Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

sự SUY GIẢM SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÕ HÀ NỘI DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CỔNG NGHIỆP HÓA- ĐỠ THỊ HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 18 trang )

sự SUY GIẢM SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÕ HÀ NỘI
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CỔNG NGHIỆP HÓA- ĐỠ THỊ HÓA






P han Thi Ngoe'

Tóm tắt: Ở tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam , đất nông nghiệp là tài sản
quý giá nhất, nguồn lực quyết định để người nông dân tồn tại và phát triển. Tuy
nhiên, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt Nam , mà cụ thể là ở khu vực
ven đô Hà Nội trong hơn hai thập kỷ vừa qua đã kèm theo quá trình chuyển đổi
diện tích rất lớn đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp để phục vụ các mục
tiêu phát triển, làm cho diện tích đất nông nghiệp tính trên đầu người và quy mô
ruộng đất ở các làng giảm đi nhanh chóng, đồng nghĩa với vị trí nền tảng của
nền nông nghiệp bị mất dần và tỷ trọng của nó ngày càng bị thu hẹp. Câu hỏi
đặt ra là, trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp còn lại ít ỏi, bị xen ghép với
các hoạt động sinh kế khác và hệ thống thủy lợi không còn hoạt động thì người
nông dân sẽ duy trì hoạt động canh tác nốn% nghiệp như thế nào, sự biến đổi của
"nghề nông" ở các vùng ra sao và đối tượng duy trì làm nghề nông là những ai?
Một số vấn đề sẽ được luận giải qua trường hợp nghiên cứu một làng ven đô cụ
thể của Hà Nội.

Từ khóa: Vùng ven đô, thu hồi đất, nông nghiệp ven đô, sinh kế.
1.

MỞ ĐẨU

Ở m ột quốc gia nông nghiệp n h ư Việt N am , đ ất nô n g n gh iệp là


tài sản quý giá nhất, n g u ồ n lực quyết định để người n ô n g d ân tồn
tại và p h át triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa ở
Việt N am nói chung, k h u vực các làng ven đô Hà Nội nói riêng (cụ thể
là làng Gia Trung, h u y ện Mê Linh, th àn h phố H à Nội) trong kh oảng
hai thập kỷ vừa qua đã kèm theo quá trình chuyển đổi diện tích rất lớn
đất nông nghiệp để phục vụ m ục tiêu xây dự ng các k hu công nghiệp,
khu đô thị và các hoạt động phi nông nghiệp khác. Dẫn đ ến diện tích
* Bảo tàng Nhân học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN.


s ự S U Y GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI...

đất nông nghiệp tính trên đ ầu người và quy mô ru ộng đ ất ở các làng
giảm n h an h chóng, đồng nghĩa với vị trí nền tảng của sản xuất nông
nghiệp bị m ất dần và tỷ trọ n g ngày càng bị thu hẹp. Điều này hàm
nghĩa, dưới sự thúc đẩy của quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa,
nền nông nghiệp ven đô - p h ư ơ n g thức sinh kế truyền thống của người
nông dân sẽ ngày càng bị biến đổi và suy giảm. Tùy theo vị trí và năng
lực tự thân m à người n ô n g d â n chuyển sang làm nhiều loại hình sinh
kế mới (công nhân, kinh d o an h nhà trọ, buôn bán dịch vụ v.v), trong
khi còn m ột bộ p h ận nông d ân vẫn d uy trì và bám lấy nghề nông như
một ph ư ơ n g thức m ưu sinh "không dễ từ bỏ".
Câu hỏi đặt ra là, trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp còn
lại ít ỏi, bị xen ghép với các hoạt động sinh kế khác và hệ thống thủy
lợi không còn hoạt động thì người nông d ân sẽ duy trì hoạt động canh
tác nông nghiệp n h ư thế nào, sự biến đổi của "nghề nông" ra sao và
đối tượng d u y trì làm nghề n ô n g là n h ữ n g ai? Báo cáo này m ong m uốn
khảo sát n h ữ n g biến đổi của hoạt động sản xuất nông nghiệp, của
nghề nông trong chiến lược sinh kế với tham chiếu là n h ữ n g người
nông dân sống ở các làng ven đô Hà Nội qua vấn đề nghiên cứu "Sự

su y giảm sản xuất nồng nghiệp ở một làng ven đô Hà Nội dưới tác động của
công nghiệp hóa - đô thị hóa".

2.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ KHẮI NIỆM

2.1. Tinh hình nghiên cứu

Cho đ ến nay, tầm quan trọng của đất nông nghiệp và nhữ n g
biến đổi của đất nông nghiệp đã được đề cập trong các nghiên cứu
của nhiều tác giả khác n h au trên thế giới. Lungisile N tsebeza (2010)
qua n gh iên cứu "Land and Livelihoods in rural South Aírica: W hat
prospects for agricultural activities" chỉ ra rằng, N am Phi cho đ ến nay
là ví d ụ rõ ràng n h ất cho việc diễn ra quá trình thu hồi đất đai. Trong
nh ữ n g th ập kỷ đầu của thế kỷ XX, ở đất nước này, hơn 90% đ ất đai
của d ân bản địa bị cưỡng chế thu hồi, làm giảm số lượng lớn nông
dân. N h ữ n g người còn lại tro n g k hu vực nông thôn đã buộc phải dựa
vào các h o ạt động phi n ô n g nghiệp chủ yếu dưới h ìn h thức tiền gửi

213


214

Phan Thị Ngọc

từ n h ữ n g lao động di cư m ang lại. Tinh trạn g thiếu đất sản xuất là tác
n h ân ngăn cản sự ngư n g trệ của sản xuất n ô n g nghiệp, d ẫn đến hiện
tượng di cư ồ ạt đ ến các khu vực đô thị. Vai trò của đ ất n h ư m ột chiến

lược sinh kế của người n ô n g dân ngày càng ít quan trọng. Sự suy giảm
giá trị của đất cũng được n h ìn thấy trong bản chất và h ìn h thức tổ
chức và đấu tranh chống lại chế độ thực d ân và phân biệt chủng tộc ở
N am Phi. N ăm 1994, N am Phi bắt tay vào chư ơ ng trình cải cách ru ộng
đất, về m ặt lý thuyết, nó tạo ra m ột tình h u ố n g để người da đen nh ữ n g người trước đây đã chán n ản các hoạt động n ô n g nghiệp, bây
giờ có thể tiếp cập được đất đai, tạo cơ hội sinh kế cho h àn g triệu người
đang sinh sống tại các vùng nông thôn. Tuy n h iên trong lời kết bài báo,
tác giả đưa ra cảnh báo: cải cách ruộng đ ất ở N am Phi kh ô n g phải là
thuốc chữa bách b ện h cho vấn đề thất nghiệp trước sự bất lực trong
việc giải quyết việc làm ở khu vực đô thị.
Dưới m ột góc n h ìn khác, nghiên cứu "Land, íarm ing, livelihoods
and poverty: R ethinking the links in the ru ral South, Jonathan Rigg
(2009) lại chỉ ra xu h ư ớng p h át triển hiện nay của sản xuất nông nghiệp
ở khu vực nông thôn p h ư ơ n g N am , đó là cuộc sống và sinh kế của
người nông d ân ở nông th ô n phư ơng N am ngày càng tách rời khỏi
đ ất đai và nông nghiệp. Theo tác giả, sinh kế ở nhiều nơi và của nhiều
hộ gia đình ở nông thôn p h ư ơ n g N am từ trước đến n ay chủ yếu p h ụ
thuộc vào nông nghiệp sản xuất nhỏ. Tuy nhiên, trong vài thập thập
kỷ trở lại đây, các hoạt động phi nông nghiệp ngày càng giữ vai trò chi
phối trong nền kinh tế và đời sống người n ô n g dân. M inh chứng mà
nghiên cứu đưa ra là n h ữ n g kinh nghiệm lịch sử trong sự biến đổi của
nông nghiệp ở N hật Bản, Đài Loan và H àn Q uốc, nơi cảnh quan nông
thôn đã được chuyển hóa sâu sắc trong 30 hay 40 năm trước.
Ngoài ra, Tổ chức Lương thực và N ông nghiệp Liên H ợp Quốc
(FAO) trong n h ữ n g năm vừa qua đã tổ chức n hiều chương trình nghiên
cứu về nông nghiệp, n h ất là nông nghiệp ven đô ở n hiều kh u vực trên
thế giới thông qua các nghiên cứu trường hợp, nhằm cung cấp chính
sách và hỗ trợ kỹ thuật, và bắt đầu xây d ự n g m ột cơ sở th ô n g tin về đặc
điểm của nền n ô n g nghiệp ở khu vực ven đ ô và đô thị. Các nghiên cứu



s ự SU Y GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI..

đã đóng góp cho sự hiểu biết hơn về các vấn đề và đặc trưng của nông
nghiệp ven đô và đô thị. (FAO, 2007).
Có thể thấy, các nghiên cứu về hoạt động sản xuất nông nghiệp có đối
tượng chủ yếu là vùng nông thôn khu vực Nam Bán cầu, bao gồm vùng
nông thôn châu Phi và châu Á, nơi mà nông nghiệp giữ vai trò nguồn sinh
kế quan trọng và hình thành bản sắc văn hóa của người nông dân. Dù là
phát triển theo xu hướng nào thì đất đai và sản xuất nông nghiệp ở các
khu vực trên đều đã và đang bị biến đổi, ngày càng bị thu hẹp, vị trí và vai
trò của người nông dân ngày càng giảm và xu hướng hoạt động phi nông
nghiệp ngày càng gia tăng và chiếm vị trí quan trọng.
Ở Việt N am thời gian qua, m ột số nghiên cứu về khu vực ven đô
Hà Nội thư ờ ng bàn về n h ữ n g tác động của quá trình th u hồi đất nông
nghiệp đến đời sống người nông dân và trong các công trình nghiên
cứu, sách chuyên khảo về k h u vực ven đô cũng thường nhắc đ ến các
từ khóa n h ư "nông n g h iệp ven đô", "đất nông nghiệp", "nông dân".
Tuy nhiên, tro n g bối cảnh th u hồi đất nông nghiệp ồ ạt để phục vụ mục
tiêu p hát triển công nghiệp, đô thị ở khu vực ven đô hiện nay thì nền
"nông nghiệp ven đô" sẽ n h ư thế nào, "đất nông nghiệp" bị biến động
đến đâu và cuộc sống của người "nông dân" m ất đất ra sao thì nhữ ng
d ẫn chứng đư a ra chưa đú cụ thể, vừa chưa đ ủ sâu sắc để đ án h giá
khách quan giả thuyết n g h iên cứu đưa ra.
Công trìn h nghiên cứu "Biến đổi kinh tế - xã hội ở vù n g ven đô Hà
N ội trong quá trình đô thị hóa" của N guyễn H ữu M inh và đồng nghiệp

ngay từ 2005 đã kh ẳn g đ ịn h có sự dịch chuyển cơ cấu nghề nghiệp, cơ
cấu nguồn th u và m ức sống của người nông dân sau khi bị thu hồi đất.
Xu hướng chuyển đổi n g h ề nghiệp đang hướng đến các hoạt động

h ư ởng lương và trợ cấp, sản xuất thủ công và buôn bán dịch vụ. Đ ồng
thời cũng chỉ ra sản xuất n ô n g nghiệp ở các vùng ven đô vẫn giữ một
vị trí đáng kể trong hoạt đ ộ n g sinh kế của nông dân. Tuy nhiên, vị trí
của nền nông nghiệp ven đô được du y trì và sản xuất n h ư thế nào thì
nghiên cứu này chưa đề cập tới.
N g h iên cứ u " S ử dụng vốn xã hội trong chiến lược sinh kế của nông dân
ven đô Hà N ội dưới tác động của đô thị hóa" (2007), N guyễn D uy Thắng

215


216

Phan Thị Ngọc

cho rằng công nghiệp hóa, đô thị hóa là để p h át triển, n h ư n g sự p h át
triển này cũng tạo sức ép và thách thức cho nông d ân v en đô. Việc th u
hồi đất đã dẫn đến số hộ th u ần nông giảm m ạnh. T hành p hố đã có
chính sách đền bù, hỗ trợ n h ằm chuyển đổi nghề cho các hộ bị thu hồi
đất. lu y nhiên, việc đào tạo nghề m ang lại hiệu quả kh ô n g cao, đặc biệt
là nh ữ n g lao động n ữ độ tuổi từ 35 đến 40.
Nhiều thảo luận về vị trí và xu hư ớng p h át triển của n ô n g nghiệp
ven đô cũng được bàn luận, nghiên cứu "N ông nghiệp và phát triển đô
thị tại Hà Nội" của Denis Sautier, Đào Thế Anh, Phạm Công N ghiệp,

N guyễn Ngọc Mai (2013) đã thừa nhận vai trò tích cực của n ô n g nghiệp
ven đô trong việc giải quyết việc làm, cung cấp thực ph ẩm và các dịch
vụ phục vụ cho toàn đô thị. Vì vậy, cần d u y trì hoạt đ ộ n g n ô n g nghiệp
ở vùng ven đô, đây là vấn đề quan trọng không chỉ về m ặt kinh tế m à
cả về xã hội.

Có thể thấy, các vấn đề liên quan đ ến đất đai và n ền n ô n g nghiệp
ven đô được cả xã hội quan tâm và nghiên cứu với nhiều hư ớng tiếp cận
khác n h a u (kinh tế học, xã hội học, q uản lý V.V.). Tuy n hiên, v ẫn chư a có

nhiều các công trình nghiên cứu Dân tộc học - N hân học về vấn đề này.
Khảo sát của tôi tại địa bàn nghiên cứu cho thấy, các chủ trương,
chính sách phát triển của N hà nước có n h ữ n g tác động tích cực đến đời
sống người nông dân làng Gia Trung, song việc thu hồi h ơ n 70% diện
tích đất nông nghiệp của làng đã khiến cho nền nông nghiệp ở đây bị
sụt giảm nghiêm trọng, thậm chí bị "chững lại". Để hiểu được hiện trạng
và xu hướng p h át triển của nông nghiệp hiện nay ở Gia Trung, tôi tập
trung nghiên cứu vào n h ữ n g biến động đất đai của làng trong lịch sử,
đặc điểm của nông nghiệp và vị trí của người nông dân Gia Trung trong
khoảng hơn m ột thập kỷ vừa qua. Trong nghiên cứu này, tôi tiến hành
điền dã dân tộc học ở địa bàn nghiên cứu. Trên thực địa, các phư ơng
pháp nghiên cứu cơ bản của ngành học n h ư quan sát tham gia, phỏng
vấn sâu được sử d ụ n g để khai thác và thu thập tài liệu d ân tộc học.
Ngoài ra, tôi cũng đã khảo sát và khai thác các nguồn tài liệu thành văn
là các văn bản của các cấp chính quyền N hà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội ở địa phương. N guồn tài liệu này cho p h ép tôi có được nhữ ng


s ự SUY GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở M ỘT LÀNG VEN Đ ô HÀ NỘI.

thông tin đ ịn h lượng, n h ư m ột số số liệu thống kê, để kết hợp với các tài
liệu định tính thu được từ q u an sát tham gia và phỏng vấn.
2.2. Một số khái niệm

* Làng ven đô
Trong nghiên cứu về làng Việt và những biến đổi kinh tế và xã hội ở

làng Việt truyền thống và hiện đại trong gần hai thập kỷ trở lại đây, khái
niệm làng không còn là vấn đề mới, nhưng 'làng ven đô' là một khái niệm
mới, thể hiện sự giới hạn của các làng Việt thuộc vùng ven các đô thị mà cụ
thể trong nghiên cứu này là của thành phố Hà Nội. Bản chất biến đổi của
nó là một trong nhữ ng đặc điểm quan trọng nhất để định nghĩa về ven đô.
Khi nghiên cứu về v ù n g ven đô trong quá trình tái lãnh thổ ở
Đ ông N am Á, M icheal Leaf cho rằn g vùng ven đô Đ ông N am Á có thể
coi là n h ữ n g địa giới theo ít n h ấ t 3 nghĩa.
Thứ nhất, ch ú n g là n h ữ n g địa giới của sự đô thị hóa theo nghĩa

rộng n h ất của từ này, bắt n g u ồ n từ sự m ở rộng ra bên ngoài của cái
thường gọi là n h ữ n g chức n ă n g đô thị trên khắp các khu vực với đà
gia tăng kh ô n g ngừng.
Thứ hai, sự gia tă n g n h a n h c h ó n g các hoạt đ ộ n g p h i n ô n g nghiệp.
Thứ ba, vùng ven đỏ còn là đ ư ờ n g ranh giới, địa giới h àn h chính.

Đây là kết quả của quá trình tái lãnh thổ do N hà nước thực hiện thông
qua chính quyền địa phương. Theo kiểu xác định lại ranh giới đô thị hạt
nhân, hoặc được tiến h àn h theo kiểu tăng thêm (trường hợp các quận
mới vốn thuộc v ù n g nông th ôn của thành phố Hồ Chí Minh), hoặc theo
kiểu sáp n h ập các tỉnh p h ụ cận n h ư chính quyền thành phố Hà Nội đã
thực hiện vào tháng 8 năm 2008 (Michael Leaf, 2008, tr.461-481).
Dưới góc độ quản lý, các n h à hoạch định chính sách đã đưa ra một
số định nghĩa về v ù n g ven đô, có thể tóm tắt n h ư sau: "về m ặt địa lý,
vùng ven đô được hiểu là k h u vực kế cận với th àn h phố. V ùng ven đô
là nơi vừa có các hoạt đ ộ n g đặc trư ng cho nông th ô n vừa có các hoạt
động m an g tính chất đô thị. V ùng ven đô không tồn tại độc lập mà
nằm tro n g m ột m iền liên th ô n g nông thôn - ven đô - đô thị. Các mối

217



218

Phan Thị Ngọc

quan hệ tương tác lẫn n h au của các bộ phận hợp th àn h hệ th ố n g n ô n g
thôn - ven đô - đô thị được thể hiện ở chỗ nông thôn và ven đô là nơi
cung cấp thường xuyên, lâu dài lương thực thực phẩm , ng u ồ n n g u y ên
liệu và nguồn lao đ ộ n g cho đô thị, ngược lại đô thị tạo ra thị trư ờ ng để
tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, tạo cơ hội việc làm và nơi ở cho các
dòng di dân từ nông thôn đ ến đô thị và cung cấp các sản ph ẩm p h ụ c
vụ cho sản xuất nông nghiệp (N guyễn Duy Thắng, 2009, tr.80).
N ếu xem xét từ tiêu chí địa giới hành chính thì: "Làng ven đô ở đây
được hiểu bao gồm ngoài các làng thuộc các huyện ngoại th à n h n h ư
Thanh Trì, Gia Lâm, Sóc Sơn, Đ ông Anh, Từ Liêm còn có tất cả các làng
thuộc các quận: c ầ u Giấy, Tầy Hồ, Thanh Xuân, H oàng Mai và Long
Biên, vốn là các làng (thuộc xã, huyện) được chuyển thành các làng
trong phường (thuộc quận) trong khoảng thời gian mươi năm trở lại
đây" (Ngô Văn Giá, 2007, tr.7). Theo quan niệm này thì toàn bộ các làng
thuộc các huyện mới sáp nhập năm 2008 của tỉnh Hà lầ y và h u y ện Mê
Linh được xác định là ranh giới mới của các làng ven đô. M ột lần nữa,
địa giới các làng ven đô của H à Nội được m ở rộng về biên độ và quy mô.
N hư vậy, khái niệm làng ven đô được hiểu m ột cách tư ơ n g đối là
các làng thuộc k hu vực ngoại th àn h của thành phố Hà Nội. Theo đó,
vùng ven đô là m ột k hu vực có địa giới hành chính không ổ n đ ịn h , có
thể biến đổi theo hư ớng được tách ra, nhập vào hoặc điều ch ỉn h dưới
tác động của chính sách và kế hoạch phát triển của N hà nước.
* N ông nghiệp ven đô
Hiện nay, vẫn chưa có khái niệm thống nhất về "nông nghiệp ven

đô". Trong các chương t ì n h nghiên cứu về nông nghiệp ở khu vực ven
đô và đô thị trên thế giới, Tổ chức Lương thực và N ông nghiệp Liên H ợp
Quốc (FAO) thường xuyên sử dụng thuật ngữ "UPA" - để chỉ hoạt động
nông nghiệp ở khu vực đô thị và khu vực ven đô. Trong đó, "nông nghiệp
ven đô là hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra ở ngoại vi các thành
phố, có xu hướng thay đổi m ạnh mẽ trong thời gian qua; gắn với dòng
dân di cư từ nông thôn vào khu vực đô thị; giá đất nông nghiệp tăng và
ngày càng bị thu hẹp. N hững thay đổi này ảnh hưởng đến hệ thống sản
xuất nông nghiệp, trong đó rõ nhất là sự chuyển đổi từ cây trồng chủ lực


s ự SUY GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N GH IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI.

(cây lúa) sang các loại cây rau màu và sản xuất thực phẩm (thịt, trứng, sữa)
gắn với đời sống đỏ thị" (FAO, 2007, tr.5).
Ở Việt N am , "nông nghiệp ven đô" là chỉ khu vực nông nghiệp ven
các đô thị hay ven các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vùng có đông
dân cư. Đặc điểm của nông nghiệp ven đô là ít đất sản xuất trong khi
thừa lao động (do lao động nông nghiệp chưa chuyển kịp sang ngành
nghề khác bởi nhiều nguyên nhân khác nhau). N ông nghiệp ven đô cực
kỳ có ý nghĩa với đô thị, hay khu công nghiệp vì sản phẩm nông nghiệp
làm ra sẽ cung cấp trực tiếp cho dân cư vùng đó [].
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra m ạnh mẽ ở nhiều
làng ven đô đang đặt ra vấn đề cấp bách là phải xây dựng các mô hình
sản xuất nông nghiệp p h ù hợp với điều kiện đất đai, thị trường v.v. giúp
người dân ổn định cuộc sống. N hữ ng quan sát đương đại trong thời
gian qua cho thấy, các lãnh thổ nông nghiệp và hoạt động sản xuất nông
nghiệp ở m ột số làng ven đô Hà Nội đang có những chuyển dịch theo
hướng nông nghiệp đô thị, sản xuất thực phẩm chất lượng cao, trồng
hoa, cây cảnh để cung cấp cho Hà Nội. Đơn cử, tại m ột số xã/phường

như Phú Lãm, Biên Giang, Văn Q uán, Mê Linh v.v... cùng với các ngành
nghề dịch vụ, buôn bán, việc phát triển các mô hình trồng rau an toàn,
hoa, cây cảnh không chỉ tạo việc làm, mà còn góp phần đáng kể tăng thu
nhập cho nông dân. H ay xu hướng "trồng cỏ" để trang trí nhà cửa, biệt
thực, khách sạn v.v. của nông dân huyện Từ Liêm đã tìm được mô hình
nông nghiệp p h ù hợp trong bối cảnh đất chật người đông. Từ nhữ ng
thành công này, nhiều hộ nông dân sau thu hồi đất đã tìm được các
mô hình sản xuất, kinh doanh p h ù hợp, hiệu quả cao. N hư vậy, nông
nghiệp ven đô là m ột n ền nông nghiệp sản xuất hàng hoá cung cấp cho
khu vực đô thị, có ý nghĩa quan trọng với khu vực đô thị.
3.

LÀNG GIA TRUNG VÀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TRƯỚC KHI THU HỐI ĐẮT

3.1. Lịch sử biến đổi hành chính làng Gia Trung

Trong lịch sử, chỉ riêng tên gọi và lịch sử h ìn h th àn h làng Gia
Trung đã cho thấy có n h iều biến đổi. Căn cứ theo 'Phả k ý' của họ
N guyễn (họ có n hiều đời n h ất làng), theo n h ữ n g sắc p h o n g th àn h
hoàng còn lại của đ ìn h làng và theo bia "Hậu phật bi ký" ghi ở chùa

219


220

P h a n ĩh ị Ngọc

Đại Bi của làng thì Gia Trung được th àn h lập năm C hính H òa 11 n h à
Lê (1690) với tên th ô n Hạ, xã Gia Thượng, huyện Kim H oa (năm 1841,

đổi tên là h u y ện Kim A nh), p h ủ Bắc Hà, trấn Kinh Bắc (nay là tỉn h
Bắc Ninh). N ăm Q uý Tỵ, niên hiệu T hành Thái th ứ 5 (1893), làng
thuộc xã Gia Trung gồm th ô n Hè và thôn Đồng. Thời P h áp thuộc,
năm 1901, chính quyền thực d ân Pháp thành lập tỉnh Phù Lỗ. N gày
10/12/1903, tỉn h P hù Lỗ đổi tên th àn h tỉnh Phúc Yên, h u y ện Kim A nh
thuộc về tỉnh mới này.
Từ sau Cách m ạng tháng 8, địa giới hành chính của làng có n h iều
thay đổi. Tháng 4/1946, lúc này có tên Gia Trung, làng được sáp n h ập
với các làng bên bờ nam sông Cà Lồ thành lập xã Đại Đồng. Cuối 1954,
làng thuộc xã H oà Bình. N ăm 1956, làng sáp nhập vào xã Q u an g M inh.
N ăm 1978, xã Q uang M inh và m ột số xã nằm bên bờ sông Cà Lồ của
huyện Kim Anh (cũ) được sáp n h ập vào huyện Mê Linh, h u y ện ngoại
thàn h H à Nội. Đ ến tháng 7 năm 1991, toàn bộ hu y ện Mê Linh tách khỏi
Hà Nội trở về tỉnh Vĩnh Phú (nay là tỉnh Vĩnh Phúc). N gày 29/5/2008,
toàn bộ h u y ện Mê Linh được sáp nhập vào thành p hố H à Nội, làn g Gia
Trung được đổi th à n h tổ d ân p hố 6 và 7 thị trấn Q u an g M inh1, h u y ện
Mê Linh, H à Nội.
Trước khi diễn ra quá trình th u hồi đất nông nghiệp và bị sáp nhập
vào H à Nội, cảnh q u an làng Gia Trung m ang n h ữ n g nét đặc trư n g của
nông thôn Việt. K huôn viên của làng chia làm hai k hu chính: k h u cư
trú (xóm/đội) và k hu canh tác (đồng ruộng). Trong đó, khu d ân cư có
chiều dài khoảng lk m (từ k hu vườn c ầ u - đầu làng phía Tầy đ ến cổng
C hùa - đ ầu làng phía Đông), chiều ngang khoảng 400m, trước m ặ t có
các cánh đồng. H ướng p h át triển lúc đầu của làng là từ Tầy sang Đ ông
và mỗi họ thư ờ ng quây q u ần trong m ột khu dân cư nhỏ; khi d ân cư đã
tương đối đông thì chia làm hai khu vực, lấy con đ ư ờng chạy dọ c giữa
làng làm d an h giới, nửa làng phía Bắc gọi là mái sau, nửa làn g phía
1 D ù có đ iề u c h in h v ề m ặ t đ ịa giới h à n h c h ín h , n h ư n g v ớ i n g ư ờ i d â n , G ia T ru n g
v ẫ n là m ộ t là n g . T ro n g n g h iê n c ứ u n ày, tôi coi G ia T ru n g là m ộ t c ộ n g đ ồ n g là n g
c h ứ k h ô n g s ử d ụ n g tê n gọi h à n h c h ín h m ới.



s ự SUY G IẢ M SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI...

Nam gọi là mái trước, d ân cư mái sau đông hơn mái trước, về sau gọi
là đằng Đ ình (nay là tổ d ân phố số 6) và đằng C hùa (tổ dân ph ố số 7Ỵ.
N h ư vậy, lịch sử h ìn h th àn h của làng Gia Trung là quá trình p h át
triển trải qua n hiều biến đổi về h àn h chính, một quá trình p h át triển
liên tục n h ư n g hay bị đ ứ t quãng. N ếu tính từ khi lập làng (năm C hính
Hòa 1690) cho đ ến thời N guyễn và Pháp thuộc (trên 300 năm), Gia
Trung chỉ có 2 lần thay đổi địa giới h àn h chính thực sự, thì từ năm 1946
đến năm 2008 (khoảng 50 năm ), làng đã chứng kiến đ ến 6 lần thay
đổi lớn nhỏ. Đây vừa là quá trình có tính cưỡng bức vừa có tính định
hướng, đ ồ n g thời bản th â n cộng đ ồ n g làng cũng không ngừ n g tự điều
chỉnh đ ể thích nghi với n h ữ n g điều kiện mới.
3.2. Biến đông đất đai và một số đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở Gia Trung trước khi
thu hồi đất

* S ự biến động đất đai làng Gia Trung trước khi thu hồi đất
Vào đầu th ế kỷ XIX, diện tích đất tự nhiên (còn gọi đ ất bao đạc)
của làng Gia Trung là 252,36 ha (701 m ẫu Bắc Bộ)2, gồm 30,96 ha (86
mẫu) đất thổ cư và 221,76 ha (616 m ẫu) đất trồng trọt. Riêng ru ộng đất
trồng trọt được p h ân bổ n h ư sau:
1

Theo Nghị định số 39/2008/NĐ -C P của Chính phủ về việc điều chỉnh
đ ịa g iớ i h à n h c h ín h xã, p h ư ờ n g , t h à n h lậ p th ị trấ n , p h ư ờ n g th u ộ c h u y ệ n
M ê L in h , H à N ộ i. T h à n h lậ p th ị trấ n C hi Đ ô n g th u ộ c h u y ệ n M ê L in h trê n cơ sở
đ iề u c h ỉn h 486 h a d iệ n tíc h tự n h iê n v à 9.861 n h â n k h ẩ u c ủ a xã Q u a n g M in h ;
th à n h lậ p th ị tr ấ n Q u a n g M in h th u ộ c h u y ệ n M ê L in h tr ê n cơ sở 889,6 h a d iệ n

tích tự n h iê n v à 19.126 n h â n k h ẩ u c ò n lại c ủ a xã. T hị tr ấ n Q u a n g M in h h iệ n n a y
là s ự h ợ p n h ấ t 6 th ô n /là n g c ủ a xã Q u a n g M in h trư ớ c kia: G iai L ạc, Ấ p Tre, G ia
Tần, G ia T ru n g , G ia T h ư ợ n g v à th ô n Đ ồ n g .

2

Mẫu là một đ ơ n v ị đ o lường diện tíc h c ũ c ủ a m ộ t số nước như T ru n g Quốc v à Việt
N a m . T ro n g h ệ th ố n g đ o lư ờ n g cổ c ủ a V iệt N a m , m ẫ u là m ộ t đ ơ n vị đ o diện tích.
M ộ t m ẫ u b ằ n g 10 s à o h a y b ằ n g 10 c ô n g (1 c ô n g = 1 sào), 1 c ô n g h a y 1 sà o đ ấ t
N a m b ộ là 1000 m 2, T ru n g b ộ là 500 m 2, Bắc b ộ là 360 m 2. T ù y th e o t ừ n g v ù n g m à
đ ơ n vị đ o lư ờ n g c ủ a m ẫ u đ ư ợ c tín h k h á c n h a u , c h ẳ n g h ạ n , 1 m ẫ u ở Bắc Bộ =
3600 m2, Trung Bộ = 4.970 m 2, Nam Bộ = 10.000 m 2.

221


222

Phan Thị Ngọc

Bảng 1: Ruộng đất trổng trọt ở Gia Trung đẩu thế kỷ X IX
Stt

Loại ruộng

Quy đổi Tỷ lệ
hecta(ha)
(mẫu Bắc Bộ)
(%)
70

25,2
11,3
D iên
tích


1

Ruộng công

2

Ruộng tư (ruộng của tư gia)

335

120,6

54,3

3

Ruộng xâm canh

151

54,36

24,5


4

Ruộng chùa họ (nửa công, nửa tư)

60

21,6

9,7

Nguồn: Theo tài liệu địa bạ làng Gia Trung năm 1805.
Số liệu từ Bảng 1 cho thấy vào đầu thế kỷ XIX, ngoài 86 m ẫu đất
thổ cư thì diện tích đất trồng trọt của làng Gia Trung có sự p h ân hóa
lớn, trong đó, ru ộng đất tư hữu (thực chất là ru ộ n g của các tư gia trong
làng) đã tương đối cao và phức tạp, được phân bố ở tất cả các xứ đồng
của làng. Ruộng đất xâm canh (tức p h ần diện tích đất của làng do
người làng khác sở hữu và canh tác hoặc cho thuê) lúc n ày đã p hát
triển m ạnh (151/616 mẫu), trong đó phần diện tích đất do người làng
T hụy H à (Đông Anh) canh tác là 49 m ẫu, diện tích đất do người làng
Đ ông Đồ sở hữu và canh tác là 80 m ẫu v.v. N h ữ n g con số này cho thấy,
ruộng đất tư hữ u và hiện tượng xâm canh thời điểm này ở Gia Trung
đ ã c ó th ể c h u y ể n n h ư ợ n g h o ặ c m u a b á n . M ộ t h iệ n tư ợ n g k h ô n g c h ỉ

xuất hiện ở Gia Trung m à còn nhiều địa ph ư ơ n g khác ở đ ồ n g bằng
sông H ồng, đ ồ n g nghĩa với ru ộng đất công ngày càng giảm, bị thu hẹp
và p h ân bố không đ ều ở các xứ đồng.
Sang thời kỳ tập thể hóa nông nghiệp (từ 1960), làng Gia Trung
được tổ chức th àn h H ợp tác xã với quy m ô đến từ n g đội sản xuất1, thời
điểm này tình h ìn h ru ộ n g đất của làng có nhiều biến đ ộ n g theo hướng
th u giảm diện tích đất n ô n g nghiệp.


1 T h ờ i k ỳ n ày , là n g G ia tr u n g đ ư ợ c c h u y ể n t h à n h 8 đ ộ i s ả n x u ấ t (đ ộ i 1 đ ế n 8),
tro n g đ ó đ ộ i 1-4 th u ộ c v ề n ử a là n g p h ía đ ằ n g Đ ìn h (n a y là tổ d â n p h ố số 6), đ ộ i
5-8 n ằ m ở n ử a là n g p h ía đ ằ n g C h ù a (tổ d â n p h ố số 7).


223

sự SU Y GIẢM SẢN XUẤT NỒNG NGH IỆP ở M ỘT LÀNG VEN Đ õ HÀ NỘI..
Bảng 2; Sự thu giảm diện tích đất nông nghiệp ở Gia Trung trong thời kỳ tập
thể hóa nông nghiệp

Năm

Thu giảm diện
Lý do thu giảm diện tích
tích ở xứ đổng

Xây dựng hệ thống kênh
mương (kênh Tây)
Xây dựng con đường đi
1965
lại sau làng
1965 Mở đường đi Do Nhân
Chính quyến lấy đất giao
cho làng Gia Thượng
1963

1977 Giao cho làng Gia Tân
Giao cho làng Chi Đông


Diện tích
Quy đổi
thu giảm
hecta
(mẫu Bắc Bộ)
(ha)

Đổng Đám Da

40

14,4

Đổng Hối

3,2

1,15

2
5,8
3,8

0,72
2,09
1,37

5,8


2,09

50

18

Đổng Hối
Vườn Cẩu
Đông Bậm,
Đổng Lân
Đám Da,
Cãu láo
A'

r-Ị-1 /

N guồn: Số liệu được tổng hợp từ tuyển tập
“Quê hương Gia Trung" năm 1985.

N hư vậy, trong n h ữ n g năm p h át triển kinh tế theo m ô hình hợp
tác xã n ô n g nghiệp ở Gia Trung không chỉ làm "chuyển đổi n ền sản
xuất n ông nghiệp lấy hộ gia đ ìn h làm đơn vị kinh tế cơ bản sang nền
k inh tế n ô n g nghiệp lấy hợp tác xã là đơn vị sản xuất chính" (N guyễn
Văn Sửu, 2013, tr.139), mà còn làm cho diện tích đ ất nông nghiệp làng
Gia Trung bị chia nhỏ, gây trở ngại không ít cho việc cải tiến kỹ thuật
trồ n g trọt và đặc biệt là cho việc cơ giới hóa.
Đ ầu n h ữ n g năm 1990, với m ục đích giảm xung đột trong nông
nghiệp, C h ín h p h ủ đã ban h à n h N ghị đ ịn h 64/CP (năm 1993) về việc
giao đất n ô n g nghiệp cho hộ gia đình, cá n h ân sử d ụ n g ổn đ ịn h lâu dài.
Trong đợt giao quyền sử d ụ n g đất này, Gia Trung có 129 ha đất nông

nghiệp, tro n g đó 95% quỹ đ ất được giao ổn đ ịn h cho các hộ gia đình,
5% còn lại do xã quản lý. Trung bình, mỗi n h ân khẩu được n h ận 1 sào
6 thước (tương đư ơng 504m2), trong đó, 10-15% hộ gia đ ìn h có diện tích
từ 1 đến 3 sào, từ 3 đ ến 6 sào chiếm khoảng 60% số hộ, khoảng 15%20% hộ được chia 7 sào đ ến 1 m ẫu. Do n h ấn m ạnh đ ến tính công trong
quá trình giao đất, n ên diện tích đ ất nông nghiệp được chia nhỏ, vì thế


224

PHianThị Ngọc

mỗi hộ gia đình được giao đất d ù chỉ với mức tru n g bình Iơín 500 m 2/
khẩu n h ư n g lại có từ 4 đến 8 m ảnh ruộng.
Tóm lại, quá trình p h át triển của làng Gia Trung từ đầi tlhế kỷ XIX
đến n h ữ n g năm 90 của thế kỷ XX cùng với n h ữ n g biến lổ i liên tục
về h àn h chính thì diện tích đất đai, nhất là đất nông n g h ệ p của làng
cũng bị biến động theo hư ớng thu giảm diện tích. Khi hoài th à n h quá
trình giao quyền sử d ụ n g đất n ô n g nghiệp cho các gia đn_h cũ n g là
thời điểm các chương trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đ iợ c th ú c đẩy
bởi chính quyền N hà nước diễn ra ở khu vực ven đô Hà M i, làm ản h
hưởng trực tiếp và m ạnh mẽ đ ến cộng đồng làng Gia Trurg, m ột cộng
đồng làng chỉ cách tru n g tâm Hà Nội 15 km và cách sân :>ay Nội Bài
10 km. Hệ quả từ các chương trình này là đã thu hồi đất rô n g n g h iệp
ồ ạt ở Gia Trung và các cộng đồng làng xung qu an h được Tiển khai từ
cuối n h ữ n g năm 1990 trở đi.
* Đặc điểm nền nông nghiệp truyền thống làng Gia Trung
Trước khi diễn ra quá trình th u hồi đất, diện tích đất r ô n g n g h iệp
và đất ở của làng Gia Trung được bố trí thành n h ữ n g khcng gian khá
riêng biệt, vì thế n h ìn từ trên cao chúng ta có thể n h ận thấy n h ữ n g
không gian sản xuất gắn với không gian cư trú n h ư n g khcng đan xen,

hòa trộn với nhau. Với m ột m ật độ d ân cư khá cao, cộng với hệ th ố n g
thủ y lợi hoàn thiện, hầu hết diện tích đất nông nghiêp của làng Gia
Trung đều được sử d ụ n g để sản xuất nông nghiệp, mỗi năm canh tác
2 đến 3 vụ lúa và màu.
Gồm các loại cây trồng chủ yếu như: (1) Cây lúa: là cây ữ ồ n g chính
trong mọi thời kỳ p h át triển của d ân làng, đồng thời là căn cứ để tính
"Bãibỏ thuế". Tùy theo n ăn g suất cây trồng hàng năm m à có n h ữ n g quy
đ ịn h riêng. C hính quyền p h o n g kiến không đ án h th u ế hoặc đánh thuế
thấp n h ữ n g năm n ăn g suất cây trồng thấp hay m ất mùa; còn n h ữ n g
năm được m ùa thì n ăn g suất của cây lúa trên các loại ruộng được chia
làm 3 loại để đ ịn h th u ế điền: nhất đẳng điền 1tính thuế 3 thăng/1 sào Bắc
Bộ, nhị đẳng điền 2 thăng/1 sào, tam đẳng điền 1 thăng/1 sào2,
1 Cách tính thuế điền vào thời Nguyễn.
2 Thăng h a y T h ư n g : Đơn v ị đ o t h ể tíc h cổ

c ủ a V iệt N a m .


s ự SU Y GIẢM S Ầ N XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI...

Với n h ữ n g cải tiến và hoàn thiện hệ thống thủy lợi trong thời kỳ
tập thể h ó a nông nghiệp đã thay đổi hoạt động canh tác trồng trọt của
người n ô n g dân Gia Trung. N ếu trước kia chỉ cấy vụ đông, các vụ khác
trồng rau m àu; cây lúa và hoa m àu đều trông chờ vào nước tự nhiên
thì thời đ iểm này cấy 1 năm 2 vụ lúa, các loại cây hoa m àu và cày công
nghiệp n g ắ n ngày khác đều có nước tưới chủ động.
(2)

C ây thầu dầu: được trồng phổ biến ở Gia Trung, cả ở chân


ruộng tốt v à xấu và chiếm m ột diện tích lớn so với các cây hoa màu
khác bởi đ ây là loại cây tập quán của làng. Ngoài ra, nông dân Gia
Trung cũ n g trồng thêm các loại đậu, khoai (khoai lang, khoai sọ) v.v.
như ng với quy mô tự ph át, n hỏ lẻ ở hộ gia đình và p h ân tán ở nhiều
cánh đồng. Việc chăn nuôi ở đây không m ang tính chất kinh doanh,
c h ỉ p h ụ c V Ị1 c h o s ả n x u ấ t n ô n g n g h i ệ p v à t i ê u d ù n g t r o n g g i a đ ì n h .

Q ua cơ cấu vật nuôi, cây trồng ở Gia Trung, thấy rằng ở đây tồn tại
một nền sản xuất nông nghiệp truyền thống m ang đặc trưng của làng xã
vùng đồng bằng Bắc bộ là cây lúa, con lợn ở quy mô nhỏ, chưa có tính chất
của một n ền sản xuất hàng hóa. Sản xuất nông nghiệp không chỉ thu hút
một phần cơ bản lực lượng lao động của các hộ gia đình nông dân mà còn
là một ngu ồ n sinh kế quan trọng của nhiều hộ gia đình ở cộng đồng làng
trước khi bị tác động bởi quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
4.

HOẠT
ĐỘNG
SẢN XUẤT NÕNG NGHIỆP
ở GIA TRUNG ỈAU KHI BỊ• THU HỐI ĐẤT




4.1. Quá trình chuyển đổi đất nỏng nghiệp

Sau khi tình Vĩnh Phúc được tái lập (1997 )\ ủ y ban nhân dân tính
đã ban h àn h nhiều quy định, quyết định liên quan đến vấn đề chuyển
đổi m ục đích sử d ụ n g đất để phát triển công nghiệp của tính. Q uy hoạch
1 Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết (ngày 26/11/1996)

v ề v iệ c tá i l ậ p t í n h V ĩn h P h ú c v à t ì n h P h ú T h ọ . T ỉn h V ĩn h P h ú c c h ín h th ứ c
đ ư ợ c tá i lậ p v à đ i v à o h o ạ t đ ộ n g t ừ n g à y 01/01/1997. K h i tá c h ra , t ỉ n h V ĩn h
P h ú c c ó d i ệ n tíc h 1.370,73 k m 2, d â n số 1.066.552 n g ư ờ i, g ồ m 6 đ ơ n v ị h à n h
c h í n h c ấ p h u y ệ n : th ị x ã V ĩn h Y ê n , v à 5 h u y ệ n L ậ p T h ạ c h , V ĩn h T ư ờ n g , Y ê n
L ạ c , T am Đ ả o v à M ê L in h .


226

Phan Thị Ngọc

p hát triển công nghiệp phải dựa trên cơ sở phân bổ hợp lý các ng ành
nghề trong từng khu, cụm công nghiệp theo hướng các n g àn h nghề
phải p h ù hợp với nhau, hỗ trợ nhau, thúc đẩy các thành p h ần kinh tế
p hát triển. Tính đến hết năm 2004, tổng diện tích đất d àn h cho các khu,
cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh là 2.542,28 ha (chiếm 1,85% tổng diện
tích đất tự nhiên) trong đó đất nông nghiệp bị thu hồi là 1.522,76 ha.
Với n h ữ n g th u ận lợi do vị trí địa lý m ang lại, tỉnh V ĩnh Phúc đã
quy hoạch xã Q u an g M inh th àn h m ột xã trọng điểm về công nghiệp,
đô thị và dịch vụ, tru n g tâm kinh tế - xã hội phía đông nam của tỉnh.
Làng Gia Trung được xác đ ịn h là địa bàn p h át triển công n g h iệp trọng
điểm của khu công nghiệp Q uang M inh, vì thế làng có diện tích đ ất
nông nghiệp bị th u hồi lớn và triệt để n h ất xã Q u an g M inh.
Q uá trình thu hồi đ ất nông nghiệp đầu tiên ở Gia Trung là việc
th u hồi 24 ha đ ất n ô n g nghiệp để xây dự ng đ ư ờng cao tốc Bắc T hăng
Long - Nội Bài (1996). Tuy nhiên, việc thu hồi với quy m ô lớn, tốc độ
n h an h và ồ ạt chỉ diễn ra từ năm 2001 - 2005. Trong k h oảng thời gian
này, h ơ n 70% (91/129 ha) quỹ đất d ù n g cho sản xuất n ô n g nghiệp của
làng bị th u hồi, là n h ữ n g diện tích đất ven lộ, đất m àu m ỡ „bờ xôi
ru ộ n g mật" và chủ yếu là đất n ô n g nghiệp quỹ I đã giao ổn đ ịn h cho

các hộ gia đình. D ẫn đ ến sự sụt giảm n h an h chóng về qu y mô, diện
tích đất n ô n g nghiệp và lực lượng lao động nông nghiệp. Thời điểm
này, tâm lý bám "đất" của người nông d ân bị lay chuyển tậ n gốc.
N hư vậy, đi ngược lại xu hướng của các năm 1990 và do các chính
sách quy hoạch xây dự ng công nghiệp và đô thị, các năm đầu thế kỷ XXI
sẽ chứng kiến m ột sự sụt giảm đáng kể diện tích đất nông nghiệp ở làng
Gia Trung nói riêng và nhiều làng ven đô giáp ranh Hà Nội nói chung.
4.2. Nông nghiệp Gia Trung trong bối cảnh hiện nay

Sau khi được sáp n h ập vào th àn h phố H à Nội (2008), làng Gia
Trung còn 38 ha đất nông nghiệp (chủ yếu là đ ất nông n g h iệp h ạn g 3,
4, 5 và 6) n h ư n g nằm rải rác và m anh m ún ở nhiều cánh đ ồ n g và bị xen
ghép với nhiều h o ạt động kinh tế khác (nhà máy, xí nghiệp, đ ư ờ n g bẻ

tông, đường ống dẫn nước thải V.V.).


s ự S U Y GIẢM SẢN XUẤT NÔNG N GH IỆP ở MỘT LÀNG VEN ĐÔ HÀ NỘI..

N ếu trước đây, 70% diện tích đất nông nghiệp của làng do kênh
m ương cu n g cấp nước, 30% diện tích phải bơm hoặc chờ nước tự nhiên
thì nay hệ th ố n g kênh m ư ơ ng đã bị san lấp hoặc bị ngăn cách. N ông
dân m uốn canh tác được phải tự be bờ lấy nước ở n h ữ n g thửa ruộng
gần n g u ồ n nước hoặc trông chờ nước tự nhiên. Ngoài ra, cùng với quá
trình đô thị hóa và p h át triển công nghiệp đã làm cho p h ần diện tích
đất nôn g nghiệp còn lại ở Gia Trung không chỉ bị giảm sút về số lượng,
chất lư ợ ng đ ất m à độ phì của đất cũng giảm d ần do bị ô nhiễm năng.
N h ữ n g n g u y ên n h ân này làm cho người nông dân lo lắng không dám
đầu tư h ết khả năng vào sản xuất và xuất hiện tâm lý làm nông nghiệp
"cầm chừng". Hệ quả là "cây lúa" không còn được người nông dân Gia

Trung coi trọng và m ang giá trị kinh tế n h ư trước kia nữa, mà chuyển
sang trồ n g các loại rau m àu để phục vụ nhu cầu tại phương.
K hoảng 30% hộ d ân Gia Trung vẫn canh tác và sống dựa vào nông
nghiệp ở n h ữ n g mức độ khác nhau. Lực lượng tham gia chủ yếu là
lao đ ộ n g n ữ tru n g tuổi (từ 35 đ ến 60 tuổi), họ là n h ữ n g người khó tìm
được việc làm mới n ên vẫn bám trụ với m ảnh đất ít ỏi còn lại. Ngoài
canh tác trên p h ần đ ất còn lại của gia đình, nhiều người d ân còn tận
d ụ n g n h ữ n g m ảnh ru ộ n g bỏ hoang để canh tác mà không phải đóng
thuế hay chi trả bất cứ m ột khoản nào. Tuy nhiên, do tính chất của nền
n ô n g n g h iệ p m ớ i n ê n n g o à i t h ờ i g ia n là m n ô n g , n h iề u la o đ ộ n g n ô n g

nghiệp còn kiêm thêm n h iều công việc khác để tạo ng u ồ n th u nhập
như: chăn nuôi với quy m ô nhỏ, xây n hà trọ cho th u ê hoặc làm n h ữ n g
công việc tự do khác.
5.

KẾT LUẬN

Làng Gia Trung được lựa chọn n h ư m ột ví d ụ m inh họa cho
n h ữ n g biến đổi về diện tích đất nông nghiệp và sự mai m ột của nghề
nông trước tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa. Do diện tích
canh tác n ô n g nghiệp còn lại quá ít và do quy hoạch chưa hoàn tất
nên lãnh thổ sản xuất n ô n g nghiệp hiện nay ở Gia Trung không ổn
định, bị biến động m ạn h và bị xen ghép với nhiều hoạt động kinh tế
nhau, tạo th àn h m ột d ạn g kiến trúc "da báo" với các m ảng không gian
nông nghiệp, công nghiệp, nhà ở, dịch vụ v.v... nằm xen cài với nhau,

227



228

Phan Tfiị Ngọc

gây n ên sự m ất cân đối tro n g p h á t triển trong khi vẫn không đ áp ứ n g
đủ n h u cầu không gian của người dân.
Việc giảm tỷ lệ cư d ân n ô n g n g h iệp là rõ n ét n h ấ t và ph ù h ợ p với
xu thế công nghiệp hóa, đ ô th ị hó a ở Gia Trung. Tuy nhiên, sự th o á t
ly với nghề n ô n g của ngư ời n ô n g dân Gia Trung chưa xuất p h á t từ
n h u cầu nội tại, có ch u ẩn bị, m à là sự bắt buộc. H oạt đ ộ n g sản xuất
n ô n g nghiệp được d u y trì h iện nay đ an g đối m ặt với sự phát triển
không b ền vững, n g u y cơ m ất đi sinh kế tru y ề n th ống đang d iễ n ra
từng ngày. Khẩu hiệu "người cày có ruộng" đ an g dần trở thành xa lạ
với người n ô n g dân, cái "m ác" n ô n g dân h iệ n nay thực chất k h ô n g
p h ản ánh đầy đ ủ các đ ộ n g thái p h á t triển b ên trong của cộng đ ồ n g
làng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ngô Vương Anh (1998), Sự biến đổi của Phú Thượng - một xã nông nghiệp ven đô
trong quá trình đô thị hóa, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ
I, tập I: tr. 400-407.
Nguyễn Sinh Cúc (2010), Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Việt Nam trong quá trình đổi mới qua con số thống kê - thực trạng và giải pháp,
in trong Kỷ yếu hội thảo Khoa học "Những vấn đề kinh tế - xã hội ở nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, tr.77.
Denis Sautier, Đào Thế Anh, Phạm Công Nghiệp, Nguyễn Ngọc Mai (2013),
Nông nghiệp và phát triển đô thị tại Hà Nội, in trong Kỷ yếu "Phát triển bền
vững vùng ven các đô thị tại Việt Nam", Diễn đàn Kinh tế và Tài chính Việt
- Pháp (khóa IX), Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.108-148.

Department for International Development (DFID). 2002a. Better livelihoods
for poor people: the role of land policy. London. Downloaded from
h t t p : / / w w w . d f i d .g o v . u k / .

Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO). 2007.
Proíitability and Sustainability of Urban and Peri-urban Agriculture, by
René van Veenhuizen George Danso. Rome.
Jonathan Rigg. 2009. Land, íarming, livelihoods, and poverty: Rethinking the
links in the rural South. VVorld Development, 34.1:180-202. Dovvnloaded
from truy cập ngày 30.06.2016.


s ự SU Y GliM SẢN XUẤT NÔNG N G H IỆP ở MỘT LÀNG VEN Đ Ô HÀ NỘI...

Phạm Sự Liêm, Làng ven đô, làng nội đô và nông nghiệp đô thị, Nguồn: http://
wvw.tonghoixaydungvn.org.
MichaelLeaí, (2000), ''Vùng ven đô của Việt Nam: việc quản lý hành chính sự phát
trùn đô thị của Hà Nội", Tạp chí Xã hội học, số 3 (71), tr. 11-22.
Nguyễi Hữu Minh (2005), Biến đổi kinh tế - xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá
trhh đô thị hóa".

Lungisie xNJtsebeza, 2010, Land and Livelihoods in rural South Aírica: What
prospects for agricultural activities? Downloaded from http://www.
rinisp.org.
Nông nỷĩiệp ven đô, Nguồn: />
Trần Th Minh Ngọc (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa,
hiệĩ áại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hè Nội.
Lê Dư Phong (2007), Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây
dựĩgcác khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công

trhhcông cộng phục vụ lợi ích quốc gia, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Vủ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XỈX, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễr Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường (chủ biên) (2009), Tác động của đô
thịhca - công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và biến đổỉ văn hóa - xã hội ở tỉnh
Vhh Phúc, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguyễr Euy Thắng (2009), "Tác động của đô thị hóa đến các mặt kinh tế - xã
h ạ cia vùng ven đô và những vấn đề cần quan tâm", Tạp chí Xã hội học,
s ố l (105), tr. 80-86.

Lê Văn rnrởng (2008). Nhận dạng nông nghiệp đô thị Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế Việt Nam học lần thứ III, tập IV, tr. 299-308.
Báo cáokhh tế - xã hội làng Gia Trung từ 2001 - 2010.
Nguyễr. \ă n Sửu (2014). Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô
Hà bồi, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
The Speciil Programme for Food Security (FAO). 2001. Urban and Peri-urban
Agriailture. Downloaded from .

229



×