Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.27 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



HỮU THỊ HỒNG HOA

PHÁT TRIỂN LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



HỮU THỊ HỒNG HOA

PHÁT TRIỂN LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:



60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TRỌNG TUẤN

HÀ NỘI - 2012

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS.
Nguyễn Trọng Tuấn.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012.

Tác giả luận văn

Hữu Thị Hồng Hoa

3



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

Chƣơng 1. THỰC CHẤT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ................................ 8

1.1. Thực chất của phát triển lực lượng sản xuất ................................................. 8
1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất và kết cấu của nó................................ 8
1.1.2. Phát triển lực lượng sản xuất, yếu tố quyết định cho sự phát
triển của xã hội ................................................................................. 17
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những yêu cầu cụ thể về lực lượng
sản xuất............................................................................................. 19
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những biểu hiện của nó.............. 19
1.2.2. Yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam............................................... 23
1.3. Những nhân tố chính ảnh hưởng đến sự phát triển lực lượng sản xuất ....... 26
1.3.1. Con người - động lực quan trọng nhất thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển................................................................................... 26
1.3.2. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là động lực thúc đẩy
sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất ................................. 28
1.3.3. Tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy của quan hệ sản xuất đến lực
lượng sản xuất .................................................................................. 29
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN LỰC
LƢỢNG SẢN XUẤT Ở TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ............................................... 36

2.1. Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay ..... 36
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội ......... 36

2.1.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay ............... 41
2.1.3. Thực trạng tư liệu sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên .............................. 50
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái
Nguyên hiện nay .............................................................................. 69

4


2.2.1 Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của việc phát triển lực lượng sản
xuất với trình độ con người của tỉnh còn có mặt chưa tương
xứng .................................................................................................. 69
2.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao với
những trang thiết bị công nghệ phục vụ sản xuất còn thiếu và
yếu .................................................................................................... 70
2.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của việc phát triển lực lượng sản
xuất với sự non yếu trong việc thiết kế một quan hệ sản xuất
phù hợp ............................................................................................. 71
2.2.4. Mâu thuẫn giữa điều kiện kết cấu hạ tầng của tỉnh còn có hạn
với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng cao .............. 72
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái
Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ...................... 73
2.3.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ,
tăng cường năng lực quản lý ủy ban nhân dân đối với sự phát
triển lực lượng sản xuất ở Thái Nguyên .......................................... 73
2.3.2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với
những thay đổi của lực lượng sản xuất hiện nay ............................. 76
2.3.3. Tập trung việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ............................................................................................ 80
2.3.4. Phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao khả năng ứng dụng
kỹ thuật mới vào phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với điều

kiện thực tế của tỉnh Thái Nguyên ................................................... 85
2.3.5. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng vào nông thôn, vùng sâu,
vùng xa nhằm rút ngắn khoảng cách giữa các vùng để phát triển
lực lượng sản xuất ............................................................................ 86
2.3.6. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp trong nước
và ngoài nước, các chuyên gia nước ngoài để phát triển lực
lượng sản xuất khơi dậy tiềm năng vốn có của tỉnh ........................ 89
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 93

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

KT- XH:

Kinh tế - xã hội

LLSX:

Lực lượng sản xuất

QHSX:

Quan hệ sản xuất


THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

UBND:

Ủy ban nhân dân

XH:

Xã hội

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Học thuyết hình thái KT- XH của chủ nghĩa duy vật lịch sử do Mác xây
dựng, trong đó có quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển
của LLSX là lý luận khoa học, là thế giới quan và phương pháp luận cách
mạng cho việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề XH.
Ở nước ta, trong những năm 60-70 của thế kỷ XX, do trong nhận thức
cũng như hành động, chúng ta chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về
sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX nên chúng ta đã

phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi phạm quy luật khách quan. Một thời gian
dài chúng ta cường điệu hoá vai trò của QHSX, muốn tạo một QHSX tiên tiến
đi trước mở đường cho LLSX phát triển. Điều đó đã làm cho LLSX bị kìm

6


hãm nặng nề, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trong một số
năm.
Bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta từng bước sửa chữa những sai lầm
cả trong nhận thức, cũng như trong thực tiễn vận dụng quy luật này. Nhờ vậy
“QHSX được điều chỉnh phù hợp hơn so với tính chất, trình độ và yêu cầu
phát triển của sản xuất, giải phóng và phát huy tiền năng to lớn trong nước,
tạo điều kiện thuận lợi khai thác nguồn lực bên ngoài”.
Nhờ đó sau gần 30 năm đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển
sang cơ chế thi trường định hướng XHCN; từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành
phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang có nhiều thành
phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; đời sống các tầng lớp nhân
dân được cải thiện. đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua
được những cơn chấn động chính trị và sự hụt hẫng về thị trường do những
biến động ở Đông Âu và Liên Xô gây ra; phá được thế bao vây cấm vận, mở
rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; tình hình
chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Sức
mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với những năm trước.
Hiện nay nước ta đang bước vào giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, nhằm mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, từng bước hội

nhập, tạo tiền đề kinh tế - xã hội để đất nước tiến lên CNXH. Báo cáo chính
trị tại đại hội IX của Đảng chỉ rõ” Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa
của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa
có những bước nhảy vọt”. Để đạt được mục tiêu đó, trước hết cần phải phát
triển LLSX, trên cơ sở đó từng bước xây dựng QHSX mới phù hợp với trình

7


độ phát triển của LLSX theo từng giai đoạn là đòi hỏi tất yếu khách quan của
sự phát triển.
Cùng với cả nước, tỉnh Thái Nguyên đang tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với những đặc điểm riêng của mình. Là một tỉnh miền núi Đông
Bắc, có nhiều dân tộc anh em, tỉnh Thái Nguyên có nhiều tiềm năng về kinh
tế, có vị trí quan trọng về chính trị, quốc phòng và an ninh. Do vậy, Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên đã nhận thức đúng và bước đầu vận dụng sát hợp quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất vào đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc nhận thức và vận
dụng quy luật này còn có nhiều hạn chế nhất định: Kinh tế chậm phát triển;
Việc huy động và sử dụng các nguồn lực của tỉnh còn kém hiệu quả; Trình độ
khoa học công nghệ còn lạc hậu; Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp
ứng kịp với nhu cầu phát triển của tỉnh; hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn
chế…
Từ thực trạng trên đã đặt ra yêu cầu phải tổng kết thực tiễn, vận dụng lý
luận vào cuộc sống rút ra những bài học, kinh nghiệm để phát triển lực lượng
sản xuất ở tỉnh TN trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng và cấp thiết đối với cả lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, tôi chọn vấn đề: "Phát triển lực lượng sản
xuất ở tỉnh Thái Nguyên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay"

làm đề tài luận văn thạc sỹ, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua liên quan đến vấn đề "Phát triển lực lượng sản
xuất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã có rất nhiều công trình khoa
học đề cập. Những kết quả nghiên cứu này có giá trị lịch sử nhất định. Tuy

8


nhiên, thực tiễn luôn vận động biến đổi và phát triển nên mọi kết luận tổng
kết vẫn cần được bổ sung, phát triển.
Ở Liên xô và một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nhiều nhà khoa
học đã có những nghiên cứu khá sâu về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và ứng dụng quy luật này vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều
vấn đề lý luận đã được giải quyết. Nhưng cũng còn nhiều vấn đề thực tiễn
chưa có câu trả lời, đặc biệt là từ giữa những năm 80 trở lại đây, khi chế độ xã
hội chủ nghĩa ở một số nước lâm vào khủng hoảng.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lực lượng sản xuất trong sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta hết sức chú ý. Từ nhiều năm
trước đây, những bài học về sự cần thiết phải tôn trọng quy luật khách quan,
về những sai lầm do quá nhấn mạnh ý nghĩa mở đường của các quan hệ sản
xuất, do sự tuyệt đối hóa vai trò của công nghiệp nặng... đã được phân tích và
rút kinh nghiệm. Những công trình, bài viết tiêu biểu xoay quanh vấn đề này
là: Nghiên cứu về biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam (Luận án phó tiến sĩ, Nguyễn Tĩnh Gia, 1987);
Nghiên cứu về quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng (Luận án phó tiến sĩ, Bùi Chí Kiên, 1996);

Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn (Luận án tiến sĩ, Nông Thị Mồng, 2000);
Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta (Luận án
tiến sĩ, Vi Thái Lang, 2002); Nghiên cứu nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Luận án tiến sĩ, Đoàn Văn Khái, 2000);… Lê
Xuân Đình, Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, Tạp chí Cộng sản, số 5
(03/1999); Lê Huy Ngọ, Khoa học - công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa

9


nông nghiệp, nông thôn sang bước phát triển mới, Tạp chí Cộng sản số 3 (021999), Nguyễn Cảnh Hồ, có phải khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, Tạp chí Triết học, số 2 (02/2002); Lê Văn Dương, vấn đề đổi mới
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn, Tạp chí Triết học, số 1 (01/2002)… Lê Du
Phong, Hoàng Văn Hoa, Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền
núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998; Mai Quốc Chánh, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999; Lương Xuân Quỳ, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ
nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng, xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002...
Song, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên bàn về
việc phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa dưới dạng một luận văn khoa học. Chính vì vậy, trong luận
văn này, tác giả đã cố gắng tiếp thu kết quả đã đạt được của những công trình
vừa nêu, nhằm tổng kết, đánh giá sự vận động, phát triển của các yếu tố của
lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên; trên cơ sở đó làm rõ những vấn đề
đang đặt ra, tìm hướng giải quyết, đồng thời khuyến nghị một số giải pháp có

tính định hướng để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất ở một tỉnh
miền núi trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở
tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, luận
văn đã chỉ ra những nhân tố tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất
cũng như những vấn đề nảy sinh, đồng thời đưa ra những giải pháp chủ yếu

10


nhằm phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh Thái Nguyên.
* Nhiệm vụ:
Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lực lượng sản xuất và vai trò
của phát triển lực lượng sản xuất đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh
Thái Nguyên hiện nay.
- Chỉ ra các nhân tố cơ bản quyết định đến sự phát trriển của lực lượng
sản xuất.
- Phân tích, đánh giá thực trạng sự phát triển lực lượng sản xuất của
Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh
Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập này tập trung làm rõ vai trò của phát triển lực lượng sản
xuất đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thái Nguyên. Từ đó chỉ ra
những thực trạng của việc phát triển lực lượng sản xuất và kiến nghị một số
giải pháp nhằm phát triển lực lượng sản xuất của tỉnh Thái Nguyên.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Cùng
với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, những chủ trương, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển lực lượng sản xuất. Đề tài còn kế
thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, các
bài viết đã được công bố có liên quan đến đề tài.
- Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp lôgíc kết

11


hợp với lịch sử để phân tích, đánh giá sự phát triển của lực lượng sản xuất ở
tỉnh TN. Ngoài ra luận văn còn sử dụng những phương pháp khác như thống
kê, khảo sát, tổng hợp so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
* Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá đúng thực trạng sự phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Thái
Nguyên, chỉ ra xu hướng vận động và phát triển của lực lượng sản xuất thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thái Nguyên.
- Bước đầu đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm phát triển lực lượng
sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu và giảng dạy triết học tại các trường đại học, cao đẳng, trường
chính trị, cũng như những ai quan tâm đến vấn đề này.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về lực lượng sản xuất
và vai trò của lực lượng sản xuất đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các ban ngành của

tỉnh tham khảo trong việc hoạch định các chính sách nhằm thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển, đồng thời luận văn còn là tư liệu tham khảo cho những
người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy bộ môn Mác-Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 2 chương, 6 tiết:

12


Chƣơng 1: Thực chất của sự phát triển lực lượng sản xuất thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chƣơng 2: Thực trạng và giải pháp cơ bản nhằm phát triển lực lượng
sản xuất ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

13


Chƣơng 1
THỰC CHẤT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. Thực chất của phát triển lực lƣợng sản xuất
1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất và kết cấu của nó
Trong nghiên cứu sự vận động, phát triển của xã hội loài người, điểm cơ
bản làm cho C. Mác thành công và trở thành khác về chất so với các nhà triết
học trước C. Mác là ở chỗ, ông đã vận dụng phép biện chứng duy vật để giải
quyết những vấn đề của lịch sử. Cụ thể hơn, ông đã xuất phát từ những "sự thật
giản đơn" trong đời sống vật chất của con người và xã hội để giải thích các hiện
tượng của đời sống xã hội. Ph. Ăngghen đã nhận xét: "Cái sự thật hiển nhiên...

là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động,
trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động
chính trị, tôn giáo, triết học..." [64, tr.166]. Nhờ đó mà C.Mác đã phát hiện
hàng loạt các quy luật của lịch sử, đó là các quy luật: tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, v.v...
Trong đó quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, nó chi phối mọi quy luật khác của xã
hội, bởi vì mỗi con người, mặc dù có những mục đích riêng và đều cố gắng
theo đuổi những mục đích đó bằng nhiều cách khác nhau, song những mục
đích này không nằm ngoài nhu cầu ăn, mặc, ở và các nhu cầu khác của chính
con người. Về cơ bản, các hoạt động của con người đều do những nhu cầu đó
thúc đẩy, và con người phụ thuộc vào mức độ đáp ứng những nhu cầu đó, nói
cách khác là phụ thuộc vào hoạt động sản xuất vật chất và các quy luật của nó.

14


Khi bàn về hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác, Ph.Ăngghen cũng như
V.I.Lênin không dành nhiều công sức cho việc định nghĩa các khái niệm lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà các ông sử dụng và trình bày các khái
niệm này thông qua phân tích nội dung của quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và các hình thức biểu
hiện của nó trong những chế độ xã hội khác nhau. Tuy nhiên, qua việc các
nhà kinh điển sử dụng những khái niệm này, phần nào chúng ta đã có thể hiểu
nội dung, cấu trúc của các khái niệm đó. Với khái niệm "lực lượng sản xuất",
có thể hiểu những nội dung cơ bản của nó như sau:
Lực lượng sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản
ánh một hiện tượng xã hội tồn tại, tác động, vận động trong mọi giai đoạn lịch
sử của xã hội loài người. Khái niệm này dùng để chỉ quan hệ giữa con người

với tự nhiên và là sự biểu hiện của mối quan hệ phức tạp đó trong quá trình
sản xuất. Thuật ngữ "lực lượng sản xuất" lần đầu tiên được C.Mác và
Ph.Ăngghen sử dụng trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức". Mặc dù chưa được
trình bày hoàn chỉnh như là một thành tố cơ bản của quy luật về lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, nhưng tất cả những nội dung cơ bản của quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
đều đã được nêu một cách khái quát trong tác phẩm này. Sau này nội dung
của quy luật trên đã được làm sáng tỏ và phát triển thêm trong các tác phẩm
như: "Sự khốn cùng của triết học", "Lao động làm thuê và tư bản", "Tiền công
giá cả và lợi nhuận", và đặc biệt là trong bộ "Tư bản". Thông qua việc phân
tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, các yếu tố của
lực lượng sản xuất, vai trò của lực lượng sản xuất trong hệ thống sản xuất vật
chất của xã hội... các nhà kinh điển đã giúp chúng ta có cơ sở khoa học để
hiểu đúng nội dung của khái niệm "lực lượng sản xuất". Qua đó, có thể hiểu
khái niệm lực lượng sản xuất với những nội dung cơ bản như sau:

15


Thứ nhất: Lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, đó là một hệ thống lực lượng vật chất do con người và xã
hội loài người tạo ra để cải tạo, chinh phục tự nhiên. Hệ thống lực lượng vật
chất này đồng thời biểu hiện luôn cả sức mạnh, năng lực chinh phục tự nhiên
của con người.
Thứ hai: Lực lượng sản xuất là một thể thống nhất bao gồm yếu tố
người và các yếu tố vật, trong đó con người là yếu tố đặc biệt. Bởi vì, con
người là chủ thể sáng tạo, chế tạo ra những công cụ, các phương tiện bổ trợ
cho các khí quan của mình, tác động đến khách thể - đối tượng lao động để
tạo ra những vật phẩm đáp ứng những nhu cầu của bản thân và của xã hội.
Trong quá trình đó, con người đồng thời tự cải tạo bản thân mình cả về sinh

thể và trí tuệ. Ngày nay, yếu tố trí tuệ đang ngày càng trở nên chiếm ưu thế và
được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ ba: Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong
phương thức sản xuất, nó thường xuyên vận động và phát triển; nó quyết định
sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Từ những nội dung trên, có thể hiểu lực lượng sản xuất là toàn bộ các
nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan
hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong
quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật
chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố sau đây:
- Người lao động
Người lao động là yếu tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất.
V.I.Lênin đã từng viết: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là
người công nhân, là người lao động" [56, tr.430]. Con người là chủ thể tích
cực, sáng tạo và quyết định hoạt động tác động đến tự nhiên. Trong hoạt động

16


sản xuất, con người không tác động một cách đơn giản, chỉ bằng sức mạnh cơ
bắp của mình đến tự nhiên, mà con người với trí tuệ là chủ đạo, biết vận dụng
tri thức khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, kỹ xảo, v.v... còn biết tạo ra những
công cụ bổ trợ cho các khí quan của mình, và sử dụng những công cụ đó làm
cho tự nhiên thay đổi theo mục đích, yêu cầu có sẵn hình ảnh trong tư duy từ
trước đó. Do đó, trong lực lượng sản xuất, con người phải là một yếu tố đặc
biệt và được xem xét ở những mặt cơ bản như sức lao động, bao gồm cả sức
cơ bắp và sức thần kinh (trí tuệ) tham gia vào quá trình lao động. Sự tiến bộ
nhanh chóng của khoa học - công nghệ đã và đang đòi hỏi con người sử dụng
sức mạnh thần kinh - trí tuệ ngày một nhiều hơn. Sức mạnh thần kinh - trí tuệ

của con người là một loại nguồn lực đặc biệt. Để tiến hành lao động được, đòi
hỏi người lao động phải có một mức độ hiểu biết nhất định về thế giới xung
quanh, nhất là những hiểu biết về những khách thể mà mình sẽ trực tiếp tác
động đến nó. Nếu những hiểu biết đó càng sâu sắc, càng có tính khái quát cao
thì càng tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất phát triển, bởi vì nhờ đó quá
trình khai thác, tác động đến khách thể sẽ đơn giản nhất, đem lại hiệu quả cao
nhất và ít lãng phí nhất. Trên thực tế, trình độ hiểu biết (tri thức) của người
lao động đóng vai trò quyết định trong chất lượng của người lao động. Đương
nhiên là những hiểu biết - thế giới quan đó phải là đúng đắn và khoa học.
Người lao động còn có kỹ năng, kinh nghiệm lao động, dù là lao động đơn
giản đến đâu chăng nữa, thì người lao động trước hết phải học những thao tác,
rèn luyện những thao tác đó thành thục ở một mức độ nhất định; sau đó mới
có thể tiến hành hoạt động lao động được, lao động càng phức tạp thì quá
trình rèn luyện các thao tác đó càng đòi hỏi công phu và lâu dài hơn. Ngày
nay, công nghệ cao được ứng dụng vào các hoạt động sản xuất, các thao tác
của người lao động ngày càng giản đơn hơn, nhưng người lao động lại cần
được tăng cường tri thức về khoa học - công nghệ.
- Tư liệu sản xuất

17


Cùng với người lao động, tư liệu sản xuất là một trong những mặt cơ
bản của lực lượng sản xuất. Theo C.Mác, tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Ông viết: "Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức
là đứng về mặt sản phẩm mà xét toàn bộ quá trình, thì cả tư liệu lao động lẫn
đối tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất" [66, tr.271]. Trong
những yếu tố của tư liệu sản xuất, tư liệu lao động - được hiểu là những công
cụ lao động, đó là một trong những yếu tố thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con người, thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thông

qua nó, sức mạnh của con người trước tự nhiên được tăng lên nhiều lần.
C.Mác chỉ rõ: "Một vật do bản thân thiên nhiên cung cấp đã trở thành một khí
quan của sự hoạt động của con người, khí quan mà con người đem chắp thêm
vào những khí quan của cơ thể mình, và do đó mà kéo dài cái tầm thước tự
nhiên của cơ thể đó" [66, tr.268].
Rõ ràng, công cụ lao động là những vật thể hay những phức hợp vật thể
do con người và xã hội tạo ra để "đặt" giữa con người và đối tượng lao động.
Chúng có vai trò truyền dẫn sức lực và trí tuệ của con người đến đối tượng lao
động, cải biến những vật liệu tự nhiên thành những vật phẩm theo mục đích,
yêu cầu có trước của một quy trình sản xuất cụ thể nào đó. Tùy thuộc vào loại
công cụ và trình độ kỹ thuật của nó mà con người có thể bằng những bộ phận
khí quan nào của cơ thể mình để sử dụng nó. Đương nhiên, trong quá trình sử
dụng, con người điều khiển công cụ lao động phải có sự tham gia của trí tuệ,
của tư duy để đảm bảo cho những thao tác chính xác, phù hợp với công cụ lao
động và tác động đến đối tượng lao động theo một nhịp độ, một trình tự khách
quan. Có những công cụ lao động có kết cấu đơn giản như: công cụ thô sơ,
công cụ thủ công; có những công cụ phức tạp, tinh xảo như máy móc cơ khí,
máy móc bán tự động hoặc tự động, v.v... Trình độ phát triển của công cụ lao
động chỉ rõ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ tinh xảo của
công cụ lao động giúp chúng ta phân biệt được lực lượng sản xuất đó ở nền

18


văn minh nào, ở giai đoạn lịch sử nào. Nếu công cụ lao động càng tinh xảo,
nó càng truyền dẫn được nhiều sức lực của con người tác động đến đối tượng
lao động thì năng suất lao động càng cao. Vì thế có thể gọi công cụ lao động
là "hệ thống xương cốt" của nền sản xuất xã hội. Hiện nay, khoa học - công
nghệ đã đặc biệt quan tâm rất sâu và rất rộng vào các yếu tố cụ thể của công
cụ lao động, nên nhiều khi người ta đã sử dụng khái niệm công nghệ sản xuất

để thay thế cho khái niệm công cụ lao động. Nhưng trong thực tế khái niệm
công nghệ sản xuất còn chứa đựng nội dung rộng lớn hơn khái niệm công cụ
lao động, bởi khái niệm đó còn được hiểu bao gồm cả các quá trình tổ chức và
quản lý sản xuất.
Con người thường xuyên tìm cách làm giảm chi phí sức lao động của
mình nhưng lại muốn sản xuất ra ngày càng nhiều những vật phẩm cần thiết,
vì vậy, con người đã liên tục cải tiến những công cụ hiện tại đang được sử
dụng để nó ngày một tinh xảo và hiện đại, phù hợp với những thao tác, yêu
cầu mà con người đặt ra, đó là các quá trình thay đổi công nghệ sản xuất, làm
cho công cụ lao động trở nên yếu tố động nhất, cách mạng nhất, và xét đến
cùng mọi sự biến đổi của các yếu tố khác trong sản xuất và trong đời sống xã
hội đều chịu ảnh hưởng của sự thay đổi này của công cụ lao động.
Cùng với công cụ lao động, trong tư liệu sản xuất còn yếu tố đối tượng
lao động là một trong những nội dung của lực lượng sản xuất.
Trong lực lượng sản xuất, nếu yếu tố con người là chủ thể sáng
tạo, là yếu tố đặc biệt bởi con người có ý thức, và thông qua ý thức điều khiển
mọi hoạt động - là một đặc điểm khác về chất so với mọi yếu tố
khác, thì đối tượng lao động là khách thể, là mặt đối lập cũng là yếu tố có vai
trò quan trọng. Khi bàn về vai trò của đối tượng lao động, C.Mác nói: "Công
nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết nếu không có giới tự nhiên, nếu không
có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của anh ta

19


được thực hiện, trong đó lao động của anh ta được triển khai, từ đó và nhờ đó,
lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm" [69, tr.130].
Đối tượng lao động trước hết là những dạng vật chất có sẵn trong tự
nhiên, kể cả trên mặt và trong lòng đất, dưới đại dương và trong khí quyển
như đất đai, sông, biển, rừng núi, động thực vật, tài nguyên khoáng sản, v.v...

Tuy nhiên, không phải tất cả mọi dạng vật chất trong tự nhiên đều là đối
tượng lao động, chỉ có những dạng vật chất nào có khả năng tạo thành những
vật phẩm theo những mục đích, yêu cầu và đáp ứng được những nhu cầu nào
đó của con người, đã và đang được con người tác động, cải tạo, khai thác
chúng thì dạng vật chất tự nhiên đó mới là đối tượng của lao động xã hội.
Chẳng hạn, những loại vật liệu, khoáng sản như than đá, dầu mỏ, v.v... khi
con người chưa biết sử dụng nó để phục vụ đời sống và sản xuất, thì khi đó
bản thân các yếu tố đó chưa trở thành đối tượng lao động của xã hội loài
người. Trình độ khoa học - công nghệ càng cao, sản xuất - xã hội càng phát
triển, thì khả năng cải tạo tự nhiên của con người ngày càng cao, khi đó càng
nhiều những dạng vật chất trong tự nhiên trở thành đối tượng lao động hơn.
Đối tượng lao động rất phong phú, đa dạng và có nhiều cấp độ khác
nhau. Trong quá trình sản xuất, có những vật phẩm trong tự nhiên con người
chỉ việc khai thác mang về là có thể đáp ứng ngay được những nhu cầu nào
đó của mình, cũng có những loại vật phẩm lại phải qua nhiều lần cải tạo,
nhiều khâu trung gian, mới trở thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con
người. Khi nền sản xuất xã hội càng phát triển, khoa học - công nghệ càng
cao, thì loại đối tượng phải cải tạo nhiều lần càng được mở rộng, điều này là
do nhu cầu ngày càng cao của con người quy định.
Trong tư liệu sản xuất, ngoài các yếu tố công cụ lao động và đối tượng
lao động, còn cần phải có rất nhiều các điều kiện, phương tiện khác hỗ trợ cho
hoạt động sản xuất như đường sá, các phương tiện vận chuyển, bến bãi, nhà
kho, thông tin phối hợp sản xuất, v.v... Mặc dù những yếu tố này không trực

20


tiếp làm ra sản phẩm, nhưng có những ảnh hưởng lớn đến sản xuất, sản xuất
càng phát triển đòi hỏi những điều kiện và phương tiện phục vụ sản xuất càng
phải phát triển theo.

Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện nay, lực
lượng sản xuất không chỉ bao gồm đối tượng lao động, phương tiện và công
cụ lao động, con người lao động với những tập quán, thói quen, kỹ năng kinh
nghiệm và tri thức lao động của mình mà còn có cả yếu tố khoa học kỹ thuật
và công nghệ hiện đại.
Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là
ngành sản xuất riêng, vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. C.Mác đã dự đoán
khoa học sẽ trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trong tác phẩm Hệ tư
tưởng Đức, Mác và Ăngghen viết: "Những lực lượng sản xuất, nhất là những
phát minh, đã đạt được một địa phương có mất đi hay không đối với sự phát
triển sau này điều đó chỉ phụ thuộc vào sự mở rộng của giao tiếp thôi" [56,
tr.79]. C.Mác đã chỉ rõ điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất:
Những lực lượng tự nhiên như hơi nước, nước,… được áp dụng vào
quá trình sản xuất cũng không tốn kém gì cả. Nhưng con người cần có phổi để
thở, thì tư bản cũng cần có "một sản phẩm của bàn tay con người", để có thể
tiêu dùng một cách sản xuất những lực lượng của tự nhiên. Cần phải có một
cái xe nước để có thể lợi dụng được sức đẩy của nước, cần phải có một máy
hơi nước để có thể lợi dụng được tính đàn hồi của hơi nước. Đối với khoa học
thì cũng giống như đối với các lực lượng tự nhiên [66, tr.557].
Rồi Mác đưa ra dẫn chứng cụ thể: "Nhưng việc lợi dụng những quy
luật đó vào điện báo,... đòi hỏi phải có những máy móc rất nhiều tiền và cồng
kềnh" [66, tr.557].
Ngày nay những dự đoán thiên tài của C.Mác đã trở thành hiện thực.
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng đến

21


lượt nó lại có tác động mạnh mẽ đối với hoạt động sản xuất. Khoa học trong

thời đại ngày nay đã rút ngắn khoảng cách đến tối thiểu từ sáng chế, phát
minh đến ứng dụng vào sản xuất, đem lại hiệu quả nhanh. Sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học nó đã tác động to lớn đến mọi lĩnh vực sản xuất, tạo điều
kiện cho những nước chậm phát triển có thể đi tắt đón đầu, "bứt phá" trong
ứng dụng những thành quả của khoa học công nghệ vào sản xuất.
Khoa học chỉ thể hiện được vai trò to lớn của mình khi nó thâm nhập
vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, thẩm thấu vào cả những yếu tố
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nâng trình độ người lao động, cải
tiến công cụ lao động, cải tạo đối tượng lao động, phương tiện sản xuất… Nó
thâm nhập vào tư duy lãnh đạo quản lý, điều hành sản xuất và các lĩnh vực
khác trong đời sống xã hội để tạo ra sự thay đổi to lớn về kinh tế xã hội từ đó
tìm ra những xu hướng vận động của nền kinh tế để đưa ra những chính sách
phát triển kinh tế - xã hội phù hợp.
Khoa học không chỉ tạo ra những hàng hóa thông thường mà còn tạo ra
một loại hàng hóa đặc biệt, hàng hóa chất xám phi vật thể. Với cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, tri thức trở thành yếu tố không thể thiếu
được của lao động sản xuất, lao động trí tuệ đang dần trở thành lao động chủ
yếu. Lao động cơ bắp mặc dù không bị mất đi nhưng dần dần được thay thế
bằng lao động trí tuệ của nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức đang và sẽ
là một nền kinh tế tiết kiệm tài nguyên nhưng vẫn tạo ra một khối lượng của
cải đồ sộ. Điều này khẳng định trí tuệ của con người đang là nguồn lực to lớn
của sản xuất vật chất và hoạt động xã hội. Cho nên con người chính là yếu tố
hàng đầu, chủ yếu của lực lượng sản xuất. Có thể thấy khoa học công nghệ
hiện đại đã quyết định đến sự phát triển sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, nhưng nó không phải là yếu tố quyết định nhất trong lực lượng sản
xuất. Công nghệ tiên tiến và hiện đại chỉ làm tăng thêm khả năng chinh phục
tự nhiên của con người, giúp con người ngày càng tạo ra nhiều của cải vật

22



chất, khám phá những hiện tượng, khả năng mới của con người chứ không
thay thế được hoàn toàn hoạt động sản xuất của con người. Khoa học kỹ thuật
hiện đại chỉ thay thế cho con người những hoạt động nặng nhọc, phức tạp
giúp con người có điều kiện để phát triển trí tuệ, học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, các yếu tố của lực lượng
sản xuất không tách rời nhau mà chúng có quan hệ qua lại tác động hỗ trợ
nhau để cùng tồn tại và phát triển. Với ý nghĩa đó, lực lượng sản xuất trở
thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất.
1.1.2. Phát triển lực lượng sản xuất, yếu tố quyết định cho sự phát
triển của xã hội
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự yêu cầu trình độ của lực
lượng sản xuất phải có mối quan hệ với tính chất của lực lượng sản xuất, nó
biểu hiện trạng thái tiến hành hoặc động thái phát triển của lực lượng sản
xuất.
Như đã biết, lực lượng sản xuất được cấu thành từ các yếu tố, như
người lao động, tư liệu sản xuất và một số điều kiện, phương tiện phục vụ sản
xuất khác. Ngoài ra trong điều kiện hiện nay, lực lượng sản xuất còn có một
yếu tố đặc biệt, đó là khoa học - công nghệ. Như vậy thực chất của quá trình
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển chính là quá trình tác động trực tiếp đến
các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; đồng thời phải tạo mọi điều kiện từ
vật chất đến tinh thần để các yếu tố đó phát triển một cách hợp lý.
Xu hướng phát triển của sản xuất xã hội là biến đổi và phát triển không
ngừng. Sự phát triển đó bao giờ cũng được bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển
của lực lượng sản xuất, mà trước hết là công cụ lao động. Đây là yếu tố có tác
dụng và quyết định đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất. Cho nên lực
lượng sản xuất là yếu tố động hơn và cách mạng hơn cả của sản xuất vật chất.
Trong khi đó quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định, sự ổn định được duy trì
trong khi lực lượng sản xuất luôn vận động biến đổi phát triển đã hình thành


23


mâu thuẫn cơ bản của một phương thức sản xuất (mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất). Mâu thuẫn càng phát triển thì quan hệ sản xuất
càng trở thành xiềng xích, trói buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sản
xuất đòi hỏi phải thay quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời (là xiềng xích trói buộc)
bằng một quan hệ sản xuất mới thích ứng với trình độ phát triển mới của lực
lượng sản xuất. Quá trình đó chính là sự thay thế một phương thức sản xuất
cũ lỗi thời bằng một phương thức sản xuất mới cao hơn. C.Mác viết:
Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất
vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có… trong đó
từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách
mạng xã hội [63, tr.15].
Lực lượng sản xuất phát triển làm thay đổi quan hệ sản xuất. Quan hệ
sản xuất thay đổi cho phù hợp lực lượng sản xuất làm thay đổi cả phương thức
sản xuất. Phương thức sản xuất thay đổi làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng thay đổi phù hợp với cơ sở hạ tầng làm thay đổi cả hình
thái kinh tế xã hội - làm thay đổi toàn bộ xã hội cả vật chất lẫn tinh thần.
Ngày nay sự phát triển lực lượng sản xuất là nguyên nhân sâu xa của
toàn cầu hóa, đưa lại sự tăng trưởng ngày càng cao cho nền kinh tế thế giới.
Hiện nay dưới tác động của toàn cầu hóa, khu vực hóa, lực lượng sản xuất phát
triển càng nhanh chóng, thúc đẩy nhanh quá trình cải tạo và phát triển xã hội.
Thực tế đã chứng minh từ khi nhìn nhận lại một cách đúng đắn mối
quan hệ giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
chúng ta phát triển lực lượng sản xuất nhưng đồng thời tiến hành xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp thì nền kinh tế Việt Nam có những bước tăng
trưởng vượt bậc.


24


1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những yêu cầu cụ thể về lực
lƣợng sản xuất
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những biểu hiện của nó
Công nghiệp hóa là quy luật tất yếu trong sự phát triển của các dân tộc
từ xã hội nông nghiệp lạc hậu sang xã hội công nghiệp văn minh. Công
nghiệp hóa đã diễn ra trên thế giới từ những năm cuối thế kỷ XVIII và hiện
nay vẫn đang tiếp diễn với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng nhanh,
trình độ ngày càng cao và công nghiệp hóa đã gắn với hiện đại hóa. Trong
điều kiện cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra như vũ bão, thì
công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là phương thức cơ bản, con đường tất
yếu để cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội văn minh.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình tạo ra những biến đổi về chất trong
toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội, trước hết là hoạt động sản xuất vật
chất. Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1994) đã
thông qua đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta đã đưa
ra định nghĩa về công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiến tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao [23, tr.42].
Định nghĩa trên phản ánh được phạm vi rộng lớn của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn được công nghiệp hóa với hiện đại hóa, xác
định được vai trò của công nghiệp và khoa học - công nghệ. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa không phải là hai nội dung tách biệt, không phải đơn thuần là

tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội gắn liền với đổi mới căn bản về

25


×