Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.87 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



ĐẶNG THỊ HỒNG HẠNH

QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

-

ĐẶNG THỊ HỒNG HẠNH

QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:



60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ LAN

HÀ NỘI - 2012

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Lê
Thị Lan.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012.

Tác giả luận văn

Đặng Thị Hồng Hạnh

3



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1.QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH ..................................... 9
1.1.

Quá trình hình thành và phát triển quan niệm của Nho giáo về
gia đình ............................................................................................ 10
1.1.1. Quan niệm của Nho giáo Tiên Tần về gia đình (Thế kỷ VI trước
Công nguyên - Thế kỷ III trước Công nguyên) ............................... 10
1.1.2. Sự phát triển của quan niệm Nho giáo về gia đình ......................... 14

1.2.

Những nội dung cơ bản của Nho giáo về gia đình ......................... 20
1.2.1. Tôn ti trật tự trong gia đình ............................................................. 20
1.2.2. Gia đạo và các chuẩn mực đạo đức ................................................. 23

Chương 2. Ý NGHĨA CỦA QUAN NIỆM NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY ....................... 38
2.1.

Ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với gia đình truyền
thống Việt Nam ............................................................................... 38
2.1.1. Ảnh hưởng tích cực ......................................................................... 38
2.1.2. Những mặt hạn chế ......................................................................... 46

2.2.


Phát huy các giá trị của Nho giáo về gia đình trong gia đình Việt
Nam hiện nay .................................................................................. 50
2.2.1. Thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay ........................................... 50
2.2.2. Phát huy mặt tích cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối
với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay ............................... 73

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 91

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức được giai cấp phong
kiến Trung Quốc lấy làm hệ tư tưởng thống trị. Khi du nhập vào Việt Nam,
Nho giáo cũng được giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng làm hệ tư tưởng
thống trị và có ảnh hưởng to lớn, lâu dài đến mọi mặt đời sống của dân tộc ta.
Trong đó, quan niệm và khuôn mẫu của Nho giáo về gia đình với những yêu
cầu chặt chẽ về đạo đức thực sự có tác dụng xây dựng và giữ gìn nền nếp của
các gia đình, dòng họ, góp phần ổn định trật tự xã hội và định hướng lý tưởng
cho hành động của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, trong gần một thế kỷ trở lại đây, sự thâm nhập của chủ nghĩa
đế quốc và của nền văn minh công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến gia đình
truyền thống, làm thay đổi sâu sắc nhận thức và thái độ ứng xử của mỗi con
người về gia đình. Những nhà cách tân Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam bắt
đầu lên án những điều không hợp lý, thiếu nhân đạo trong các quan hệ gia đình
kiểu Nho giáo. Ở Trung Quốc, Đàm Tự Đồng, Khang Hữu Vi đã từng nhiều
lần lên án sự bất bình đẳng trong đạo lý “luân thường” của Nho giáo. Lỗ Tấn là
người lên tiếng mạnh nhất đối với cái đạo lý trong gia đình Nho giáo. Ông coi

chủ trương “vô cải” của Nho giáo (3 năm không thay đổi đạo cha) là “căn bệnh
làm cho con cái thụt lùi”. Ở Việt Nam, sau khi Pháp xoá bỏ chế độ khoa cử
Nho học năm 1919, đặc biệt là từ sau Cách mạng tháng Tám, Nho giáo đã bị
đánh đổ cùng với cơ sở chính trị - xã hội của xã hội cũ, thì quan niệm về gia
đình theo Nho giáo không còn điều kiện thuận lợi để tồn tại trước sức tiến công
của chế độ mới và quan niệm mới xã hội chủ nghĩa về gia đình.
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Việc đổi mới, mở cửa và giao lưu kinh tế, văn hoá với thế giới
đã tạo cho Việt Nam đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh tế,

5


xã hội. Điều đó đang thúc đẩy Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ từ truyền
thống sang hiện đại, trong đó có lĩnh vực gia đình. Những chuẩn mực của gia
đình truyền thống đã bị mai một và phần nào không còn phù hợp với xã hội
hiện đại. Sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường tới gia đình đã làm cho
lối sống, nếp sống, các mối quan hệ trong gia đình và đặc biệt là suy nghĩ của
từng cá nhân thay đổi theo nhiều hướng khác nhau. Những nét đẹp mới của
gia đình hiện đại như vai trò bình đẳng, tính chủ động, tích cực của các thành
viên trong gia đình, chức năng gia đình được xã hội hoá và nâng cao góp phần
tích cực vào sự phát triển của xã hội… Nhưng bên cạnh đó, nhiều hiện tượng
nhức nhối về đạo đức, văn hoá gia đình đã xuất hiện như: cha mẹ vô trách
nhiệm, đối xử tàn ác với con cái, con cái ngược đãi ông bà, cha mẹ, anh em
bất hoà, vợ chồng mâu thuẫn… khiến các giá trị gia đình bị xâm phạm nặng
nề, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như toàn
xã hội. Trước nguy cơ các nét đẹp về trật tự và đạo đức của gia đình truyền
thống bị mất mát bởi các tác động của cuộc sống hiện đại, khuynh hướng nuối
tiếc các tập quán gia đình tốt đẹp mà Nho giáo đã tạo dựng, hy vọng phục hồi
trở lại các trật tự gia đình cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ…

cũng trở nên ngày một mạnh mẽ.
Trước thực trạng trên, nhiều vấn đề bức thiết về gia đình đang được đặt
ra như: “Gia đình Việt Nam sẽ biến đổi ra sao và có vai trò như thế nào trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước?”; “Những gì đã và đang diễn
ra đối với các nước phương Tây có phải là hình ảnh tương lai của gia đình
Việt Nam hay không?”; “Làm thế nào để có sự đánh giá đúng đắn học thuyết
Nho giáo về vấn đề gia đình?”… Nhiều nghiên cứu gần đây đã khẳng định
đạo đức gia đình Nho giáo vẫn còn nhiều điều hữu ích mà ta đã vội lãng quên
hoặc bỏ đi rất cần được nuôi dưỡng trở lại để giáo dưỡng trẻ thơ, tạo dựng gia
đình nề nếp, góp phần làm lành mạnh xã hội.

6


Như vậy, một hiện thực là cho đến nay, chúng ta chưa có sự thống nhất
trong việc đánh giá học thuyết Nho giáo về vấn đề gia đình. Đã có nhiều cuộc
hội thảo, nhiều đề tài nghiên cứu về Nho giáo, về gia đình ở những khía cạnh
khác nhau một cách chuyên sâu nhưng đời sống hiện thực đòi hỏi chúng ta
phải đánh giá một cách toàn diện và khoa học quan niệm của Nho giáo về gia
đình và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Trên
cơ sở đó, chúng tôi chọn đề tài: “Quan niệm của Nho giáo về gia đình và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay” nhằm làm
sáng tỏ vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Quan niệm về gia đình là một bộ phận của học thuyết Nho giáo vì vậy
các công trình nghiên cứu về Nho giáo đều ít nhiều bàn đến vấn đề này. Tuy
nhiên có nhiều cách nhìn nhận khác nhau, có thể khái quát thành 2 khuynh
hướng chính sau:
Khuynh hướng thứ nhất: Phủ nhận giá trị của học thuyết Nho giáo nói
chung với xã hội mới, trong đó có quan niệm về gia đình. Khuynh hướng này

là phổ biến trước thời kỳ đổi mới
Khuynh hướng thứ hai: Cho rằng Nho giáo có những mặt tích cực và
hạn chế nên cần thiết phải phê phán, lọc bỏ những hạn chế và kế thừa phát
huy những hạt nhân hợp lý trong quá trình xây dựng xã hội mới. Khuynh
hướng này đã xuất hiện từ lâu nhưng chỉ trở nên phổ biến từ khi nước ta bước
vào thời kỳ đổi mới. Điều này được thể hiện khá rõ trong: “Nho giáo ở Việt
Nam” (GS. Vũ Khiêu), “Nho giáo xưa và nay” (Quang Đạm), “Đến hiện đại
từ truyền thống” (GS. Trần Đình Hượu),… và một số bài viết trên các tạp chí.
Như vậy, nghiên cứu về Nho giáo và gia đình không phải là lĩnh vực
mới, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Về Nho giáo:
- Công trình “Chu dịch quốc âm dẫn giải” và “Khổng học đăng” là
những tác phẩm bàn về Nho giáo của Phan Bội Châu, một đại diện lớn nhất

7


cho thế hệ các nhà Nho yêu nước đầu thế kỷ XX. Ở những tác phẩm này Phan
Bội Châu đã đứng ở vị trí một nhà Nho có tư tưởng tiến bộ mà giải thích
những kinh điển chủ yếu của Nho giáo. Phan Bội Châu đã sớm nhận ra nhiều
điểm hạn chế của đạo hiếu trong Nho giáo đã trói buộc bao thế hệ các thanh
niên trong việc thực hiện “trung quân, ái quốc” . Đặc biệt, trong “Khổng học
đăng” ông đã giải thích rõ động cơ, mục đích và cả phương pháp học tập đạo
thánh hiền hướng theo tinh thần trung quân, ái quốc, giải phóng con người
khỏi những suy nghĩ và khuôn khổ hạn hẹp của đạo hiếu.
- “Nho giáo” của Trần Trọng Kim là một tác phẩm khá đồ sộ, về nội
dung của tác phẩm này như chính tác giả đã nói “tựa cái bản đồ vẽ cái nền
Nho giáo cũ, thì dẫu hay dở thế nào mặc lòng, cốt nhất là phải vẽ cho đúng”
[42, tr.10], đặc biệt tác giả còn khẳng định cách học Nho giáo là phải hiểu cái
tinh thần và nghĩa lý của Nho giáo, phải theo thời mà biến đổi cho hợp thời có thể thấy phương pháp tiếp cận này là có cơ sở hợp lý.

- “Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam” của GS. Phan Đại Doãn - Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Hà Nội (1999) đề cập đến một số vấn đề, trong
đó GS phân tích ảnh hưởng của Nho giáo đối với gia đình truyền thống Việt
Nam tương đối sâu sắc
- “Nho giáo Trung Quốc” của Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn
hoá thông tin (2005) cho chúng ta cái nhìn toàn diện về sự ra đời và phát triển
của Nho giáo qua các triều đại phong kiến Trung Quốc và khái quát diện mạo
Nho giáo ở Việt Nam
- “Nho giáo và gia đình” - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - Hà Nội
(1995) của GS Vũ Khiêu phân tích các tư liệu Nho giáo bàn về gia đình một
cách khá toàn diện.
Ngoài ra còn phải kể đến một số tác phẩm tiêu biểu khác như:
- “Đạo Nho và văn hoá Phương Đông” - Nhà xuất bản Giáo dục (2002)
của Hà Thúc Minh.

8


- “Sự tái sinh của truyền thống: Cách tiếp cận mới về Nho giáo” - Thẩm
Thanh Tùng (Nguyễn Tài Thư dịch) - Nhà xuất bản Phương Đông - Cà Mau
(2005).
- “Nho giáo xưa và nay” - Nhà xuất bản Văn hoá - Hà Nội (1994) của
tác giả Quang Đạm.
- “Nho giáo và phát triển ở Việt Nam” - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội
- Hà Nội (1997) - Vũ Khiêu.
- “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS Trần Đình Hượu - Nhà xuất
bản Văn hoá - Hà Nội (1995).
Về gia đình, tiêu biểu là đề tài: “Vai trò của gia đình trong sự hình
thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam” (Mã số KX 07-09) thuộc
chương trình Khoa học Công nghệ Nhà nước: “Con người Việt Nam: mục

tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội (Mã số KX 07) do GS Lê Thi làm
chủ nhiệm đề tài.
- “Gia đình Việt Nam thời mở cửa” - Nguyễn Thị Oanh - Nhà xuất bản
Trẻ (1998).
- Hội thảo khoa học: “Gia đình Việt Nam, các nguồn lực, các trách
nhiệm trong sự đổi mới của đất nước và vấn đề xây dựng con người do Trung
tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ nữ tổ chức tháng 4 năm 1995.
Bên cạnh đó, nhiều luận án tiến sỹ cũng bàn về Nho giáo và gia đình ở
những khía cạnh khác nhau, tiêu biểu là:
- “Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý
nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay” - Luận án Tiến sỹ Triết học:
5.01.01/Nguyễn Văn Bình - H, 2001 (Thư viện quốc gia).
- “Quan niệm Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa của nó với
việc giáo dục con người ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa - Luận án Tiến sỹ Triết học: 5.01.02/Nguyễn Thị Nga - H, 1999 (Thư
viện quốc gia).

9


- “Quan niệm Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con
người” - Luận án Tiến sỹ Triết học: 62.22.80.01/Nguyễn Thị Tuyết Mai - H,
2005 (Thư viện quốc gia).
- “Sự biến đổi chức năng xã hội hoá của gia đình Việt Nam từ truyền
thống đến hiện đại” - Luận án Phó tiến sỹ khoa học kinh tế: 5.01.09/Lê Ngọc
Văn (Thư viện quốc gia).
- “Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ hiện nay” - Luận án Tiến
sỹ Triết học: 5.01.03/Dương Thị Minh - H, 2003 (Thư viện quốc gia).
Ngoài ra, các tạp chí: Lý luận chính trị, Nghiên cứu lý luận, Triết học,
Hán Nôm, Xưa và nay, Đông Nam Á… cũng có nhiều bài viết phản ánh

những khía cạnh khác nhau về Nho giáo, gia đình và ảnh hưởng của quan
niệm Nho giáo đối với gia đình Việt Nam hiện nay, tiêu biểu là:
- Nguyễn Đình Chú “Hiện nay với Nho giáo” - Tạp chí Hán Nôm số
1/2005.
- Minh Anh “Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình
mới ở Việt Nam hiện nay” - Tạp chí Triết học Số 10/2005.
- Minh Anh “Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo” - Tạp chí
Triết học Số 8/2004.
- Phan Đại Doãn “Nho giáo Việt Nam” - Tạp chí Xưa và nay Số 229230/2005.
- Chương Thâu “Về việc nghiên cứu và ứng dụng Nho giáo, Đạo giáo ở
Trung Quốc hiện nay” - Tạp chí Triết học Số 5/2006.
- Tử Hoàn “Nho giáo với gia đình Việt Nam truyền thống” - Tạp chí
Đông Nam Á Số 12/2004.
- Lê Văn Quán “Bước đầu tìm hiểu luân lý đạo đức trong truyền thống
văn hoá Nho giáo” - Tạp chí Hán Nôm Số 2/2004.
- Lã Minh Hằng “Bàn về công, dung, ngôn, hạnh trong các sách gia
huấn nôm” - Tạp chí Hán Nôm/2007.

10


Tuy nhiên, theo sự tìm hiểu của chúng tôi có thể nói rằng cho đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có tính hệ thống quan niệm
của Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay. Những thành tựu nghiên cứu và những gợi ý của các tác
giả nói trên là những tài liệu tham khảo để tôi viết luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn nhằm trình bày một quan niệm đầy đủ của Nho giáo về gia
đình và nêu lên ý nghĩa của quan niệm đó đối với việc xây dựng gia đình Việt

Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Một là: Tìm hiểu một cách có hệ thống quan niệm Nho giáo về gia
đình. Phân tích nội dung của quan niệm đó để thấy được những giá trị và hạn
chế của nó.
Hai là, phân tích và đánh giá những ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo
đối với gia đình truyền thống Việt Nam trong lịch sử. Từ đó chỉ ra được ý
nghĩa của việc phát huy tính tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của quan niệm
Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về gia đình, ảnh hưởng
và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Vì vậy
đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung tư tưởng của Nho giáo
bàn về gia đình và những quy tắc trong quan hệ gia đình, những quan niệm cơ
bản về gia đình của xã hội phong kiến, những quan điểm của Nhà nước ta về
gia đình thông qua các văn kiện của Đảng. Ngoài những tư liệu chính yếu đó,
các quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề trên
cũng là đối tượng tham khảo của luận văn.

11


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước là kim chỉ nam cho việc phân tích, đánh giá những quan niệm của Nho
giáo về gia đình và mức độ ảnh hưởng của nó.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, theo quan

điểm lịch sử - cụ thể của khoa học lịch sử triết học để nghiên cứu. Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: hệ thống, phân tích, so
sánh, tổng hợp… nhằm tái hiện lại một cách chân thực và đánh giá khách
quan những quan niệm của Nho giáo về gia đình.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào việc hệ thống hóa quan niệm của Nho giáo về
gia đình, chỉ ra ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với gia đình Việt Nam hiện
nay. Từ đó, luận văn góp phần vào việc xây dựng một quan niệm đúng đắn về
gia đình và làm lành mạnh hoá các quan hệ trong gia đình theo yêu cầu đạo
đức mới trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc kế thừa,
phát huy những giá trị tích cực của Nho giáo về gia đình trong quá trình xây
dựng gia đình văn hoá hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập môn Lịch sử triết học Phương Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1. Quan niệm của Nho giáo về gia đình.
Chương 2. Ý nghĩa của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc
xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.

12


Chương 1
QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH
Thời kỳ lịch sử Cổ - Trung đại, Trung Quốc là một trong những trung
tâm văn minh lớn của thế giới. Giai đoạn này, Trung Quốc có nhiều phát
minh vĩ đại như phát minh ra chữ viết, giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn

học… Cùng với Ấn Độ và các dân tộc phương Đông khác, Trung Quốc còn là
quê hương của nhiều trường phái triết học lớn, là chiếc nôi của nhiều nhà tư
tưởng. Trong lịch sử cũng như hiện tại việc đánh giá vai trò của triết học, tôn
giáo Trung Quốc đối với sự phát triển của các nước chịu ảnh hưởng Hán hóa
vẫn được nhiều người quan tâm bàn luận. Trong đó, Nho giáo là một học
thuyết chính trị - đạo đức ra đời trong thời Xuân Thu - Chiến quốc, là giai
đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội Trung Hoa cổ đại trong quá trình
chuyển biến sang xã hội phong kiến, kéo dài từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ
III trước Công nguyên. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả thời kỳ này là thời
đại “vương đạo suy vi”, “bá đạo” cường thịnh lấn át “vương đạo”, chế độ
tông pháp của nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi “vua không phải
đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo
con” [72, tr.28]. Trong bối cảnh xã hội như vậy, các nhà tư tưởng có tâm
huyết đua nhau tìm kiếm nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm ổn định
trật tự xã hội. Đây là thời kỳ tư tưởng triết học Trung Quốc phát triển nở rộ,
nhiều triết thuyết xuất hiện như: Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, Mặc gia,…
Người ta gọi đó là thời kỳ “bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” (trăm
hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Trong số đó, Nho giáo là một trong những
học thuyết có sức sống lâu dài nhất và Khổng Tử (551-479 TCN) là người có
công sáng lập trên cơ sở tổng kết lịch sử và nâng thành một học thuyết có hệ
thống. Các triều đại phong kiến Trung Quốc xem Khổng Tử là người thầy của
muôn đời “vạn thế sư biểu”. Khổng Tử cho rằng: xã hội loạn lạc là bởi con

13


người “vô đạo”, cần đưa con người trở về “hữu đạo” bằng con đường giáo
hóa. Nghĩa là muốn con người trở nên hữu đạo cần phải dạy bảo, khuyên răn
ấy gọi là giáo. “Đạo” nhờ có “giáo” mới vững vàng, sâu sắc, rộng khắp. Nho
giáo coi gia đình là cơ sở của xã hội nên nơi đầu tiên tiến hành giáo hóa đó là

gia đình. Nho giáo còn nhấn mạnh việc “trị quốc”, “bình thiên hạ” phải bắt
đầu từ “tu thân”, “tề gia” - đó là những tư tưởng cơ bản của Nho giáo để giáo
hóa con người, đều lấy điểm khởi đầu là gia đình để góp phần ổn định trật tự
xã hội. Mỗi thời điểm lịch sử đều có những quan điểm khác nhau nhưng về cơ
bản các nhà Nho đời sau tiếp tục bổ sung và phát triển quan điểm của Khổng
Tử về vấn đề này.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển quan niệm của Nho giáo về
gia đình
1.1.1. Quan niệm của Nho giáo Tiên Tần về gia đình (Thế kỷ VI
trước Công nguyên - Thế kỷ III trước Công nguyên)
Sự hình thành và phát triển của Nho giáo thời Tiên Tần gắn liền với tên
tuổi của người sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 Tr.CN) và hai nhà tư tưởng
lớn là Mạnh Tử (371 - 289 Tr.CN) và Tuân Tử (298 - 238 Tr.CN). Thời đại
Khổng Tử là thời đại suy tàn của chế độ nô lệ và chế độ sơ kỳ phong kiến
đang lên, mệnh lệnh “Thiên tử” nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự lễ
nghĩa, cương thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy đồi. Nạn chư hầu chiếm
ngôi “Thiên tử”, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, cha giết con, anh hại
em, vợ lìa chồng thường xuyên xảy ra… Để lập lại trật tự xã hội, các nhà Nho
chủ trương dùng “đức trị”. Có thể nói, “Nhân” là quan niệm tiêu biểu trong tư
tưởng Khổng - Mạnh, trong đó “Hiếu đễ” là gốc của Nhân. Hai chữ “Hiếu”,
“Đễ” là biểu hiện của mối quan hệ cha con, anh em trong gia đình.
Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng
nhiều nội dung thâm thúy, ý nghĩa sâu xa có nhiều ảnh hưởng đến những phạm
trù khác về đạo đức và cuộc sống con người. Coi gia đình là cơ sở của xã hội,

14


Nho giáo nêu cao nguyên lý thiên hạ quốc gia và dẫn giải rằng: gốc của thiên
hạ là nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà là bản thân (Thiên hạ chi bản tại

quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân) [14, tr.13]. Chính vì thế, muốn
trị nước trước hết phải yên nhà (Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia) [15, tr.21].
Bậc quân tử trước hết phải làm cho nhà mình tề chỉnh thì dân chúng mới làm
theo, do đó mà tề chỉnh được mọi nhà dân, trị yên được cả nước. “Một nhà
nhân hậu thì cả nước dấy lên nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước dấy lên
lễ nhượng” (Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân; nhất gia nhượng, nhất quốc
hưng nhượng) [15, tr.20]. Đạo Khổng xem gia đình là một trong ba khâu không
thể thiếu của hoạt động con người: Tu thân, tề gia, trị quốc.
Nho giáo xây dựng nên những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình.
“Cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế
là gia đạo chính”. Trong ba mối quan hệ (cha con, chồng vợ, anh em) làm nên
cái gọi là “gia đạo chính” ấy, thì quan hệ cha con, anh em tiêu biểu bằng chữ
Hiếu và chữ Đễ, đã được Nho giáo tôn lên rất cao, đặt vào một vị trí đặc biệt
quan trọng, trở thành cốt lõi của các quan hệ trong toàn xã hội.
Nho giáo rất chú trọng yếu tố giáo dục gia đình, coi giáo dục gia đình là
toàn bộ giáo dục xã hội. Khổng Tử quan niệm, đạo đức gắn liền với chính trị,
chính trị chẳng qua là sự mở rộng của đạo đức. Trong học thuyết của ông, đạo
đức gắn liền với chính trị, quan hệ chặt chẽ với chính trị, bởi vì nó dựa trên cơ
sở huyết thống, lấy huyết thống để xác định liều lượng đậm nhạt của nhân ái.
Cho nên, quan hệ huyết thống trong gia đình là cơ sở học thuyết nói về người
quân tử chú tâm vào gốc rễ, gốc rễ có vững thì đạo mới phát sinh được và
Hiếu Đễ chính là gốc rễ của Nhân, là hạt nhân của nội dung giáo dục đạo đức.
Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong việc xây dựng những quan hệ chặt
chẽ trong gia đình và phát triển chúng thành những quan hệ trong toàn xã hội,
trong việc xây dựng những tình cảm và đức tính tốt trong gia đình, từ đó vun
đắp chúng trở thành những tình cảm và đức tốt trong đạo thờ vua, trị nước.

15



Nho giáo nói không che đậy về chủ đích chính trị của việc xây dựng đạo đức
gia đình: “Hiếu là để phụng sự nhà vua đấy, Đễ là để phụng sự bề trên đấy,
Từ là để sai khiến dân chúng đấy” (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ giả sở dĩ sự
trưởng giã, Từ giả sở dĩ sử chúng giã) [15, tr.20]. Nho giáo vì thế rất coi trọng
việc giáo dục trong gia đình. Đó là trường học đầu tiên để giáo dục con người
đi vào xã hội. “Thân yêu cha mẹ mình, vì đó mà cư xử có nhân với người đời”
(Thân thân, nhi, nhân dân) [14, tr.252].
Cũng từ quan điểm huyết thống, Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ
giữa những thành viên trong cùng một gia đình, một dòng họ. Nho giáo kêu
gọi họ yêu thương đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn danh dự và
phát huy truyền thống của gia đình, của dòng họ. Những nghi thức ứng xử
hàng ngày, những lời răn dạy của cha ông với những gia huấn, gia ngữ được
lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông bà cha mẹ trong nhà gắn
với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà thờ, sửa sang mồ mả,
sưu tầm ghi chép gia phả... đều góp phần làm khắng khít thêm các mối quan
hệ trong gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người được
nảy sinh từ đó.
Gia đình trở thành hòn đá tảng của lâu đài phong kiến. Từ đạo đức
trong gia đình đến chính trị ngoài xã hội đều có liên quan đến nhau. Cũng vì
vậy, muốn đánh giá được phẩm chất của một người ở ngoài xã hội, muốn xem
có nên cân nhắc và sử dụng họ không, trước tiên người ta phải xem tư cách,
thái độ của người ấy trong gia đình ra sao. Có đối xử tốt trong gia đình, mới
có thể đối xử tốt ngoài xã hội. “Bậc quân tử có ăn ở hợp lý ở trong nhà, mới
có thể dạy người trong nước” (Nghi kỳ gia nhân, nhi hậu khả dĩ giáo quốc
nhân) [15, tr.20], và “đã là người hiếu đễ mà lại thích phạm thượng điều đó có
ít thôi. Đã không thích phạm thượng mà lại thích làm loạn thì điều đó chưa có
bao giờ” (Kỳ vi nhơn giã, hiếu đễ, nhi háo phạm thượng giả, tiển hỹ. Bất háo
phạm thượng, nhi háo tác loạn giả, vi chi hữu giã) [12, tr.4]. Từ đó, Nho giáo

16



khẳng định rằng sự giáo dục từ trong gia đình có tác động mạnh mẽ, thậm chí
quyết định sự thành công trong việc trị nước. “Đem những điều ấy ra mà thi
thố trong thiên hạ thì không có điều gì mà không làm được” (Thố chư thiên hạ
vô sở bất hành) (lễ ký).
Có thể nói, toàn bộ giáo dục gia đình theo Nho giáo nhằm tạo nên “phụ
phụ tử tử, huynh huynh đệ đệ” (cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em).
Trong mối quan hệ cha con, anh em ấy thì “phụ từ tử hiếu, huynh lương đệ
đễ” (cha nhân từ, con có hiếu, anh rộng lượng, em kính trọng). Như vậy,
Khổng Tử và các nhà Nho thời Tiên Tần đã đề ra nghĩa vụ, bổn phận đạo đức
từ hai phía, có đi có lại. Tư tưởng ấy càng được Nho giáo suy tôn và củng cố
bền vững bằng những thuyết giáo về mặt tình cảm, huyết thống và bằng sự
nối liền hai chữ Hiếu - Trung. Qúy Khương Tử hỏi: “Muốn cho dân cung kính
mình, trung thành với mình và khuyên nhau làm lành, nhà cầm quyền phải
làm thế nào?”. Khổng Tử trả lời: “Nhà cầm quyền khi đến với dân, nên giữ
cốt cách cho nghiêm trang, thì dân cung kính. Đối với cha mẹ nên hiếu thuận;
đối với con em và mọi người, nên từ ái; thì dân sẽ trung thành với mình”
(Lâm chi dĩ trang, tắc kính; hiếu từ, tắc trung) [12, tr.24]. Chu Hy giải thích
“Hiếu từ tắc Trung”, có nghĩa là hiếu với cha mẹ, nhân từ với dân thì được
dân trung thành với mình. Như vậy, ở đây Trung cũng là hệ quả của việc lãnh
tụ chính trị có hiếu với cha mẹ, nhân từ với dân chúng, không liên quan gì đến
quan niệm Trung quân, phục tùng vô điều kiện như người đời sau nói tới. Tác
dụng của giáo dục gia đình theo Nho giáo là nhằm tạo ra con người có nhân
trong gia đình, từ đó có nhân với người khác. Thậm chí, chỉ cần mọi người
thực sự yêu thương cha mẹ bà con mình, thì tự nhiên thiên hạ sẽ được thái
bình: “Nhơn nhơn thân kỳ thân, trưởng kỳ trưởng, nhi thiên hạ bình” [14,
tr.22]. Theo Nho giáo, giáo dục gia đình là nhằm tạo ra nhà nhà hòa mục, cả
nước dấy lên hòa mục, gia đình hòa thuận là cái gốc góp vào mối quan hệ
xóm làng đất nước hòa thuận. Do vậy, muốn xây dựng một xã hội hòa mục


17


thân ái, ổn định trật tự xã hội, cần phải có một chính quyền thống nhất quy về
đầu mối duy nhất là thiên tử, khắp nơi có trật tự, thế giới hòa mục trong gia
đình. Gia đình là đơn vị kết cấu cơ bản nhất của xã hội, sự ổn định của gia
đình có tác dụng trong việc củng cố xã hội. Nho giáo khẳng định rằng, sự giáo
dục từ trong gia đình có tác động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành
công trong trị nước.
Tóm lại, Nho giáo thời Tiên Tần rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo
Hiếu trong gia đình. Bởi lẽ, trong các phạm trù đạo đức của Nho giáo thì Nhân
giữ vai trò là trung tâm. Từ Nhân mà phát sinh ra các đức khác và các đức khác
bị quy tụ cả về với nó. Nhân có nội dung phong phú, nghĩa sâu rộng nhưng
nghĩa chính là lòng thương người. Nhưng lòng thương người phải được thể
hiện trước hết từ trong phạm vi gia đình, sau đó mới mở rộng ra họ hàng, làng,
nước. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử và Tuân Tử đều đòi hỏi nghĩa vụ đạo đức
trong gia đình phải mang tính hai chiều. Bề trên phải gương mẫu, làm gương
tốt cho kẻ dưới, kẻ dưới phải có bổn phận, nghĩa vụ đối với người trên. Ví dụ,
trong quan hệ cha - con thì cha phải hiền từ, con phải hiếu thảo. Quan hệ cha
con yêu cầu cả trách nhiệm làm cha làm mẹ và nghĩa vụ hiếu thảo của con cái.
Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội, những quan niệm đạo
đức gia đình thời Nho giáo tiên Tần cũng có nhiều thay đổi.
1.1.2. Sự phát triển của quan niệm Nho giáo về gia đình
Do sự vận động và phát triển của chế độ phong kiến Trung Hoa, cùng
với yêu cầu củng cố và phát triển nền chính trị phong kiến trung ương tập
quyền chuyên chế, quan niệm của Nho giáo về gia đình cũng có những bước
phát triển mới. Điển hình là quan niệm về gia đình, các mối quan hệ trong gia
đình, đạo đức gia đình thời Hán và thời Tống.


18


Quan niệm của Nho giáo thời Hán (Hán Nho) về gia đình (thế kỷ III
trước công nguyên - đầu thế kỷ III sau công nguyên)
Từ thời Mạnh Tử trở đi Nho giáo tồn tại ngang với Lão giáo, Mặc giáo,
đến cuối thời Chiến Quốc, Nho giáo phải nhường bước trước Pháp gia.
Nhưng, đến thời Tây Hán, Hán Nho dần thịnh trở lại và chiếm vị trí độc tôn.
Năm 221 TCN nhà Tần tiêu diệt Tề, kết thúc cục diện Chiến quốc. Đất
nước Trung Hoa lần đầu tiên được thống nhất. Nhưng sự thống nhất của nhà
Tần dựa trên bạo lực, cơ sở kinh tế xã hội phong kiến còn non yếu, chính trị
tàn bạo, văn hoá phản động, khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi. Về mặt
tư tưởng, sự thống nhất quốc gia của nhà Tần là biểu hiện sự thành công của
tư tưởng Pháp gia với chủ trương “Pháp trị” trước thể nghiệm của lịch sử. Tư
tưởng Pháp gia chính là vũ khí tư tưởng quan trọng trong việc đưa nhà Tần
đến thống nhất quốc gia, xây dựng chính quyền trung ương tập quyền chuyên
chế. Tuy nhiên, với sự sụp đổ nhanh chóng của triều đại nhà Tần, việc sử
dụng tư tưởng Pháp gia trong trị nước đã bộc lộ những nhược điểm căn bản.
Sự hà khác của luật pháp, những chủ trương có tính pháp hình cực đoan như
cho đốt hết các sách vở của chư tử trước đây mà họ coi là “ngoại thư” (tức là
không phù hợp với tư tưởng Pháp gia của nhà Tần), chôn sống “Nho sinh”…
đã thui chột không khí học thuật lành mạnh, tự do tư tưởng (“Bách gia tranh
minh”) của thời Xuân Thu - Chiến quốc, làm cho nhân dân và tầng lớp trí
thức trong xã hội cực kỳ công phẫn. Thêm nữa, những tàn dư kinh tế và xã
hội của chế độ nô lệ thị tộc cũ hãy còn, có xu hướng trở lại trạng thái phân
chia, cát cứ càng làm suy yếu quốc gia thống nhất thời Tần.
Sau khi tiêu diệt nhà Tần và kết thúc cục diện “Hán - Sở tranh hùng”,
trước yêu cầu củng cố chế độ phong kiến trung ương tập quyền hùng mạnh,
với đường lối chính trị mềm dẻo để an dân, giai cấp địa chủ phong kiến đã tìm
thấy ở Nho giáo khả năng cố kết và sức hướng tâm mạnh mẽ để đáp ứng được

đòi hỏi đó. “Trong con mắt của các vị hoàng đế Hán triều thì Khổng giáo tỏ ra

19


có lợi cho hoàng đế về các mặt sắp xếp trật tự tôn ty, khép chặt thần dân vào
các khâu trong cái lưới thống trị bao la của hoàng đế” [36, tr.42]. Trong bối
cảnh đó, Đổng Trọng Thư nổi lên như một đại Nho - người có công “chính
thống hóa Nho giáo” và biến nó thành công cụ tư tưởng sắc bén phục vụ cho
quyền thống trị của tập đoàn phong kiến Hán tộc trong một quốc gia thống
nhất rộng lớn. Đổng Trọng Thư tự coi mình là người tiếp tục tư tưởng của học
phái Nho gia, nhưng thực tế ông đã xuyên tạc, tiếp thu và khuyếch trương
những yếu tố duy tâm trong học thuyết của Khổng Tử, Mạnh Tử, của phái
“Âm Dương - Ngũ Hành” và các trường phái khác để nhào nặn nên học
thuyết của mình, một thứ học thuyết mang đậm màu sắc chính trị duy tâm
thần bí và khắc nghiệt. Dưới thời Hán Vũ Đế, Đổng Trọng Thư đã tiến hành
việc lựa chọn, sắp xếp lại các sách vở kinh điển cổ của Nho giáo và phân
thành năm loại: kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Dịch, kinh Xuân Thu. Bản
thân Đổng Trọng Thư được phong làm “ngũ kinh bác sĩ” (người thông hiểu
sâu rộng về ngũ kinh). Từ đây, ngũ kinh trở thành “thánh kinh” của Nho giáo
và không ai được hoài nghi về tính đúng đắn của nó. Do tư tưởng của ông phù
hợp với nhu cầu của phái bảo thủ trong giai cấp địa chủ quý tộc thời đó, nên
từ thời Hán Nguyên Đế về sau những chủ trương mà ông đưa ra dần dần đã
được nhà Hán thực hiện.
Điểm nổi bật nhất trong quan điểm của Đổng Trọng Thư về gia đình và
đạo đức là ông đã dùng tư tưởng “mệnh trời”, “thiên nhân tương cảm”, “thiên
nhân hợp nhất” để thần bí hóa các quan hệ xã hội, các giá trị đạo đức cơ bản,
đặc biệt là quan hệ quân thần và đức trung. Đổng Trọng Thư cho rằng trong
quan hệ giữa người với người trong xã hội có ba mối quan hệ cơ bản là: vua bề tôi, cha - con, vợ - chồng (Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Thê), gọi là “Tam
cương”; mở rộng ra hai mối quan hệ nữa là anh - em (Trưởng - Ấu); bạn bè

(bằng hữu) thành “Ngũ luân”. Thực ra đây là những mối quan hệ đã được
Khổng Tử, Mạnh Tử đề cập đến rồi. Nhưng, đến Đổng Trọng Thư, ông đã

20


tước đi những yếu tố có tính nhân đạo, tiến bộ, hai chiều trong ngũ luân và đưa
vào quan niệm đó những yêu cầu đạo đức một chiều, thần bí, khắt khe. Đặc
biệt, ông đã đẩy những yêu cầu, quy tắc đạo đức một chiều đó lên mức cực
đoan, phi lý, phi nhân bản. Trong mối quan hệ vua - tôi, bởi vua là con trời,
lĩnh thiên mệnh thay trời cai trị thần dân nên nếu vua xử bầy tôi tội chết (bất kể
đúng sai), người bầy tôi phải chết nếu không sẽ mắc tội bất trung (Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung). Trong quan hệ gia đình, cha cũng như trời, là
người có quyền uy tối cao, cha bảo con chết con phải chết nếu không mắc tội
bất hiếu (Phụ xử tử vong tử bất vong, bất hiếu), chồng bảo vợ phải tuyệt đối
tuân theo (phu xướng phụ tùy). Và ông đã dùng thuyết Âm dương (đã bị tước
bỏ mặt duy vật, quy luật của tự nhiên) và viện đến “ý trời” làm cơ sở triết học
để biện minh cho học thuyết đạo đức của mình: Vua là tượng của “trời” nên có
đức che chở, hướng dẫn (Thiên vi quân nhi tần tái chi) - Bề tôi là tượng của
“đất” nên có đức chuyên chở, tuân theo (Địa vi thần nhi trì tải chi); Chồng là
thuộc khí “dương”, nên có đức sinh, dẫn đầu (Dương vi phu nhi sinh chi) - Vợ
là thuộc khí “âm”, nên có đức phụ trợ, tuân theo (Âm vi phụ nhi trợ chi); Cha
là thuộc “mùa xuân” nên có đức sinh (Xuân vi phụ nhi xuân chi) - Con là thuộc
“mùa hạ” nên có đức dưỡng, tuân theo (Hạ vi tử nhi dưỡng chi); và tất cả là do
trời định đoạt (Khả cầu ư thiên) [72, tr.70-71].
Suy cho đến cùng thì học thuyết về luân lý đạo đức của Đổng Trọng
Thư trong đó có quan niệm về đạo đức gia đình là nhằm phục vụ mục đích
cao nhất là “trung quân”, trung thành tuyệt đối với nhà vua, với bề trên, bảo
vệ chế độ phụ hệ trong gia đình với uy quyền tuyệt đối thuộc về người chồng,
người cha.

Như vậy, xét trên phương diện nhân văn, những quan hệ và yêu cầu đạo
đức Nho giáo qua bàn tay “chế biến” của Đổng Trọng Thư thời Hán (hay còn
gọi là Hán Nho) so với Nho giáo thời Khổng Tử, thậm chí cả với thời Mạnh
Tử, là một bước thụt lùi nghiêm trọng. Nếu Nho giáo Tiên Tần còn đề cập đến

21


đạo đức gia đình với tính chất hai chiều, dựa trên thực tại quan hệ xã hội giữa
cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng thì Nho giáo thời Hán dựa trên cơ sở
thần bí hóa các quan hệ xã hội đó, đòi hỏi con cái phải tuyệt đối phục tùng
cha mẹ, vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng. Do vậy, Trung, Hiếu của Nho
giáo thời Hán được thần bí hóa và đẩy đến mức tuyệt đối thành ngu Trung,
ngu Hiếu.
Quan niệm của Nho giáo thời Tống về gia đình (thế kỷ X - thế kỷ XIII)
Từ giữa thế kỷ thứ IX, Kinh đô Tràng An nhà Đường bị nhiều phen
chao đảo bởi các cuộc khởi nghĩa nông dân và những cuộc tấn công của các
thế lực phong kiến địa phương. Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa nông dân do
Hoàng Sào lãnh đạo ở cuối thế kỷ thứ IX, có quy mô như một cuộc chiến
tranh nông dân, đã đánh đòn quyết định vào nền thống trị của nhà Đường. Các
thế lực phong kiến địa phương nhân đó nổi lên khắp nơi. Chu Ôn vốn là một
tướng của Hoàng Sào, sau khi tiêu diệt các thế lực quân phiệt địa phương, đã
cướp luôn ngôi nhà Đường, lập ra nhà Hậu Lương. Đất nước bắt đầu cuộc
loạn “Ngũ đại thập quốc” (năm đời mười nước) kéo dài trên nửa thế kỷ. Năm
960 Triệu Khuông Dận đã kết thúc cục diện hỗn loạn, thống nhất đất nước
Trung Hoa, lập ra nhà Tống, hiệu là Tống Thái Tổ. Triệu Khuông Dận lên ngôi
quyết tâm thiết lập một chế độ quân chủ tập trung cao nhất nhằm thủ tiêu tình
trạng cát cứ địa phương. Lúc này Nho giáo trở lại địa vị quốc giáo và được phát
triển thêm một bước để phục vụ cho yêu cầu “thống nhất tất cả những cái gì
chưa thống nhất trong thiên hạ”. Các nhà triết học thời Tống đều đứng trên

danh nghĩa bảo vệ và phát triển Nho giáo để trình bày những ý kiến của mình,
nhưng thực tế, trong tư tưởng của họ thể hiện rất rõ sự thống nhất tư tưởng của
Nho - Phật - Lão. Chính những đặc điểm đó đã hình thành một phong cách
riêng của các nhà Nho thời Tống, của học thuật thời Tống mà người sau thường
dùng những danh từ như “Tống Nho”, “Đạo học”, “Lý học”, Nho giáo mới
(Neo Confucianism) để chỉ nó. Vì vậy, về mặt chính trị, thời Tống không phải

22


là triều đại lớn nhất của Trung Quốc thời phong kiến, nhưng về phương diện
học thuật thì Tống Nho có thể được xem là đạt trình độ phát triển cao nhất của
Nho giáo trong hơn 1000 năm tồn tại từ sau Khổng - Mạnh.
Nho giáo thời Tống có thể được phân thành hai phái: phái Lý học do
Chu Hy (1130-1200) và Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107) đại
diện, phái Tâm học do Lục Cửu Uyên (1139-1193) đại diện.
Trong quan niệm về gia đình, có thể nói Nho giáo thời Tống tiếp tục xu
hướng nhấn mạnh tính một chiều của quan hệ gia đình thời Hán, đã xem xét rất
phiến diện, cứng nhắc, chỉ nhấn mạnh trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ,
nghĩa vụ của vợ đối với chồng mà không cần quan tâm đến chiều đối xử ngược
lại. Vì vậy, nó làm cho Nho giáo sơ kỳ bị biến dạng, méo mó đi rất nhiều.
Đặc biệt Nho giáo thời này rất đề cao chữ “hiếu” để củng cố cho tư
tưởng tôn quân, đề cao chế độ phong kiến tập quyền, củng cố gia đình - đề
cao quyền huynh thế phụ, đảm bảo tuyệt đối cho chế độ truyền tử, ngôi vua
truyền cho con trưởng. Vì vậy quan niệm về “hiếu” trong gia đình trở thành
sự phục tùng vô điều kiện, bởi vì các nhà Nho quan niệm “trong thiên hạ
không có cha mẹ nào không đúng” rồi dẫn đến “cha không nhân từ nhưng con
không thể không hiếu”. Nó đồng nhất tình yêu thương, nghĩa vụ của con cái
đối với cha mẹ với tình yêu thương, nghĩa vụ của thần dân đối với ngai vàng
của nhà vua, coi sự cung phụng nhà vua là vô điều kiện như sự phụng dưỡng

cha mẹ mình.
Những quan điểm đạo đức gia đình của Tống Nho dựa trên cơ sở các tư
tưởng lý học mang tính siêu hình giải thích về bản chất, sự cấu thành và quy
luật vận hành của vũ trụ. Các nhà Tống Nho đã đồng nhất các giá trị trung,
hiếu, trinh như là sự thể hiện của lý, của thiên đức mang tính quy luật vào
trong xã hội. Việc bầy tôi trung thành tuyệt đối với nhà vua, người con thực
hiện đạo hiếu với cha mẹ, người vợ chung thủy với chồng là thuận theo lý,
thuận theo đạo trời và là điều kiện để duy trì sự ổn định, thái hòa của vũ trụ.

23


Tóm lại, qua nghiên cứu sự hình thành và phát triển của Nho giáo qua
các thời kỳ, chúng ta thấy rằng tư tưởng Hán Nho về gia đình và đạo đức gia
đình không hề bị Tống Nho phủ nhận mà được tích hợp lại và thậm chí còn
được cải biến lên một trình độ mới với việc đưa ra cơ sở lý học siêu hình cho
những mối quan hệ và giá trị đạo đức này. Nho giáo từ đời nhà Hán về sau đã
trở thành hệ tư tưởng thống trị của giai cấp phong kiến Trung quốc, nhằm bảo
vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Mặc dù bản thân Nho giáo mang nhiều
yếu tố bảo thủ, tiêu cực, tuy nhiên, đó là một học thuyết giàu sức sống đã tồn
tại hàng nghìn năm, nên không thể phủ nhận những giá trị mang tính phổ biến
và chứa đựng nhiều tư tưởng triết học.
Có thể thấy rằng với mục đích lập lại trật tự, kỷ cương của xã hội, Nho
giáo đề cao tinh thần trung quân và xem đó là yêu cầu đạo đức, phẩm chất cao
đẹp của đạo làm người. Với quan niệm cho rằng vũ trụ có trời làm chủ, đất
nước có vua làm chủ, gia đình có cha làm chủ... mọi quan hệ có trật tự nền
nếp rõ ràng nên Nho giáo chủ trương xây dựng xã hội dựa trên mô hình gia
đình, xây dựng những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình với mục đích mở
rộng nó ra, phát triển lên thành những nguyên tắc đạo đức trong đạo thờ vua,
trị nước. Những quan niệm về gia đình và đạo đức gia đình từ thời Khổng

Mạnh, qua Hán Nho, Tống Nho đã trở thành một hệ thống quan niệm và giá
trị ổn định mà về sau các triều đại Minh, Thanh dựa vào đó để làm công cụ tư
tưởng, hệ chuẩn giá trị cho việc củng cố gia đình, xã hội theo hướng củng cố
chế độ phụ quyền gia trưởng và chế độ phong kiến trung ương tập quyền
chuyên chế.
1.2. Những nội dung cơ bản của Nho giáo về gia đình
1.2.1. Tôn ti trật tự trong gia đình
Khác với các học thuyết triết học Phương Tây, triết học phương Đông
nói chung và đặc biệt là Nho giáo nói riêng, luôn xem xét con người trong
tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Chúng ta thấy, trong Nho giáo không tồn tại

24


một con người cá nhân, một cái tôi tách khỏi gia đình và xã hội. Chính việc
nhìn nhận con người trong các mối quan hệ gia đình và xã hội đã giúp Nho
giáo đề ra được những giải pháp giữ gìn tôn ti trật tự trong gia đình và bình ổn
ngoài xã hội.
Theo quan niệm Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị ràng buộc bởi
năm mối quan hệ xã hội cơ bản nhất. Đó là quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh
- em, vua - tôi, bạn - bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai phương diện của
cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội
phong kiến, mối quan hệ gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp gia
trưởng, còn các quan hệ xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp.
Đi cùng với các mối quan hệ đó là những yêu cầu giao tiếp bắt buộc (lễ) mà
mỗi thành viên trong gia đình và xã hội phải thực hiện.
Tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính
quy phạm đạo đức. Đã là gia đình thì phải có vợ - chồng, cha - con, anh - em.
Trong gia đình thì vợ - chồng phải hòa thuận, phu xướng thì vợ phải tùy, là
cha - con thì cha phải hiền từ biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm

gương cho con cái học tập. Ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công
ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, biết hiếu thuận với cha mẹ. Đã là anh
em thì phải biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, là anh chị thì phải
biết nhường nhịn, thương yêu, là em thì phải biết nghe lời và lễ phép với anh
chị. Xét chung trong mọi mối quan hệ, Nho giáo yêu cầu mỗi cá nhân phải lấy
lòng nhân của mình làm chuẩn mực để hành động, đối xử với người khác. Cái
gì mình muốn thì cũng làm hết lòng cho người khác và ngược lại, cái gì mình
ghét thì cũng đừng đem lại cho người khác.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn quan niệm rằng, mọi sự bất ổn trong xã hội
đều có nguyên nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan hệ xã hội. Để bảo
đảm sự ứng xử được đúng, Nho giáo yêu cầu mỗi người phải chính danh, làm
tốt vai trò của mình. Vai trò đó được xác định bởi danh phận của mỗi người

25


×