biến thiên theo thời gian. Dưới thời vua Lê
Thánh Tông, Bình Định được gọi là phủ Hoài Nhơn, gồm 3 huyện là Bồng Sơn,

Phù Ly và Tuy Viễn (bao gồm địa phận huyện An Khê và huyện Chư Bang của
tỉnh Gia Lai ngày nay) thuộc tỉnh Quảng Nam (tức đạo Thừa Tuyên lúc bấy giờ).
Dưới thời cai trị của các chúa Nguyễn, tên gọi của tỉnh nhiều lần thay đổi. Vào năm
1602 phủ Hoài Nhơn đổi thành Quy Nhơn. Đến năm 1651 đổi thành Quy Ninh.
Năm 1742 chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy lại tên Quy Nhơn. Năm 1802, Nguyễn

10


Ánh – ông vua Nguyễn đầu tiên đã đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định dinh. Năm
1806 đổi thành Bình Định trấn. Phủ Quy Nhơn được gọi từ thời vua Minh Mạng kể
từ năm 1826. Năm 1832 với chính sách bãi bỏ cấp Bắc Thành, Gia Định Thành
thành lập các tỉnh của Minh Mạng, tên gọi tỉnh Bình Định lần đầu tiên xuất hiện.
Năm 1890, tỉnh Bình Định gộp với tỉnh Phú Yên thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là
Quy Nhơn. 8 năm sau, tức năm 1899 hai tỉnh này lại tách ra như cũ. Từ đây cho
đến trước năm 1975, dưới thời thực dân phong kiến và Ngụy quyền Sài Gòn mặc
dù tên gọi tỉnh Bình Định không thay đổi nhưng ranh giới tỉnh có nhiều thay đổi
theo từng thời kỳ, nhiều vùng lãnh thổ của Gia Lai, Kon Tum thuộc địa phận tỉnh
Bình Định. [136; tr269]
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 10 năm 1975 Bình Định và
Quảng Ngãi gộp lại với tên gọi tỉnh Nghĩa Bình. Đến cuối tháng 6 năm 1989 hai
tỉnh này lại tách ra với tên gọi và ranh giới như cũ.
Hiện nay tỉnh Bình Định bao gồm 10 huyện: Hoài Nhơn, Hoài Ân, Vĩnh
Thạnh, An Lão, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Vân Canh, Tuy Phước, Tây Sơn và 01
thành phố trực thuộc tỉnh là thành phố Quy Nhơn. Trong 10 huyện này có 3 huyện
miền núi không giáp biển là An Lão, Vĩnh Thạnh và Vân Canh. Còn lại các huyện
khác đều được phân bố trên khu vực với ba dạng thức địa hình chính là đồng bằng
ven biển, trung du và đồi núi.
Nhìn một cách tổng quan thì Bình Định cũng giống như nhiều tỉnh miền
Trung khác, đó là nơi có kiểu bố trí địa hình phức tạp, cao dần từ đông sang tây với

nhiều đồi núi, sông ngòi, xen kẽ có những đồng bằng nhỏ hẹp, đầm phá ven biển.
Đây là dạng thức địa hình lý tưởng cho việc tiến hành các chiến thuật chiến tranh
du kích.
Đồi núi chiếm hai phần ba diện tích của tỉnh được phân bố rải rác ở tất cả các
huyện và ngay cả trong nội thành thành phố Quy Nhơn. Các núi ở đây có độ cao
trung bình từ 700m đến 1000m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1000m, đỉnh cao nhất

11


1.202m ở xã An Toàn (huyện An Lão) [136; tr12]. Toàn bộ mặt phía Bắc, phía Tây
và phía Nam tỉnh được ôm trọn bởi dãy núi Trường Sơn với những cánh rừng bạt
ngàn. Diện tích rừng của Bình Định khoảng 208.065 ha chủ yếu là rừng kín, mang
đặc trưng của kiểu rừng thứ sinh, thường có 3 đến 4 tầng rõ rệt với nhiều loài thực
vật. Địa thế rừng hiểm trở nối liền với rừng núi của Gia Lai ở phía Tây, Ba Tơ
(Quảng Ngãi) ở phía Bắc và Phú Yên ở phía Nam, hình thành vùng căn cứ địa
kháng chiến liên hoàn giữa các tỉnh, là chỗ đứng chân của nghĩa quân trong hai
cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Cả dải dài phía đông tỉnh Bình Định giáp
biển. Nếu không tính các đường bờ của các hải đảo, bán đảo thì Bình Định có
khoảng 134 km bờ biển. Khu vực bờ biển thềm lục địa tỉnh có diện tích khoảng
36.000km2 lớn gấp 6 lần diện tích tự nhiên của tỉnh. [136; tr101] Ngăn cách giữa
vùng núi và biển là khu vực đồng bằng nhỏ hẹp. Hầu hết các cánh đồng nơi đây
đều bị cắt xẻ mạnh bởi đồi núi và sông suối.
Trên địa bàn tỉnh có nhiều sông suối với hướng chảy chính là hướng tây –
đông. Có một số con sông lớn như: sông Hà Thanh, sông Kôn, sông Lại Giang,
sông La Tinh, còn lại hầu hết các sông đều nhỏ, lòng sông nhiều đoạn gấp khúc bị
cát bồi nên thường cạn vào mùa khô, mùa lũ nước chảy xiết. Mật độ sông suối dày
dẫn đến mật độ cầu đường ở Bình Định cũng dày đặc, trung bình 0,2 đến 0,4 km
đường có một chiếc cầu. Trên địa bàn tỉnh có 204 cầu cống lớn nhỏ. [46; tr21] Điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến các kế hoạch cơ động trong thời chiến.

Về khí hậu: Bình Định thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, một
năm chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa
kéo dài từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, mưa nhiều nhất trong khoảng 4 tháng, từ
tháng 9 đến tháng 12. Thời tiết ở đây khá ổn định, ít chịu ảnh hưởng của giông bão.
Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 270C.
Bình Định có hệ thống đường giao thông khá phong phú, bao gồm giao
thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không. Hệ

12


thống đường bộ được xây dựng rộng khắp, dày đặc trên địa bàn tỉnh. Trong đó có
một số tuyến đường quan trọng, như tuyến đường quốc lộ 1A chạy dọc theo chiều
dài tỉnh, tuyến đường quốc lộ 19 chạy từ cảng biển Quy Nhơn nối liền với tỉnh Gia
Lai sang Hạ Lào và đông bắc Campuchia. Hai tuyến đường này Mỹ Ngụy thường
xuyên hoạt động mạnh mẽ trong suốt thời kỳ chúng đánh chiếm ở miền Nam.
Đường số 3 đi từ Lại Khánh (Hoài Nhơn) đến Kim Sơn (Hoài Ân). Đường số 5 từ
Bồng Sơn đi An Lão. Đường số 6 từ Diêu Trì qua Vân Canh đi Phú Yên v.v.[46;
tr21] Đường sắt xuyên Việt chạy qua tỉnh có chiều dài 135,8 km. Ngoài ra còn hai
nhánh đường sắt: từ Quy Nhơn đi Diêu Trì (10,2 km), từ ga Quy Nhơn đi cảng Quy
Nhơn (3,2 km). [128; tr30] Hàng loạt cửa biển có giá trị giao thông ở Bình Định
được biết đến như cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi, cửa Quy
Nhơn. Trong đó cửa biển Quy Nhơn là lớn nhất có giá trị cao về giao thông và phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh. Những tàu nhỏ có thể đến cập bến, hàng hóa nhập cảng
bốc lên xe hơi hoặc tàu hỏa để tiếp tế trong tỉnh và các tỉnh lân cận như Phú Yên,
Quảng Ngãi, Kon Tum, Pleicu, Phú Bổn. Theo tài liệu của ngụy quyền Sài Gòn nhận
định: “hải cảng Quy Nhơn rất có tương lai nếu để kiến thiết cho các tàu lớn có thể
cập bến được thì hải cảng này sẽ đứng vào bậc nhất Trung Phần”. [128; tr30] Giao
thông đường không cũng sớm được chú trọng xây dựng và vận hành ở đây. Tỉnh có
hai sân bay lớn là sân bay Gò Quánh ở Phù Cát và sân bay Quy Nhơn. Ngoài ra còn

một số sân bay dã chiến ở các huyện do Mỹ Ngụy xây dựng nhằm phục vụ cho kế
hoạch đè bẹp phong trào đấu tranh của quần chúng, ứng phó nhanh chóng với các
chiến lược quân sự của ta.
Được thiên nhiên ưu đãi, nguồn lợi thủy sản biển ở Bình Định khá nhiều và
phong phú về chủng loại. Khu vực ven biển hình thành nhiều đầm phá: đầm Trà Ổ,
đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại,v.v. Các đầm ngăn cách với biển
bởi các dãy núi thấp hoặc các dải cát. Đây là nơi ngư dân nuôi trồng thủy hải sản
nước mặn, nước lợ. Bên cạnh nguồn lợi từ khai thác thủy hải sản, trong những năm

13


gần đây tỉnh Bình Định còn chú trọng phát triển ngành du lịch biển với nhiều dạng
thức du lịch đa dạng, đặc biệt là dự án Quy Nhơn vinper trên bán đảo Phương Mai.
Bình Định cũng được biết đến là tỉnh có tiềm năng phát triển nông nghiệp ở
khu vực miền Trung Tây Nguyên. Mặc dù diện tích đồng bằng ở đây không lớn
nhưng trên toàn tỉnh đã hình thành một hệ thống các đồng bằng lòng chảo xen lẫn
thung lũng nhỏ hẹp được phân bố trên lưu vực các con sông, ven biển. Với chất đất
pha cát, ít màu mỡ, không thực sự thích hợp cho trồng lúa nước song với sự nỗ lực
của người dân, một số cánh đồng trồng lúa lớn đã được hình thành như: cánh đồng
Phù Mỹ, An Nhơn, Phù Cát, Tuy Phước, Tây Sơn,v.v, góp phần cung cấp nguồn
lương thực trực tiếp cho nhu cầu của nhân dân trong tỉnh. Ngoài trồng lúa, trong
nông nghiệp ở đây còn phát triển một số cây thực phẩm ngắn ngày như đỗ, lạc,
ngô, khoai, sắn, rau.v.v, một số cây gia vị như ớt, tỏi, kiệu, nhiều nơi còn trồng mía
xen với diện tích trồng các cây công nghiệp lâu năm. Toàn tỉnh có 322.621 ha diện
tích trồng cây công nghiệp lâu năm: chè, cà phê, điều, tiêu, dừa, ca cao, quế, cao
su,v.v, phân bố ở các huyện Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Ân và Hoài Nhơn. Ngoài ra
còn một diện tích đáng kể cây ăn quả: xoài, chuối, dứa, cam, quýt, bưởi,v.v.
Tóm lại: với vị trí chiến lược quan trọng cùng cấu tạo địa hình phức tạp, Bình
Định là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển.

1.1.2. Dân cư, truyền thống yêu nước và cách mạng.
Bình Định là tỉnh sớm quy tụ người dân từ nhiều địa phương khác nhau đến
sinh sống. Những cư dân đầu tiên trên mảnh đất này là người Chăm. Sau đó cùng
với quá trình “Nam tiến” của quốc gia Đại Việt, người Kinh bắt đầu di cư vào đây
lập nên những làng xóm mới. Quá trình di cư của người Việt vào Bình Định được
đẩy mạnh từ thế kỉ XVI, XVII, kéo dài cả thời cận đại, hiện đại. Trong những đợt
“Nam tiến” của người Việt thì ồ ạt nhất là sau mỗi lần chúa Nguyễn ở Đàng Trong
đánh thắng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Bởi vì sau mỗi lần đánh thắng chúa Trịnh,
chúa Nguyễn lại tiến hành bắt tù binh và dân thường, số này được đưa vào khai phá

14


những vùng đất mới ở Đàng Trong trong đó có Bình Định. Với chính sách chiêu
hiền đãi sĩ, khoan thư sức dân của các chúa Nguyễn, Bình Định đã thu hút được
người dân từ nhiều địa phương khác ở miền Bắc, nhất là nhân dân vùng Thanh –
Nghệ - Tĩnh đến khai hoang lập nghiệp. Sau khoảng gần một thế kỷ, ở vào thời
chúa Nguyễn Phúc Tần, Quy Nhơn đã là một vùng dân cư đông đúc với những xóm
làng trù phú. Hiện nay Bình Định là mảnh đất quần cư của nhiều tộc người sinh
sống, như người Kinh, người Chăm, người Ba Na, người H‟ rê, người Hoa. Trong
đó người Kinh chiếm đại đa số, chiếm khoảng 98% dân số toàn tỉnh, sinh sống chủ
yếu ở vùng đồng bằng, ven biển. Người Bana sinh sống chủ yếu ở các huyện miền
núi Vân Canh, Vĩnh Thạnh, An Lão nơi thích hợp cho làm nghề nương rẫy. Người
Chăm cư trú ở vùng đồi núi thấp Vân Canh – nơi thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp dùng cày. Người H‟rê cư trú ở những vùng núi thấp, trên lưu vực các sông
suối của An Lão. Người Hoa cư trú ở nơi có điều kiện giao thông phát triển, dân cư
đông đúc. [136; tr213]
Những cư dân ở đây theo nhiều tôn giáo khác nhau. Khoảng 70% đồng bào
theo đạo Phật, 8% theo đạo Thiên chúa giáo, 1% theo đạo Cao Đài và đạo Tin
Lành. Hầu hết các gia đình đều lấy việc thờ cúng tổ tiên làm trọng. [128; tr13] Họ

sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh bắt thủy hải sản.
Nhìn chung đại đa số người dân Bình Định đều có nguồn gốc từ những thế
hệ đi mở cõi, do đó họ sớm mang trong mình một ý chí kiên cường, không ngại
khó, không ngại khổ. Người Bình Định thật thà, chất phát, đôn hậu, cần cù trong
lao động, trọng nhân nghĩa khí tiết. Đặc biệt nơi đây sớm có truyền thống thượng
võ. Trong ca dao Bình Định có câu:
“Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định cầm roi đi quyền”
“Roi Thuận Truyền, quyền An Thái”…
Chính tinh thần thượng võ đã tôi luyện nên những đức tính quý báu riêng của

15


người Bình Định, đồng thời rèn luyện người Bình Định có một sức mạnh dẻo
dai, tinh thần quật khởi để đứng lên chống lại ách áp bức của các thế lực cường
quyền, chống lại các thế lực ngoại xâm góp phần bảo vệ quê hương đất nước.
Sự vùng dậy của người dân Bình Định chống cường quyền thực sự nổi lên
mạnh mẽ từ thế kỉ XVIII. Cuối thế kỉ XVII, bộ máy chính quyền Đàng Trong rơi
vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Tệ nạn mua quan bán tước, hách dịch,
cưỡng ép nhân dân xảy ra khắp nơi. Như một quy luật lịch sử “có áp bức có đấu
tranh”, phong trào đấu tranh của nông dân liên tiếp nổ ra từ Bắc chí Nam làm nên
“thế kỉ nông dân khởi nghĩa”. Ở Bình Định đêm trước của phong trào Tây Sơn có
nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Năm 1695 một thương nhân ở Quy Nhơn là Quảng
Phú liên kết với thương nhân ở phủ Quảng Ngãi là Linh Vương mua sắm binh
thuyền, vũ khí khởi nghĩa. Tiếp đó năm 1769 cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Lía nổ ra ở thôn Phú Lạc. Những cuộc khởi nghĩa này nổ ra nhỏ lẻ nên nhanh
chóng bị đàn áp thất bại. Năm 1771, ba anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa.
Ba anh em Tây Sơn sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân khá giả ở
vùng Tây Sơn thượng đạo (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Vào cuối

thế kỉ XVIII, bất bình trước các thế lực cường quyền ở Đàng Trong cưỡng bức
nhân dân, anh em Tây Sơn đứng lên hô hào nhân dân phất cờ khởi nghĩa. Năm
1773 nghĩa quân chiếm được phủ thành Quy Nhơn. Năm 1774 phong trào Tây Sơn
đánh chiếm ra tới Quảng Nam. Năm 1775 Nguyễn Nhạc giảng hòa với Hoàng Ngũ
Phúc. Mặt Bắc tạm yên, quân Tây Sơn có điều kiện đẩy mạnh tiêu diệt tập đoàn
chúa Nguyễn ở mặt Nam. Cũng từ đây nghĩa quân Tây Sơn liên tiếp giành được
những thắng lợi mang tính quyết định: năm 1775 nghĩa quân làm chủ toàn tỉnh Phú
Yên. Năm 1777 cơ đồ của chúa Nguyễn về cơ bản bị đánh sập. Năm 1785 Nguyễn
Huệ chỉ huy quân đánh tan âm mưu xâm lược của 5 vạn quân Xiêm, dẹp yên bờ cõi
phía nam Đại Việt. Đến đây phần đất Đàng Trong từ đèo Hải Vân đến Hà Tiên
thuộc quyền kiểm soát của đội quân Tây Sơn. Thừa thắng ở mặt trận phía Nam,

16


năm 1786 nghĩa quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ tấn công ra Bắc
tiêu diệt quân Trịnh, xóa bỏ ranh giới Đàng Trong – Đàng Ngoài tồn tại suốt hơn 2
thế kỉ trên đất nước ta. Tiếp đó vào năm 1789 quân Tây Sơn tiêu diệt 29 vạn quân
Thanh, thống nhất giang sơn về một mối dưới sự trị vì của anh em Tây Sơn.
Tiếng vang của phong trào Tây Sơn và tên tuổi của anh em Tây Sơn được
ghi vào những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, thể hiện niềm tự hào, khát
vọng và ý chí quật cường của nhân dân Bình Định.
Phát huy truyền thống đấu tranh của ông cha, đến thời cận, hiện đại, trước
âm mưu, hành động xâm lược và bành trướng của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, một
lần nữa các thế hệ nhân dân Bình Định lại kiên cường đứng lên.
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Năm 1884 phái chủ hòa
trong triều đình nhà Nguyễn kí điều ước Patơnôt, dâng nước ta cho thực dân Pháp.
Năm 1885, tại Tân Sở (Quảng Trị), vua Hàm Nghi ra chiếu Cần vương, kêu gọi văn
thân, sĩ phu giúp vua cứu nước. Từ giữa tháng 8 năm 1885, hưởng ứng lời kêu gọi
của vua Hàm Nghi quần chúng nổi dậy ở các huyện Phù Mỹ, Hoài Nhơn, Tuy

Phước, An Nhơn.v.v, sau đó phong trào Cần Vương ở đây còn đẩy mạnh phối hợp
với nhân dân ở Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận. Đầu 1887, thực
dân Pháp và bọn phản động triều Huế phải huy động một lực lượng lớn (khoảng
7000 quân) để đàn áp. Nhiều thủ lĩnh Cần Vương ở Bình Định bị bắt và bị giết, như
Mai Xuân Thưởng, Phạm Toản…song phong trào Cần Vương ở Bình Định vẫn
phát triển mạnh mẽ. Một số thủ lĩnh như Nguyễn Đa, Tăng Bạt Hổ, Trần Cao Vân
chạy đến các tỉnh khác tiếp tục xây dựng lực lượng đánh Pháp. [9; tr22, 23]
Bước sang những năm 20 của thế kỉ XX, hòa chung với bầu không khí của
luồng tư tưởng mới – luồng tư tưởng cách mạng vô sản, ngay từ năm 1926 ở Bình
Định đã có một bộ phận thanh niên hướng về Maxcơva. Tháng 2 năm 1928 Kỳ bộ
thanh niên cách mạng đồng chí hội Nam kỳ phái đồng chí Phan Trọng Quảng đến
Cửu Lợi (Tam Quan nam, Hoài Nhơn) để giúp địa phương lập tổ chức Việt Nam

17


thanh niên cách mạng đồng chí hội. Từ chi hội thanh niên cách mạng đồng chí hội
đầu tiên được thành lập ở Cửu Lợi vào tháng 2 năm 1928 (thành lập tại nhà đồng chí
Tôn Chất, thôn Cửu Lợi. Lúc đầu hội có 3 đồng chí là Nguyễn Trân, Tôn Chất và
Huỳnh Triếp), cơ sở của hội Thanh niên nhanh chóng lan ra nhiều vùng trong toàn
tỉnh. Khoảng giữa năm 1928 đồng chí Nguyễn Trân lập chi hội Thanh niên ở An Đỗ
(Hoài Sơn) và Tài Lương (Hoài Thanh). Sau đó hàng loạt vùng xây dựng được hội
Thanh niên như Hy Văn, Tường Sơn, Chương Hòa, Châu Đê, Huân Công, Dĩnh
Thạnh, An Thái, Đại Hóa, Cự Tài, Cự Lễ, Hội Phú, Tấn Thạnh, Thạnh Xuân, Trung
Lương,v.v. Cũng trong thời gian này, chi hội Thanh niên Hoài Nhơn đã bắt liên lạc
được với Kỳ hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội Trung Kỳ và Tỉnh bộ
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội Quảng Ngãi.[9; tr32,33]
Sự thành lập nhanh chóng các tổ chức Thanh niên ở Bình Định từ năm 1928
là một trong những điều kiện cơ bản để đưa phong trào đấu tranh ở tỉnh đi theo con
đường cách mạng vô sản, chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập các cơ sở Đảng ở

tỉnh Bình Định.
Tháng 2 năm 1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Đầu tháng 3 năm 1930
chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Định – chi bộ cộng sản tại nhà máy đèn Quy
Nhơn được thành lập gồm 5 đồng chí do đồng chí Lê Xuân Trữ làm bí thư.[9; tr41]
Tháng 8 năm 1930 chi bộ cộng sản Cửu Lợi được thành lập do đồng chí Nguyễn
Trân làm bí thư. Tiếp đó là sự ra đời của hàng loạt các chi bộ Đảng ở các thôn của
huyện Hoài Nhơn rồi Đảng bộ huyện Hoài Nhơn cũng trên cơ sở đó được thành
lập. Cuối năm 1936 chi bộ Hồng Lĩnh được ra đời. Các Đảng bộ trên địa bàn tỉnh
được thành lập đã nhanh chóng bắt liên lạc với nhau và bắt liên lạc với Đảng bộ các
tỉnh bạn. Năm 1937, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập. Đến tháng 7 năm 1945 để
chuẩn bị tốt hơn cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, xứ ủy Trung Kỳ cử
đồng chí Nguyễn Chí Thanh đến Bình Định chỉ đạo thành lập Ban cán sự Đảng tỉnh
Bình Định trên cơ sở Tỉnh ủy lâm thời cũ.

18


Từ khi ra đời, các chi bộ Đảng, Đảng bộ các huyện và Ban cán sự Đảng tỉnh
Bình Định đảm đương sứ mệnh trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân
dân trong tỉnh đi theo xu hướng cách mạng mới của dân tộc và thời đại, làm nên
những cao trào cách mạng sôi nổi quyết liệt chống lại thực dân Pháp và bọn tay sai.
Ngày 23 tháng 8 năm 1945 nhân dân Bình Định giành được chính quyền, Ủy
ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nguyễn Huệ được thành lập. Ngày 3 tháng 9
năm 1945 Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời mới quyết định lấy tên tỉnh là tỉnh
Tăng Bạt Hổ.
Ngay sau khi nhân dân ta làm Cách mạng tháng Tám thành công, từ vĩ tuyến
16 trở ra Bắc có 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc dưới danh nghĩa quân Đồng
minh vào Đông Dương làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, theo sau quân Trung
Hoa dân quốc là bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có
4 vạn quân Anh kéo vào Việt Nam, theo sau quân Anh là quân đội Pháp vào nước

ta một cách bất hợp pháp.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn, chính thức
thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta lần thứ hai. Được sự hậu thuẫn của quân Anh,
chỉ trong một thời gian ngắn quân Pháp nhanh chóng chiếm được hầu hết các thành
phố, thị xã quan trọng ở Nam Bộ. Ngày 10 tháng 12 năm 1945 phái bộ quân Anh ở
Nha Trang cho một tàu chiến chở 150 lính Nhật vào đảo Cù Lao Xanh, âm mưu
phối hợp với bọn Nhật ở nhà băng Đông Dương tiến công chiếm thị xã Quy Nhơn
lập đầu cầu cho quân Pháp đổ bộ đánh chiếm các nơi khác. [45; tr43] Tuy nhiên âm
mưu này của chúng không thực hiện được. Ngày 12 tháng 12 năm 1945 đại đội
Phan Đình Phùng bao vây tiêu diệt gọn quân Nhật ở nhà băng Đông Dương, uy
hiếp tàu chiến Nhật ở Cù Lao Xanh, buộc chúng phải chạy vào phía Nam.
Trong suốt 9 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, Pháp luôn tìm
cách đánh chiếm Bình Định hòng triệt tiêu vùng hậu phương kháng chiến của ta.
Song quân dân Bình Định kiên quyết đứng lên đấu tranh chặn đứng âm mưu và

19


×