Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA DI CƢ MÙA VỤ NÔNG THÔN - ĐÔ THỊ ĐẾN ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH NÔNG THÔN XÃ CẨM VĂN - CẨM GIÀNG - HẢI DƢƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------*--------------

NGUYỄN THỊ KIM ANH

TÁC ĐỘNG CỦA DI CƢ MÙA VỤ NÔNG THÔN - ĐÔ THỊ
ĐẾN ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH NÔNG THÔN XÃ CẨM VĂN CẨM GIÀNG - HẢI DƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI - 2014




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di dân (migration) không phải là một hiện tượng mới mẻ trong lịch sử
phát triển kinh tế - xã hội của bất cứ quốc gia nào. Trong lịch sử Việt Nam đã
chứng kiến nhiều cuộc di dân lớn nhỏ do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ
việc khai hoang lấn biển, mở mang bờ cõi từ thời đầu dựng nước, cho đến các
cuộc di dân có tổ chức với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nhà
nước. Và đây luôn là mối quan tâm nghiên cứu của nghiều ngành khoa học xã
hội cả ở trong và ngoài nước.
Đặc biệt kể từ năm 1986, tại kì họp Quốc hội lần thứ VI, chính phủ đã

chính thức đề ra chính sách Đổi mới nhằm phát triển đất nước theo định
hướng kinh tế thị trường. Chính sách Đổi mới đã góp phần giải phóng lực
lượng lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như biến đổi xã hội ở
quy mô lớn. Ảnh hưởng lớn từ chính sách này đến di dân là không hề nhỏ,
một là nó tạo điều kiện cho người lao động tách mình khỏi những ràng buộc
của cơ chế bao cấp, và gò bó trong môi trường hợp tác xã. Người lao động
được tự do hơn trong lựa chọn công việc và nơi làm việc cho mình. Thứ hai,
chính sách Đổi mới nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã mở ra một con đường, một kỷ nguyên phát triển mới cho các thành
phần kinh tế, đặc biệt là các thành phần kinh tế tư nhân, ngoài nhà nước mở
rộng quy mô sản xuất, từ đó nhu cầu sử dụng lao động tăng, tạo ra nhiều cơ
hội việc làm cho người dân. Hai tác động này cộng hưởng đã tạo ra một luồng

di dân lớn từ nông thôn đến đô thị của người dân nông thôn nhằm kiếm việc
làm, nâng cao thu nhập và điều kiện sống. Rõ ràng, sự thay đổi này tất yếu dù
ít hay nhiều đều có những tác động nhất định đến đời sống người di dân và
gia đình người di dân nói riêng và đời sống nông thôn nói chung.
Vậy tác động cụ thể của di dân nông thôn – đô thị theo mùa vụ đến đời
sống gia đình nông thôn như thế nào? Đã có không ít những nhà nghiên cứu
quan tâm và tiến hành nghiên cứu về vấn đề di dân cũng như tác động của nó
1


đến đời sống kinh tế - xã hội, tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu đều ở quy mô
lớn và mang tính tổng quát, chung chung. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên

cứu về tác động của di dân nông thôn – đô thị đến đời sống gia đình nông
thôn với trường hợp cụ thể là ở xã Cẩm Văn – Cẩm Giàng – Hải Dương. Đây
là một địa bàn có nhiều biến đổi về đời sống kinh tế - văn hóa, trong đó di dân
từ nông thôn đến đô thị cũng là một vấn đề được người dân và các cấp chính
quyền nơi đây quan tâm.
Vì những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Tác động
của di cư mùa vụ nông thôn - đô thị đến đời sống gia đình nông thôn”
(Nghiên cứu trường hợp xã Cẩm Văn – Cẩm Giàng – Hải Dương để đóng góp
một bằng chứng cụ thể, chi tiết và bổ sung cho các nghiên cứu vĩ mô trước
đó. Đồng thời chỉ ra thực trạng vấn đề di dân mùa vụ nông thôn – đô thị và
tác động của nó đến đời sống gia đình nông thôn không chỉ cho người dân mà
còn cho các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương có những nhìn nhận và giải

pháp quản lý tốt hơn vấn đề này.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1 Ý nghĩa khoa học
Đề tài này tiếp cận những kiến thức của xã hội học, trong đó vận dụng
những lý thuyết cụ thể như lý thuyết hút – đẩy của Everetts Lee và lý thuyết
phân tích mạng lưới xã hội để giải thích hiện tượng di cư mùa vụ nông thôn – đô
thị; giúp bổ sung và làm rõ thêm hệ khái niệm của xã hội học và đặc biệt là các
khái niệm liên quan đến di cư và gia đình. Từ đó góp phần chứng minh các lý
thuyết này. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn áp dụng những phương pháp nghiên
cứu xã hội học bao gồm các phương pháp thu thập thông tin định lượng và định
tính để có những bằng chứng khoa học chứng minh cho các giả thuyết nghiên
cứu đưa ra. Với những áp dụng này, luận văn có ý nghĩa khoa học sâu sắc.

2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài mô tả và phân tích một hiện tượng xã hội đang được quan tâm là
di cư mùa vụ nông thôn – đô thị tại một địa bàn nghiên cứu cụ thể là xã Cẩm
2


Văn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Từ đó chỉ ra thực trạng và các tác
động của di cư mùa vụ đối với đời sống gia đình nông thôn để hướng tới đưa
ra các khuyến nghị về quản lý di cư tại nông thôn.
Đề tài còn giúp người nghiên cứu vận dụng được những kiến thức, kỹ
năng, phương pháp trong xã hội học để triển khai một vấn đề cụ thể và có
thêm kinh nghiệm trong nghiên cứu xã hội học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu những đặc trưng di dân mùa vụ nông thôn –
đô thị và tác động của nó đến đời sống kinh tế - xã hội của các gia đình nông
thôn trên một địa bàn nghiên cứu là xã Cẩm Văn – huyện Cẩm Giàng – tỉnh
Hải Dương. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp, khuyến nghị cho vấn đề di
dân cũng như quản lý di dân mùa vụ nông thôn – đô thị ngày nay đối với các
cấp chính quyền địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các đặc trưng của người di dân và hộ gia đình có người di
dân mùa vụ nông thôn – đô thị, đặc biệt là các đặc trưng về nhân khẩu học;
- Tìm hiểu tác động của di dân mùa vụ nông thôn – đô thị đến đời sống

vật chất (kinh tế) của gia đình nông thôn;
- Tìm hiểu tác động của di dân mùa vụ nông thôn – đô thị đến đời sống
tinh thần, sức khỏe của gia đình nông thôn.
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác động của di dân mùa vụ nông thôn – đô thị đến đời sống của người
dân nông thôn.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Người di dân
- Hộ gia đình của người di dân
- Cơ quan chức năng tại địa phương
3



4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian thực hiện: 15/01/2013 – 15/11/2013
- Địa điểm: thôn Hoành Lộc, thôn Văn Thai, thôn Đức Chính – xã Cẩm
Văn – huyện Cẩm Giàng – tỉnh Hải Dương.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng di dân mùa vụ nông thôn – đô thị ở xã Cẩm Văn – huyện
Cẩm Giàng – tỉnh Hải Dương đang diễn ra như thế nào?
- Di dân mùa vụ nông thôn – đô thị có tác động như thế nào đến đời
sống kinh tế, đời sống văn hóa, giáo dục, tinh thần, xã họi và chính trị của các
gia đình ở xã Cẩm Văn – huyện Cẩm Giàng – tinh Hải Dương?

6. Giả thuyết nghiên cứu
- Chính sách đổi mới kinh tế tạo điều kiện cho thị trường lao động mở
rộng, khuyến khích người dân nông thôn di dân ra đô thị.
- Di dân mùa vụ nông thôn – đô thị có tác động đến đời sống kinh tế,
vật chất của người di dân và gia đình có người di dân ở nông thôn.
- Di dân mùa vụ nông thôn – đô thị góp phần thay đổi đời sống văn hóa,
giáo dục, văn hóa, tinh thần, xã hội và chính trị của người di dân và gia đình.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phân tích tài liệu
Thực chất của việc phân tích tài liệu là phân tích, bóc tách các thông tin
có sẵn trong tài liệu, trên cơ sở đó rút ra các thông tin cần thiết nhằm đáp ứng
những mục tiêu của đề tài. Trong đề tài này, chúng tôi phân tích một số tài

liệu chủ yếu sau:
- Các tài liệu luật pháp liên quan đến vấn đề di dân;
- Các tài liệu, văn bản về tình hình kinh tế - xã hội xã Cẩm Văn – Cẩm
Giàng – Hải Dương;
- Các nghiên cứu trong nước về vấn đề di dân;
- Các nghiên cứu nước ngoài về vấn đề di dân.

4


7.2. Phương pháp chọn mẫu
Quy trình chọn mẫu của cuộc điều tra tuân thủ theo phương pháp luận

về chọn mẫu thống nhất. Sử dụng phương pháp chọn mẫu mạng lưới (mô hình
quả bóng tuyết hay chuỗi liên tiếp hoặc chọn mẫu theo uy tín/ danh tiếng) và
chọn mẫu có chủ đích.
Phương pháp chọn mẫu mạng lưới (mô hình quả bóng tuyết): được
chấp nhận sử dụng cho một vài trường hợp đặc biệt như các thành viên của
một dân số đặc biệt khó tiếp cận. Bắt đầu phỏng vấn từ một hoặc một vài
người, sau đó dựa trên cơ sở mạng lưới quan hệ quen biết của họ để đề nghị
giới thiệu đến những người tiếp theo và tiếp tục triển khai phỏng vấn. Tiếp tục
triển khai phỏng vấn cho đến khi đủ số lượng 300 mẫu.
Phương pháp chọn mẫu có chủ đích: Là phương pháp chọn các trường
hợp gia đình có người di dân mùa vụ từ nông thôn đến đô thị, và những người di
dân này nhằm mục đích làm ăn kinh tế, không phải vì mục đích học tập (sinh

viên). Phương pháp này không dựa trên một bản danh sách có sẵn về các gia
đình di dân và lựa chọn ngẫu nhiên từ bản danh sách đó, do việc quản lý nhân
khẩu và quản lý số liệu về số lượng người di dân mùa vụ trên thực tế là một việc
làm khó khăn và độ chính xác không cao. Do đó, phương pháp này cũng không
cho biết rằng mẫu được lấy có đại diện cho toàn dân số của xã hay không.
7.3. Phỏng vấn bằng bảng hỏi
Là phương pháp định lượng, chúng tôi sử dụng một bảng hỏi đã được
chuẩn hoá, bao gồm câu hỏi và các câu thu thập thông tin từ người trả lời.
Trong cuộc nghiên cứu này, chúng tôi thu về được 300 bảng hỏi hợp lệ và
được xử lý qua chương trình SPSS.
7.4. Phỏng vấn sâu
Là dạng phỏng vấn trong đó người ta xác định sơ bộ những vấn đề cần

thu thập thông tin, người phỏng vấn chủ động trong cách dẫn dắt, cách sắp
xếp câu hỏi, cách thức đặt câu hỏi nhằm thu được thông tin mong muốn. Mục
tiêu là tìm hiểu sâu về vấn đề nghiên cứu.
5


Trong đề tài nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu bán
cấu trúc với 10 cuộc phỏng vấn sâu: 03 phỏng vấn cán bộ chính quyền địa
phương, 07 phỏng vấn người dân.
Đây là một phương pháp thu thập thông tin cần thiết và hữu ích cho đề
tài này vì có một số chỉ báo về nguyên nhân và giải pháp không thể thực
hiện được trên phiếu trưng cầu ý kiến. Mặt khác, phỏng vấn sâu còn giúp

cho người nghiên cứu phát hiện ra những vấn đề mà phỏng vấn bằng bảng
hỏi chưa lường hết, và kiểm định lại thông tin trong bảng hỏi có trung thực
hay không.
7.5. Phân tích thống kê SPSS
SPSS là một phần mềm thống kê được ứng dụng rộng rãi trong xử lý
và phân tích thông tin định lượng cho các nghiên cứu xã hội học. Trong luận
văn này, chúng tôi xử dụng SPSS để phân tích mô tả thực trạng di dân mùa
vụ nông thôn – đô thị và ý kiến của người tham gia nghiên cứu về tác động
của di dân mùa vụ đến đời sống gia đình nông thôn tại xã Cẩm Văn – huyện
Cẩm Giàng – tỉnh Hải Dương. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích tương
quan để xem xét xem liệu các biến số về giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn,
tình trạng hôn nhân của người di dân… có dẫn đến sự khác biệt về sự tác

động (nếu có) không?

6


8. Khung lý thuyết
Chính sách Kinh tế - Xã hội của Nhà nước

Thị trường lao động

Đặc
trưng

của
gia
đình

người
di cư

Di cư
mùa vụ
nông
thôn – đô
thị


Tác động:
- Đời sống kinh tế
- Đời sống tinh
thần
- Đời sống giáo dục
- Đời sống y tế
- Đời sống chính trị

Quá trình đô thị hóa

Đề tài xác định các biến số như sau:

 Biến số phụ thuộc: Đời sống gia đình nông thôn
- Đời sống kinh tế
- Đời sống tinh thần
- Đời sống giáo dục
- Đời sống y tế
- Đời sống chính trị
 Biến số độc lập: Tình trạng di dân
- Thực trạng di dân ở xã Cẩm Văn – huyện Cẩm Giàng – tỉnh Hải
Dương
- Đặc trưng nhân khẩu của người di dân: độ tuổi, giới tính, học vấn,
tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, vị thế trong gia đình, thời gian di dân, thu
nhập


7


- Đặc trưng của gia đình người di dân: Quy mô gia đình, số thế hệ, số
nhân khẩu phụ thuộc, thu nhập, nghề nghiệp, tổng số người di dân trong gia
đình.
 Biến số can thiệp
- Điều kiện KT – XH địa phương
- Thị trường lao động

8



PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Di dân
Di dân hay di cư là hai khái niệm được sử dụng rộng rãi diện nay
không chỉ trong nước mà còn trên phạm vi quốc tế. Năm 1958, Liên hợp quốc
đưa ra khái niệm về di dân là sự di chuyển dân cư trong không gian giữa một
đơn vị hành chính này đến một đơn vị hành chính khác, kèm theo sự thay đổi
về chỗ ở thường xuyên trong khoảng cách di dân xác định. Năm 1973, Liên

hợp quốc đưa ra hai khái niệm di dân dài hạn và di dân ngắn hạn. Trong đó, di
dân dài hạn là người di dân đến nơi ở mới từ 12 tháng trở lên. Di dân ngắn
hạn là người di dân đến nơi ở mới dưới 12 tháng.[Trích 5, tr.9-10]
Ở Việt Nam, trong từng bối cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội,
việc một nhóm dân cư di chuyển từ nơi này đến nơi khác được gọi với những
tên cụ thể khác nhau. Trong chiến tranh hoặc khi có thiên tai xảy ra, người
dân thay đổi chỗ ở đến một nơi khác an toàn hơn, khi đó hiện tượng này được
gọi là “tản cư” và người dân thực hiện việc “tản cư” được gọi là “dân tản
cư”. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều khu dân cư nằm
trong khu vực quy hoạch để xây dựng các công trình công cộng (đường,
trường học, khu hành chính, thủy điện…) hoặc các khu công nghiệp, người
đân ở những khu vực này được đền bù và chuyển nơi ở đến một nơi mới gọi

là “di dân tái định cư. Ở Việt Nam có nhiều dân tộc, tộc người có văn hóa và
truyền thống sản xuất thường xuyên thay đổi chỗ ở để tìm khu vực canh tác
mới gọi là “du canh, du cư”. Ở Miền Bắc, trong những năm 60 thế kỷ XX,
người dân vùng đồng bằng di chuyển lên khi vực trung du, miền núi gọi là
“dân đi khai hoang”. Sau năm 1975, với chính sách di dân và phát triển kinh
tế, người dân từ đô thị, đồng bằng di chuyển tới miền núi để phát triển kinh tế
miền núi được gọi là “di dân đi vùng kinh tế mới”.
9


Tại Mục 7, Điều 1, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, số
06/2003/PL-UBTVQH11, ngày 09 tháng 01 năm 2003 khái niệm di dân là

“sự di chuyển dân số từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ địa phương này
sang địa phương khác”.
Theo quan niệm của Đặng Nguyên Anh: di dân theo nghĩa rộng là sự
chuyên dịch bất kỳ của con người trong không gian và thời gian nhất định,
kèm theo thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn; di dân theo nghĩa hẹp là
sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác,
nhằm thiết lập nơi cư trú mới, trong một khoảng thời gian nhất định [6, tr.36]
Hoàng Văn Chức có khái niệm: di cư có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là
hiện tượng di chuyển để mưu sinh của bầy đoàn khi chuyển mùa, nghĩa thứ
hai là hiện tượng người dân dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác để sinh sống,
nghĩa thứ hai được hiểu đồng nghĩa với di dân. Theo đó, nên sử dụng thuật
ngữ di dân, bởi lẽ di dân “dùng để chỉ về sự thay đổi nơi cư trú từ nơi này đến

nơi khác của cả con người và động vật”; và khi sử dụng thuật ngữ di dân phải
kèm theo các từ chỉ người như “người di dân” [5, tr.11-12]
Theo quan điểm của người viết, di cư và di dân là hai thuật ngữ có thể
được sử dụng song song hoặc được sử dụng tùy theo ý đồ người viết cũng
như hoàn cảnh, không gian và thời gian của từng nghiên cứu. Trong luận văn
này, thuật ngữ chính được người viết sử dụng là “di dân”, tuy nhiên cũng có
sử dụng thuật ngữ “di cư” song song trong trường hợp trích dẫn hoặc truyền
tải quan điểm của một tác giả khác.
Tổng hợp các quan điểm, khái niệm khác nhau về di dân, tác giả nhận
thấy về cơ bản di dân là một hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan, mang
tính phổ biến của xã hội loài người, có những đặc điểm chung về con người,
thời gian và không gian. Như vậy, trong luận văn này, di dân được hiểu là:

“một khái niệm chỉ trạng thái chuyển dịch dân số từ nơi này sang nơi khác,
từ một đơn vị lãnh thổ hành chính này sang đơn vị lãnh thổ hành chính
khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác, có kèm theo sự thay đổi về nơi cư
10


trú một cách tạm thời hay vĩnh viễn, thời gian di dân tùy theo mục đích di
dân của người di dân.”
Như đã đề cập ở trên, hai yếu tố chính trong khái niệm “di dân” là thời
gian di dân và không gian. Không gian của di dân là nơi đi – nơi đến. Thời gian
của di dân là thời điểm và quãng thời gian diễn ra sự di dân. Quy mô của không
gian và thời gian di dân tùy thuộc vào từng loại hình di dân trong đó có các yếu

tố tác động như sự quản lý của chính quyền địa phương nơi đi và nơi đến; mục
đích di dân của người đi cư; điều kiện kinh tế - xã hội của nơi đi và nơi đến…
1.1.1.2. Di dân mùa vụ nông thôn – đô thị
Các loại hình di dân được phân loại dựa trên nhiều yếu tố khác nhau
như tính chất di dân, đặc trưng di dân, theo không gian và thời gian di dân.
Theo tính chất di dân có di dân tự nguyện và di dân bắt buộc. Về đặc trưng,
có di dân có tổ chức và di dân tự do (di dân có tổ chức, di dân tự phát). Theo
không gian, có di dân nội vùng và ngoại vùng, di dân nội tỉnh và ngoại tỉnh,
di dân quốc gia và quốc tế, di dân nông thôn – đô thị, di dân đô thị - nông
thôn… Theo thời gian có di dân tạm thời, di dân mùa vụ, di dân con lắc,...
Trong luận văn này, hình thức di dân được nghiên cứu có sự kết hợp
giữa hai yếu tố không gian và thời gian: di dân mùa vụ nông thôn – đô thị. Di

dân mùa vụ, là hình thái di dân theo công việc, theo “mùa, vụ”; vào thời gian
nông nhàn, một số người dân nông thôn di dân ra thành phố để kiếm việc làm,
đến thời điểm cấy cày, người dân lại trở về nông thôn để làm việc; hoặc di
dân theo mùa lễ hội, du lịch. Nơi đi là nông thôn và nơi đến là đô thị. Thời
gian ở đô thị khoảng từ 1 đến 3 tháng. Ngoài ra, trong luận văn, tác giả cũng
lồng ghép khái niệm di dân mùa vụ với di dân tạm thời và di dân con lắc.
Di dân tạm thời là hình thái di dân của người dân khu vực nông thôn đến
một khu vực của đô thị định cư trong thời gian ngắn, sau đó chuyển đến chỗ ở
khác hoặc trở về nơi ở cũ. Người di dân không có ý định hoặc chưa có ý định
định cư lâu dài ở thành phố mà có xu hướng trở về quê sau một thời gian làm
ăn, sinh sống ở đô thị. Thời gian tạm trú ở thành phố khoảng từ 6 đến 12 tháng.
11



Di dân con lắc là hình thái di dân luân chuyển giữa nông thôn và đô
thị khá ổn định về không gian, thời gian; loại hình di dân có thời hạn liên
quan đến việc làm hoặc lý do khác đòi hỏi người di dân phải ngủ qua đêm ở
đô thị, được lặp đi lặp lại và không nhất thiết phải thay đổi nơi cư trú chính
thức [2, tr.40 -45]
Do loại hình di dân nông thôn – đô thị có sự đan xen và có thể là hình
thái đặc biệt của nhau. Di dân mùa vụ có thể được xem là trường hợp đặc biệt
của di dân tạm thời. Về hình thức, di dân con lắc cơ bản giống như di dân
mùa vụ, song có sự khác nhau về hướng di chuyển và diễn ra đều đặn hơn ở
các tháng trong năm. Di dân mùa vụ có thể được xem như là một hình thái

đặc thù của di dân con lắc, diễn ra theo chu kỳ rõ rệt hơn về thời gian [2,
tr.40-45]. Như vậy, điểm khác biệt cơ bản giữa di dân tạm thời, mùa vụ và
con lắc là ở quy mô về quãng thời gian, chu kỳ di dân từ nông thôn đến đô thị.
Với sự đan xen đó, trong luận văn này, tác giả sẽ hướng đến các khách thể với
các hình thái di dân đan xen giữa di dân mùa vụ, di dân tạm thời và di dân con
lắc để đảm bảo tính đa dạng và bao trùm của luận văn.
1.1.1.3. Gia đình
Gia đình là một khái niệm được nhiều ngành khoa học xã hội quan tâm.
Có nhiều khái niệm khác nhau về gia đình, đến nay rất khó để tìm được một
khái niệm chung về gia đình. Tuy nhiên đứng ở góc nhìn xã hội học, gia đình
được hiểu như sau:
Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014: Gia đình là tập

hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân quan hệ huyết thống hoặc
quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau
theo quy định của luật này [25]. Như vậy về mặt luật pháp, ở nước ta chỉ công
nhận những cặp vợ chồng có đăng ký kết hôn chính thức. Điều này hoàn toàn
đúng đắng với một định nghĩa về khái niệm gia đình dưới góc độ hoa khọc
pháp lý và đạo lý, là cơ sở thực tiễn để quản lý nhà nước về gia đình, nhưng

12


rõ ràng, nó lại chưa đầy đủ cơ sở thực tiễn về mặt xã hội học, không bao quát
được thực trạng của nhiều hình thức gia đình khác, những hình thức gia đình

có thể bị coi là “bất hợp pháp” nhưng vẫn tồn tại trong xã hội.
Gia đình là một nhóm xã hội. Khi nói gia đình là một nhóm xã hội thì
điều đó có nghĩa là trong gia đình phải có tối thiểu là hai người, Khi một
người cô độc, khi những thành viên khác trong gia đình không còn nữa, lúc
đó người duy nhất còn lại cũng không còn có cuộc sống gia đình. Về phương
diện này, sự tồn tại của gia đình chính là sự tồn tại của các mối quan hệ gia
đình. Người cô độc không còn các mối quan hệ gia đình, họ cũng không còn
gia đình. Sự khác biệt giữa nhóm gia đình và các nhóm xã hội khác là ở chỗ,
sự liên kết giữa các thành viên trong gia đình với nhau thường chặt chẽ hơn
nhiều so với các nhóm xã hội khác như nhóm bạn bè, nhóm sở thích, nhóm
đồng nghiệp… Nếu các nhóm xã hội khác thường liên kết với nhau theo tính
cơ cấu chức năng, tức là quan hệ theo chiều rộng của không gian xã hội giữa

người này với người khác, thì nhóm gia đình còn quan hệ với nhau theo tính
lịch đại, tức là quan hệ theo chiều dọc của huyết thống giữa những người có
chung gốc gác tổ tiên, ông bà [Trích Gia đình học, Tr. 55 – 56]
Gia đình còn được coi là một “tổ chức xã hội” cơ bản và tự nhiên nhất
trong các nhóm xã hội. Người ta có thể thay đổi các nhóm bạn, thay đổi nghề
nghiệp và nhóm đồng nghiệp nhiều lần trong cuộc đời nhưng không dễ gì
thay đổi cho mình vào một nhóm gia đình khác. Thêm nữa, việc trở thành
thành viên của một gia đình có ý nghĩa lớn hơn rất nhiều so với việc được liên
kết đơn giản với những cá nhân khác. Là một thành viên trong gia đình cũng
đồng nghĩa với việc được sự thừa nhận những quyền lợi và nghĩa vụ về mặt
pháp lý và văn hóa. Những quyền lợi và nghĩa vụ này được quy định rõ trong
bộ luật của mỗi quốc gia, cũng như trong những phong tục tập quán và truyền

thống dân tộc… Khi đã coi gia đình là một nhóm xã hội thì điều đó cũng có
nghĩa rằng nhóm gia đình phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản nhất của
một nhóm xã hội. Những nguyên tắc này dựa trên vị thế, vai trò cũng với
13


nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm của mỗi thành viên gia đình trong gia đình.
[Gia đình học. tr.57]
Gia đình là một thiết chế xã hội. Theo Hoàng Bá Thịnh, Xã hội học đại
cương [11, tr.202]. Thiết chế gia đình là hệ thống quy định ổn định và tiêu
chuẩn hóa tính giao và sự truyền chủng của con người. Hình thức phổ biến
nhất của nó là chế độ một vợ - một chồng sống chung với con cái trong gia

đình. Nằm trong thiết chế này là các thiết chế phụ thuộc như đính hôn, hôn
nhân, nuôi dưỡng trẻ em, quan hệ thân tộc… Các chức năng của thiết chế gia
đình gồm có: Điều chỉnh hành vi tình dục và giới; Duy trì sự tái sinh sản các
thành viên trong gia đình từ thế hệ này sang thế hệ khác; Chăm sóc và bảo vệ
trẻ em (sơ sinh và thiếu niên); Xã hội hóa trẻ em; Gắn vai trò và thiết lập vị
thế đã được thừa kế từ gia đình; Đảm bảo cung cấp kinh tế gia đình để gia
đình như là một đơn vị tiêu dùng và đơn vị sản xuất.
Theo tác giả Nguyễn Đình Tấn, Gia đình với tư cách là tế bào xã hội đã
tồn tại từ lâu trong sự phát triển của lịch sử. Cơ sở của nó là mối quan hệ hôn
nhân, huyết thống và thân tộc. Theo quan niệm chung nhất, gia đình là một
nhóm xã hội nhỏ đặc thù, có đặc trưng cơ bản là được thiết lập trên cơ sở của
hôn nhân mà từ đó hình thành các quan hệ huyết thống ruột thịt giữa các

thành viên. [11, tr.17]
Trong đề tài này, chúng tôi kết hợp khái niệm về gia đình của các tác
giả trên, đặc biệt là theo quan điểm của tác giả Nguyễn Đình Tấn, để xem xét
gia đình người di dân ở nông thôn là một nhóm xã hội, xem xét mối quan hệ
giữa người di dân và các thành viên khác trong gia đình và tác động của họ
đến các mặt trong đời sống gia đình.
1.1.1.4. Đời sống gia đình nông thôn: Đời sống kinh tế, đời sống văn
hóa, đời sống xã hội, đời sống chính trị
Khác với cách hiểu thông thường về “đời sống” như là cuộc sống
thường ngày, “đời sống” ở đây là nguyên tắc và chuẩn mực để đánh giá mọi
hiện tượng văn hoá. Là cội nguồn cho triết học của Schopenhauer, Nietzsche,
14



cho xã hội học của Max Weber (1864 – 1920), một trong những ông tổ của xã
hội học hiện đại, tâm phân học của Sigmund Freud cho đến triết học sinh thái
của Hans Jonas và “lý thuyết phê phán” của trường phái Frankfurt...
Theo Nietzsche và Spengler: “Đời sống” với các tính chất trái ngược:
tăng cường sức sống hoặc suy đồi, hưng thịnh hoặc suy tàn, trẻ trung hoặc già
cỗi, năng động hoặc trì trệ trở thành những kích thước để phê phán văn hoá.
“Đời sống” trở thành điểm quy chiếu. “Đời sống” là cái toàn thể, bao hàm cả
văn hoá lẫn văn minh, bởi cả hai đều chỉ là những biểu hiện khác nhau trong
quá trình dị biệt hoá của “đời sống”. Điều quan trọng là, chỉ từ nền tảng ấy,
thuật ngữ văn hoá và văn minh mới được sử dụng một cách khách quan và

trung lập về giá trị, nghĩa là, chúng được giải thoát khỏi vai trò làm thước đo
cho phê phán văn hoá. Thật thế, khác với Kant hay Humboldt trước đây,
Nietzsche không cần đồng nhất mình với văn hoá, trái lại, đã có một thế đứng
mới để có thể nhìn văn hoá và văn minh bằng con mắt lạnh lùng và khách
quan. Có thể nói không ngoa rằng chỉ từ khi việc phê phán văn hoá chuyển
hướng sang “đời sống”, thì nguyện vọng xây dựng các môn khoa học xã hội
và nhân văn (gọi chung là “các khoa học văn hoá”) một cách khách quan,
trung lập về giá trị (value-free) theo tinh thần của Max Weber, mới có thể
thực hiện được. Cần lưu ý thêm rằng ở đây, “đời sống” cũng không đồng
nghĩa với “văn hoá”, cho dù văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm cả
“văn hoá” (tinh thần) theo nghĩa hẹp và văn minh. Văn hoá, hiểu rộng như
toàn bộ thế giới cuộc sống của con người, vẫn nằm bên dưới thẩm quyền cao

hơn là “đời sống”, vì xét đến cùng, văn hoá, theo nghĩa rộng, vẫn chỉ là một
hình thái biểu hiện đặc thù của đời sống nói chung: đặc thù trong những điều
kiện và hoàn cảnh sống của con người.
Thông thường, khi nói đến đời sống, người ta thường chia làm hai loại
là “đời sống vật chất” và “đời sống tinh thần”. Trong luận văn này, tác giả đã
phân tích “đời sống gia đình nông thôn” ở các khía cạnh sau:

15


- Đời sống kinh tế: trong đó luận văn sẽ nhấn mạnh vào các yếu tố cụ
thể của đời sống kinh tế như thu nhập chung của gia đình, các điều kiện về

nhà ở, các trang thiết bị, nội thất
- Đời sống tinh thần: đời sống tinh thần gia đình nông thôn được thể
hiện qua sự tham gia của họ trong các hoạt động văn hóa, trong gia đình, địa
bàn sinh sống và xã hội như: thời gian nghỉ ngơi, các hình thức giải trí, lễ hội,
du lịch…
- Đời sống giáo dục: ở luận văn này chúng tôi xét đến hình thức giáo
dục chính thức, tức là hình thức giáo dục thông qua hệ thống trường lớp công
hoặc tư nhân. Đời sống giáo dục của gia đình nông thôn xã Cẩm Văn, huyện
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương sẽ được xem xét ở khía cạnh như trình độ học
vấn và mức độ đầu tư cho giáo dục của con cái.
- Đời sống y tế: Đời sống y tế của gia đình nông thôn được xem xét qua
việc khám sức khỏe định kỳ và chăm sóc sức khỏe cho con cái.

- Đời sống chính trị: Trong luận văn này đời sống chính trị của gia
đình người di dân ở nông thôn được thể hiện qua sự tham gia của người di
dân và gia đình người di dân vào các quá trình ra quyết định của chính quyền
địa phương, các cuộc họp tại thôn, xã, bầu cử và đóng góp ý kiến trong các
cuộc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương.
1.1.2. Lý thuyết
1.1.2.1. Lý thuyết hút – đẩy của Everetts Lee (1966).
Trong lịch sử nghiên cứu về di dân, có nhiều lý thuyết được xây dựng
và lập luận để giải thích hiện tượng này. Một trong những lý thuyết được áp
dụng rộng rãi trong nghiên cứu di dân là lý thuyết “hút – đẩy” của Everetts
Lee. Theo đó, Lee lập luận rằng về cơ bản di dân được dựa trên 4 nhóm nhân
tố: i) các nhân tố liên quan đến nơi đi (nơi ở gốc); ii) các yếu tố liên quan đến

nơi đến; iii) các trở ngại di dân; và, iv) các nhân tố thuộc về người di dân. Cả
nơi đến và nơi đi đều có những đặc điểm thuận lợi hoặc khó khăn về các mặt,
các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội và điều kiện tự nhiên để người di dân
16


cân nhắc như thu nhập, việc làm, nhà ở, phúc lợi xã hội, giáo dục, chăm sóc
sức khỏe, địa hình, khí hậu,… Lực hút tại các vùng dân chuyển đến gồm: đất
đai, tài nguyên, khí hậu, môi trường sống thuận lợi, cơ hội sống thuận lợi, dễ
kiếm việc làm, thu nhập cao, có triển vọng cải thiện đời sống; môi trường văn
hóa – xã hội tốt. Lực đẩy tại các vùng đân chuyển đi : điều kiện sống khó
khăn, khó kiếm việc làm, thiên tai, dịch bệnh; đất canh tác ít, không có vốn để

chuyển đổi ngành nghề đảm bảo cuộc sống; nơi ở cũ bị giải tỏa, di dời; tác
động của các chính sách điều chuyển lao động;… [trích theo 1, tr.47]. Thông
thường, các điều kiện khó khăn về các lĩnh vực như trên ở nơi đi (nơi ở gốc)
được coi là nhân tố “đẩy” chủ yếu của việc xuất cư, trong khi đó những điều
kiện thuận lợi hơn ở nơi đến lại là nhân tố “hút” quan trọng nhất của việc
nhập cư. Ngoài ra, khoảng cách địa lý và các chi phí vật chất và chi phí tinh
thần như chi phí vận chuyển cũng là một yếu tố quan trọng luôn được cân
nhắc trong các quyết định di dân. Yếu tố cuối cùng nhưng cũng vô cùng quan
trọng được các nhà nghiên cứu gọi là “tính chọn lọc di dân” (migration
selective). Yếu tố này phụ thuộc vào những phẩm chất cá nhân của từng
người. Do đó, có thể nói lý thuyết hút đẩy của Lee có tính ứng dụng rộng rãi
cho cả các nghiên cứu vĩ mô và vi mô về di dân.

Như vậy, có thể xem nguyên nhân dẫn đến di dân: Nơi đi và nơi đến –
cả nơi đi và nơi đến đều có lực hút và lực đẩy (vĩ mô), các yếu tố can thiệp (vi
mô) vào các yếu tố cá nhân (trung mô). Các yếu tố tiêu cực tác động như là
lực đẩy, còn các yếu tố tích cực là lực hút. [10]
Việc vận dụng lý thuyết của Lee trong đề tài nghiên cứu này nhằm làm
rõ các nội dung chủ yếu sau:
- Phân tích các động lực di dân mùa vụ nông thôn – đô thị, trong đó các
tập trung phân tích các động lực về kinh tế và quỹ đất nông nghiệp, xem xét
xem liệu động lực kinh tế có phải là động lực chính trong các quyết định di
dân hay không.

17



- Làm rõ các điều kiện lao động, việc làm, điều kiện sống ở khu vực
nông thôn (nơi đi) để tìm hiểu các yếu tố lực đẩy của di dân. Ngược lại, phân
tích các điều kiện sống, lao động, việc làm ở nơi đến để làm rõ các yếu tố lực
hút của di dân mùa vụ nông thôn – đô thị.
- Khi phân tích các điều kiện lao động, việc làm và điều kiện sống ở
nơi đi và nơi đến, sẽ chú trọng vào các điều kiện thuận lợi ở nơi đến và những
khó khăn, hạn chế ở nơi đi. Đồng thời, xem xét xem các điều kiện này có
được cải thiện hơn không.
1.1.2.2. Lý thuyết phân tích mạng lưới xã hội (Social Network
Analysis Theory)

Mạng lưới xã hội là một cách tiếp cận chuyên sâu để lý giải vấn đề di
dân thông qua việc phân tích các vấn đề về mạng lưới xã hội. Thuật ngữ mạng
lưới xã hội đã và đang được các nhà khoa học nghiên cứu, vận dụng trong
xem xét hiện thực xã hội, mỗi nhà khoa học có đưa ra những quan điểm tương
đồng và khác nhau về thuật ngữ này. Lê Ngọc Hùng quan niệm, mạng lưới
xã hội là phức hợp các mối quan hệ của các cá nhân trong các nhóm, tổ chức,
cộng đồng. Các mạng lưới xã hội bao gồm các quan hệ đan chéo chằng chịt từ
quan hệ gia điình, thân tộc, bạn bè, láng giềng, cho tới các quan hệ trong tổ
chức, đoàn thể, tầng lớp, hiệp hội, đảng phái, nghề nghiệp… [7, tr.67 – 75].
Hoàng Bá Thịnh lại cho rằng mạng lưới xã hội gồm toàn bộ các quan hệ xã
hội của các cá nhân và các thành viên của nhóm;… mạng lưới xã hội không
có ranh giới rõ ràng; là một phần quan trọng của cơ cấu xã hội [13, tr.214].

Theo Phạm Xuân mạng lưới xã hội là tổng thể các quan hệ xã hội của cá nhân
trong nhóm xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng xã hội; nó đa dạng, đan cài vào
nhau từ gia đình đến xã hội [14, tr.51]. Lê Minh Tiến cho rằng, mạng lưới xã
hội là tập hợp các mối quan hệ giữa các actor mang nhiều nội dung khác nhau
từ sự tương trợ, trao đổi thông tin cho đến trao đổi dịch vụ [8, tr.51]
Như vậy, mặc dù có một số điểm khác nhau, nhưng về cơ bản các quan
niệm về mạng lưới xã hội thống nhất ở các nội dung chính: mạng lưới xã hội
18


gắn với con người, chỉ sự tương tác quan hệ giữa các cá nhân với cá nhân, cá
nhân với nhóm xã hội, nhóm xã hội với nhóm xã hội; mối quan hệ này phức

hợp, đa dạng, đan cài vào nhau và rất khó để phân định ranh giới.
Trong khái niệm cơ bản của hệ thống xã hội (Social system) có hai khái
niệm là cấu trúc xã hội (social structure) và mạng lưới xã hội (social
network), trong đó cấu trúc xã hội là lát cắt theo chiều dọc, còn mạng lưới xã
hội là lát cắt theo chiều ngang. Mạng lưới xã hội của mỗi cá nhân không
giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa dân tộc và
nhóm, năng lực họa động thực tiễn của họ. Trong cùng một môi trường xã hội
mà mỗi người xác lập phạm vi, tính chất mạng lưới quan hệ xã hội khác nhau.
Mạng lưới xã hội có vai trò quan trọng đối với mỗi con người và xã
hội. Với cá nhân, mạng lưới xã hội tạo môi trường để mỗi người học hỏi xã
hội, qua đó hoàn thiện con người xã hội; thông qua mạng lưới xã hội, các cá
nhân khẳng định cái “tôi xã hội”, tạo ra sự ảnh hưởng và xác lập quyền lực,

uy quyền xã hội trong nhóm xã hội và cộng đồng xã hội. Một số nhà xã hội
học cho rằng mạng lưới xã hội gắn liền với “vốn xã hội”, vốn xã hội ở trong
mạng lưới xã hội và mạng lưới xã hội là thành tố của vốn xã hội. Do đó, vốn
xã hội là nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội, các cá nhân có thể sử dụng
vốn xã hội là mạng lưới xã hội để tạo dựng sự thăng tiến xã hội, tìm kiếm lợi
ích, đảm bảo cuộc sống cho mình, gia đình và nhóm xã hội. Quá trình công
nghiệp hóa nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hóa với sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin và các thành tựu khoa học đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
các cá nhân mở rộng mạng lưới xã hội cũng như làm phong phú hơn vốn xã
hội của mình, phát huy vốn xã hội tốt hơn.
Với xã hội, mạng lưới xã hội tạo ra đoàn kết xã hội, sự thống nhất hành
vi trong các nhóm xã hội. Chứng minh cho điều này, đã có một số nhà xã hội

học đã đưa ra những luận điểm, khái niệm, lý thuyết liên quan dựa trên mối
quan tâm về cách tiếp cận mạng lưới. Một trong số đó là tác giả E. Durkheim
theo thuyết cấu trúc – chức năng với khái niệm đoàn kết xã hội bao gồm đoàn
19


kết cơ học và đoàn kết hữu cơ. Phân công lao động giản đơn và phức tạp tạo
nên kiểu quan hệ xã hội giữa các cá nhân và theo đó hình thành đoàn kết cơ
học và đoàn kết hữu cơ; và mạng lưới quan hệ chức năng đặc trưng cho đoàn
kết hữu cơ.
Trong các tác phẩm của C.Mác, Ph. Ăng ghen bàn thảo nhiều về con
người và quan hệ xã hội của con người. Có thể khái quát nội dung cơ bản của

Mác, Ăng ghen về con người: Một là, con người là tổng hòa các quan hệ xã
hội; là một điển hình xã hội. Hai là, con người và các quan hệ xã hội của họ
làm nên xã hội, do đó phân tích con người phải bắt đầu từ các hoạt động đời
sống của họ. Ba là, con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh.
Bốn là, trong xã hội mỗi con người có một chức năng xã hội nhất định.
Vận dụng trong đề tài nghiên cứu tác động của di dân mùa vụ nông
thôn đô thị đến đời sống gia đình nông thôn cho phép tìm hiểu các mối quan
hệ xã hội của người di dân, trong đó có các quan hệ ở nơi đi và nơi đến để
phân tích nguyên nhân di dân, các quan hệ xã hội đó có ảnh hưởng thế nào
đến lao động, việc làm của người di dân. Mạng lưới xã hội của người di dân
có tạo điều kiện thuận lợi hay gây ra những trở ngại gì cho người di dân trong
việc tìm kiếm việc làm, đời sống sinh hoạt cá nhân của họ không? Ngược lại,

di dân có tác động trở lại thế nào đối với quan hệ xã hội ở nơi đến và nơi đi,
trong đó chú trọng đến quan hệ gia đìng, dòng tộc và làng xóm.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.2.1.1. Một số đặc trưng cơ bản của di dân mùa vụ nông thôn – đô thị
Việt Nam
Lịch sử di dân ở Việt Nam được chứng kiến nhiều cuộc di dân với các
đặc trưng khác nhau qua từng thời kỳ. Trước năm 1975, trên miền Bắc, chúng
ta đã thực hiện chủ chương đưa dân cư từ các tỉnh đồng bằng lên các tỉnh
miền núi, điều chỉnh số dân từ các địa phương có mật độ dân số cao đến các
địa phương có mật độ dân số thấp. Sau năm 1975, Việt Nam tiếp tục thực
20



hiện chủ trương di dân kinh tế mới, đưa một bộ phân dân cư từ khu vực đô
thị, đồng bằng miền Nam, ở một số tỉnh thành miền Bắc đến các tỉnh Tây
Nguyên, đồng bằng song Cửu Long . Về tổng thể, chủ yếu các luồng di dân là
di dân theo kế hoạch, theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Các chủ trương,
chính sách này nhằm bố trí lại dân cư đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa và đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Song song với di dân có tổ chức thì di dân tự do đã là một hiện tượng xã hội
mang tính phổ biến với quy mô, mức độ, tính chất ở mỗi giai đoạn, mỗi địa
phương khác nhau. Di dân tự do diễn ra trong nôi tỉnh, nội vùng, trong phạm
vi quốc gia và quốc tế, di dân nông thôn – đô thị…

Những thập kỷ gần đây, khi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đang diễn ra một cách mạnh mẽ và quá trình đô thị hóa cũng được đẩy mạnh
thì di dân tự do nông thôn – đô thị theo đó cũng phát triển về quy mô, mức độ
và tính chất. Về quy mô, theo kết quả điều tra từ Cuộc Tổng điều tra dân số
năm 1999 cho thấy xu hướng dài hạn trong di dân ở Việt Nam (trong khoảng
thời gian 5 năm cho đến trước thời điểm điều tra). Trong thời gian từ 1994 1999, trong tổng số hơn 4,5 triệu người từ 5 tuổi trở lên di chuyển, thì 50,2%
đến các đô thị, 49,8% về vùng nông thôn. Trong tổng số 50,2% chuyển đến
các đô thị thì 24,6% từ nông thôn, 23,9% từ đô thị và 1,7% là không xác định
Trong khi di dân vào đô thị chiếm ưu thế thì di dân từ đô thị về nông thôn chỉ
chiếm 10,9% tổng số người chuyển cư.
Nhờ phát triển công nghiệp, dịch vụ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
vùng Đông Nam Bộ có quy mô di dân vào đô thị lớn nhất cả nước (1058,8

nghìn người) và quy mô di dân nông thôn – đô thị cũng lớn nhất cả nước (475
nghìn người, chiếm 44,9% tổng số người di dân vào đô thị của vùng). Đồng
bằng Sông Hồng có quy mô di dân vào đô thị lớn thứ hai (429,5 nghìn người),
trong đó luồng di dân từ nông thôn là 170,5 nghìn người (chiếm 39,7%). Ở các
vùng còn lại, số người di dân từ nông thôn vào đô thị chiếm hơn ½ tổng số
nhập cư vào đô thị (đặc biệt là ở Tây Nguyên và Đồng bằng song Cửu Long).
21


Luồng di dân nông thôn – đô thị chiếm ưu thế so với các luồng di dân
khác và là nguồn tăng dân số đô thị trong suốt giai đoạn 1994 -1999. Những
người di dân từ nông thôn lên đô thị gặp nhiều khó khăn trong việc thích ứng,

hội nhập với cuộc sống đô thị, đặc biệt là trong việc tìm kiếm nơi ở, việc làm,
tiếp cận các dịch vụ xã hội. Họ phải đương đầu với việc thay đổi nghề nghiệp
từ khu vực nông – lâm – ngư sang công nghiệp và dịch vụ. Trong điều kiện cụ
thể của nước ta thì dòng di dân nông thôn vào đô thị còn gây ra nhiều sự quan
ngại do sức ép lớn lên, trong khi môi trường đô thị vốn đã không đáp ứng tốt
nhu cầu hiện tại của đô thị.
Năm 2009, nước ta tiến hành Tổng Điều tra dân số. Kết quả Tổng Điều
tra dân số, nhà ở Việt Nam năm 2009 [25] đã đưa ra một số kết luận tổng
quan về vấn đề di dân như:
Nhìn chung dân số di dân giữa các tỉnh có xu hướng ngày càng tăng về
cả số lượng và tốc độ tăng, từ 1,3 triệu người năm 1989 lên 2 triệu người năm
1999 và tăng lên 3,4 triệu người năm 2009. Tỷ trọng dân di dân này trong

tổng dân số tăng từ 2,5% năm 1989 lên 2,9% năm 1999 và lên 4,3% năm
2009. Trong khi tỷ lệ tăng hàng năm của dân không di dân giảm từ 2,4%
trong giai đoạn 1989-1999 xuống 1,1% trong giai đoạn 1999-2009, tỷ lệ tăng
hàng năm của dân di dân giữa các huyện tăng từ 0,6% lên 4,2% và tỷ lệ này
trong nhóm dân di dân giữa các tỉnh tăng từ 4,0% lên 5,4%. Một dự báo dân
số đơn giản cho thấy, tất cả các dòng di dân sẽ tăng lên và cụ thể là dòng dân
di dân giữa các tỉnh sẽ tăng lên gần 6 triệu người, chiếm 6,4% tổng dân số vào
năm 2019.
Hiện tượng “nữ hóa di dân”. Số liệu Tổng điều tra cho thấy nữ giới
chiếm trên một nửa số dân di dân ở hầu hết các nhóm dân di dân. Hơn nữa, tỷ
lệ nữ trong nhóm dân di dân tăng, trong khi tỷ lệ này trong nhóm không di
dân lại giảm qua ba thập kỷ gần đây. Nữ giới cũng có xu hướng di dân nhiều

hơn ở các cấp hành chính thấp hơn (chẳng hạn di dân giữa các xã nhiều hơn
di dân giữa các tỉnh).
22


Số liệu Tổng điều tra 2009 cho thấy đa số dân di dân, đặc biệt là di
dân liên tỉnh, là những người trẻ, tập trung trong nhóm từ 15 đến 29 tuổi.
Dân di dân giữa các tỉnh có độ tuổi trẻ nhất với tuổi trung vị là 24 tuổi; di
dân giữa các huyện và di dân trong huyện nhiều tuổi hơn một chút và tuổi
trung vị tương ứng của hai nhóm này là 25 và 26 tuổi. Trái lại, người không
di dân có tuổi trung vị là 30 tuổi. So sánh cấu trúc tuổi của người di dân và
không di dân qua 3 cuộc tổng điều tra dân số cho thấy dân di dân, đặc biệt

là nhóm phụ nữ di dân, ngày càng trẻ hơn trong khi dân số không di dân
ngày càng già hơn. Tuổi trung vị của nhóm phụ nữ di dân giảm từ 25 tuổi
theo số liệu Tổng điều tra năm 1989 xuống 24 tuổi ở năm 1999 và xuống
tiếp còn 23 tuổi ở năm 2009. Trong khi đó, tuổi trung vị của phụ nữ không
di dân tăng mạnh từ 25 tuổi theo số liệu Tổng điều tra năm 1989 lên 28 tuổi
năm 1999 và lên tiếp tới 31 tuổi năm 2009.
Các luồng di dân khác nhau giữa các vùng địa lý và các tỉnh: Vùng
Đông Nam Bộ là vùng nhập cư chủ yếu trong giai đoạn 1994-1999 và tốc độ
nhập cư đến vùng này tăng nhanh hơn trong giai đoạn 2004-2009. Ngược lại,
vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và vùng Đồng bằng sông Cửu
Long là nơi xuất cư chủ yếu trong giai đoạn 1994-1999 và tốc độ xuất cư khỏi
các vùng này cũng tăng nhanh hơn trong giai đoạn 2004-2009. Tổng điều tra

năm 2009 cho thấy dân nhập cư chiếm tới trên 10% tổng số dân ở một số tỉnh;
đặc biệt, trên một phần ba số dân của tỉnh Bình Dương là người nhập cư.
Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng một triệu người và Bình Dương có
khoảng nửa triệu người nhập cư thuần (số dân nhập cư trừ số dân xuất cư).
Ngược lại, ở nhiều tỉnh, dân nhập cư chỉ chiếm dưới 1% số dân của các tỉnh
đó và ở một số tỉnh dân số xuất cư nhiều hơn nhập cư.
Số liệu TĐT dân số và nhà ở cho thấy dân không di dân sống ở đô thị
có nhiều lợi thế hơn dân không di dân sống ở nông thôn: dân không di dân
sống ở đô thị được đào tạo cao hơn, mức sống cao hơn, tỷ lệ người lớn đã
hoàn thành bậc tiểu học cao hơn, tỷ lệ sử dụng nguồn nước sạch và hố xí hợp
23



vệ sinh cao hơn. Các kết quả cũng cho thấy dân di dân từ nông thôn ra đô thị
có nhiều lợi thế hơn dân không di dân sống ở nông thôn và đôi khi hơn cả dân
không di dân sống ở đô thị. Một mặt, các kết quả TĐT cho thấy chất lượng
sống của dân di dân từ nông thôn ra đô thị có những cải thiện đáng kể sau di
dân do điều kiện sống ở khu vực đô thị cao hơn hẳn khu vực nông thôn. Mặt
khác, các kết quả trên phần nào bị ảnh hưởng bởi tính chọn lọc của dân di
dân: dân di dân từ nông thôn ra đô thị là những người khá giả hơn và có trình
độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật cao hơn những người không di dân ở
nông thôn nơi họ ra đi. Tính chọn lọc của di dân này góp phần làm gia tăng
khoảng cách giữa nông thôn và đô thị thông qua di dân.
Số liệu điều tra dân số cho thấy tỷ lệ đang học tiểu học và trung học cơ

sở của trẻ em trong độ tuổi đến trường này ở nhóm trẻ em di dân thấp hơn
đáng kể so với nhóm trẻ em không di dân. Khác biệt rõ ràng và lớn nhất được
tìm thấy trong nhóm trẻ em di dân giữa các tỉnh.
Dân di dân đã và đang tăng nhanh và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong
tổng dân số. Các cơ quan bộ ngành ở trung ương và địa phương khi xây
dựng các kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở trung ương và
địa phương cần quan tâm nhiều hơn đến số lượng và đặc điểm dân di dân.
Mặt khác, các chiến lược nhằm giúp cải thiện cuộc sống và phát triển nhân
lực dành cho người dân di dân cần phải được lồng ghép vào tất cả các chính
sách, kể cả các kế hoạch phân bổ ngân sách có liên quan.
Số liệu từ TĐT cho thấy xu hướng rõ ràng về hiện tượng "nữ hóa di
dân”. Tính dễ bị tổn thương và sự thiệt thòi của nữ di dân cho thấy cần những

chính sách về di dân cần tính tới khía cạnh giới để không bỏ quên nhóm dễ bị
tổn thương.
Để giảm sự cách biệt về điều kiện sống giữa nơi đi và nơi đến của dân
di dân, các chính sách phát triển quốc gia và phát triển vùng cần phát huy tối
đa những lợi ích do di dân mang lại và giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi và
những khó khăn mà người dân nơi đi phải đối mặt. Các nghiên cứu cho thấy
24


×