Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Các loại đất việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.04 KB, 45 trang )

Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
ĐẤT VIỆT NAM
Các loại đất chính:
Đất vùng đồng bằng, ven biển
Đất mặn: - đất mặn sú, vẹt đước
- đất mặn nhiều
Đất phèn: - phèn tiềm tàng
- phèn hoạt động
Đất phù sa: - phù sa trung tính ít chua
- phù sa chua
- phù sa Glây
Đất vùng đồi núi
Đất xám : - xám bạc màu
- xám Ferralit
Đất đỏ : - Nâu đỏ
- nâu vàng
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
1
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
ĐẤT VÙNG ĐỒNG BẰNG, VEN BIỂN
1. Nhóm đất mặn (M)
Tên theo FAO-UNESCO: Salic Fluvisols (FLS).
1.1. Diện tích và phân bố: nhóm đất mặn ở Việt Nam có diện
tích 971.356 ha (Đất Việt Nam, 2000), chiếm khoảng 3% diện
tích tự nhiên của cả nước.
Phân bố chủ yếu ở các tỉnh vùng đồng bằng Nam Bộ như
Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, trà Vinh, Bến Tre...và ở các
tỉnh ven biển vùng đồng bằng Bắc Bộ như Quảng Ninh, Hải
Phòng,Thái Bình, Nam Ðịnh, Ninh Bình và Thanh Hóa. Ngoài
ra còn một số diện tích đất mặn nội địa phân bố ở Ninh Thuận,
Bình Thuận được xếp là đất mặn kiềm.


1.2. Ðiều kiện và quá trình hình thành
- Ðiều kiện hình thành:
+ Ðất mặn được hình thành ở gần các cửa sông nơi có địa
hình thấp chủ yếu ≤ 1m, (nơi cao nhất cũng chỉ khoảng 2m so
với mực nước biển), trên nền mẫu chất kết hợp giữa phù sa
sông và phù sa biển; phù sa biển trầm tích ở bên dưới còn phù
sa sông được phủ lên trên. Phù sa biển thường thô còn phù sa
sông nhỏ mịn, chủ yếu là sét vật lý. Các hạt phù sa dạng huyền
phù do được vận chuyển ra cửa sông sau đó gặp điều kiện hóa
lý thay đổi của môi trường biển sẽ lắng đọng tạo thành lớp bùn
mịn có khi dày tới vài mét.
+ Thực vật ở đây gồm những cây ưa nước và chịu được
mặn như sú (Acgicera magas) gặp nhiều ở miền Bắc. Vẹt
(Bruguiera gymnorhiza), đước (Rhizophora apiculata) và một
số cây khác như cói, dừa nước, cà giang... phổ biến ở vùng
ven biển Nam Bộ.
- Quá trình hình thành: đất mặn là nhóm đất phù sa ven
biển được hình thành do trầm tích sông và biển, chịu ảnh
hưởng trực tiếp của nước mặn biển theo thủy triều tràn vào
hoặc gián tiếp do nước mạch mặn từ biển ngấm vào. Như vậy,
sự hình thành nhóm đất mặn ở Việt Nam chủ yếu là do quá
trình hóa mặn ở các vùng đất ven biển do tác động của nước
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
2
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
biển. Theo phân loại của FAO- UNESCO loại đất này được
gọi là phù sa mặn; quan điểm này cũng giống như phân loại
đất phèn (Thionic Fluvisols) vì do đặc tính của phèn và mặn ở
nước ta chưa đạt chỉ tiêu của nhóm (major soil grouping) mà
chỉ đạt chỉ tiêu của loại hay đơn vị đất. Ðất mặn ở Việt Nam

được xác định là đất có đặc tính mặn (salic properties) nhưng
không có tầng sunfidic cũng như tầng sufuric từ bề mặt đất
xuống độ sâu 125cm.
1.3. Phân loại và mô tả đặc tính và tính chất chính của đất
Ðể phân loại đất mặn có một số phương pháp phân loại
khác nhau. Theo phân loại phát sinh đất mặn được phân chia
dựa vào tổng số muối tan chủ yếu là muối Cl
-
và SO
4
2-
. Theo
phân loại của FAO- UNESCO người ta dựa vào độ dẫn điện
của dung dịch đất và tỷ lệ muối tan (%). Ngoài ra một số tác
giả còn phân loại dựa trên cơ sở các dạng ion của muối tan
(Cl
-
, SO

2
4
, CO
3
2-
, Na
+
, Mg
2+
... kết hợp với thành phần cơ giới.
Dưới đây là cách phân loại đất mặn theo FAO- UNESCO ở

Việt Nam.
- Nhóm đất mặn ven biển được phân chia ra các đơn vị
sau:
+ Ðất mặn sú vẹt đước (Mn) - Gleyi Salic Fluvisols
(FLsg).
+ Ðất mặn nhiều - Hapli Salic Fluvisols (FLsh).
+ Ðất mặn trung bình và ít - Molli Salic Fluvisols
(FLsm)..
+ Ðất mặn kiềm (Gleyic Solonetz)
a. Ðất mặn sú, vẹt, đước - Gleyi Salic Fluvisols (FLsg)
- Diện tích: khoảng 180.000 ha.
- Phân bố: Tập trung chủ yếu ở ven biển đồng bằng Nam
Bộ như Cà Mau, Bến Tre... Ðất mặn sú, vẹt, đước còn chịu
ảnh hưởng trực tiếp của nước biển khi thủy triều dâng, đất
thường ở dạng bùn lỏng, lầy hoặc cát rất mặn, pH trung tính
đến kiềm. Quần hợp của rừng sú, vẹt, đước phát triển tùy
thuộc vào độ dày, độ chặt của đất, độ mặn và chu kì ngập mặn.
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
3
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
Ngoài tác dụng chắn sóng cung cấp gỗ củi rừng sú, vẹt, đước
còn góp phần cố định đất tạo điều kiện cho việc lấn biển. Ðất
mặn sú, vẹt, đước rất mặn, có phản ứng trung tính đến kiềm.
Hàm lượng mùn trong đất cao do tàn tích thực vật tích lũy
nhiều, hàm lượng N% từ khá đến giàu. P
2
O
5
% số trung bình,
K

2
O% khá đến giàu, cation trao đổi trung bình đến khá...Vấn
đề hạn chế lớn nhất trong sử dụng đất ở đây là độ mặn của đất
quá cao và thường bị ngập nước thủy triều nên đất này chỉ có
thể sử dụng cho sản xuất lâm nghiệp phát triển diện tích rừng
sú, vẹt, đước
Ðặc tính của đất mặn sú vẹt đước được thể hiện qua phẫu
diện VN 37, lấy tại rừng đước xã Thạnh Phước, huyện Bình
Ðại, tỉnh Bến Tre. Ðịa hình bằng phẳng độ dốc 0- 3
o
, trồng
đước năm 1984.
- Sử dụng và cải tạo: đất mặn sú, vẹt, đước được sử dụng
nuôi trồng thủy sản, trồng rừng chắn gió, chắn sóng, cung cấp
củi, gỗ... Rừng ngập mặn còn góp phần cố định đất bồi tụ. Quá
trình lắng đọng phù sa sẽ làm cho đất cao dần lên, chặt và ổn
định, sau đó sẽ thoát khỏi ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều,
đất sẽ giảm mặn dần và người ta có thể quai đê lấn biển, rửa
mặn để sử dụng vào mục đích trồng trọt các loại cây trồng
nông nghiệp.
Ðặc điểm phân tầng
Ap (0- 15cm): Nâu đỏ xẫm (ẩm: 5YR 3/3; khô: 5YR 6/2);
sét; ướt trên mặt; nhão; trên mặt 1- 2cm có lớp xác lá cây
mục xen lẫn phù sa; có nhiều vệt rỉ sắt nâu vàng theo vệt rễ
cây; chuyển lớp từ từ.
AB (15- 60 cm): Nâu sẫm (ẩm: 7,5YR 3/3; khô: 5YR 5/3);
sét; ướt; dẻo dính; nhiều xác lá rễ cây đang phân hủy; có
nhiều vệt đen; các ổ sét xám xẫm xen lẫn nhiều vệt nâu vàng
rỉ sắt dạng kết von mềm; chuyển lớp từ từ.
Bghn1(60-110cm): Nâu đỏ rất xẫm (ẩm: 5YR 2/3; khô: 5YR

5/2); sét pha thịt; ướt, dẻo dính; xác rễ cây ít hơn tầng trên
lẫn ít xác cây lớn; sét xanh xám, glây mạnh; chuyển lớp từ từ.
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
4
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
Bgh2(110-150cm): Xám xẫm (ẩm: 7,5YR 2/3; khô: 7,5YR
6/3); sét; ướt nhão, dẻo dính; có vệt đen và xác bã thực vật;
glây mạnh; có ánh cát mịn.
b. Ðất mặn nhiều - Hapli Salic Fluvisols (FLsh)
- Diện tích và phân bố: đất mặn nhiều có khoảng gần
300.000 ha. Phân bố tập trung ở ven biển đồng bằng Bắc Bộ
như Thái Bình, Nam Ðịnh, Ninh Bình... và đồng bằng Nam
Bộ như Tiền Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau...
Ðất mặn nhiều thường có tổng số muối tan > 1%, trong
đó lượng Cl
-
> 0,25% và độ dẫn điện EC thường lớn hơn 4 dS/
cm ở 25
o
C. Ðất mặn nhiều thường chứa các chất dinh dưỡng
từ mức trung bình đến khá. Ðất mặn ở Nam Bộ thường có
thành phần cơ giới nặng từ sét đến limon hay thịt pha sét. Ðất
mặn ở miền Bắc thường có thành phần cơ giới trung bình, ở
độ sâu 50- 80 cm thường gặp lớp cát xám xanh và có xác vỏ
sò, ốc biển.
- Cấu tạo phẫu diện của đất mặn nhiều phẫu diện ở VN
31 lấy tại xã Hiệp Thành, Thị Xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Ðịa
hình bằng phẳng độ dốc 0- 3
o
, trồng lúa.


Ðặc điểm phân tầng
Ap (0- 20cm): Nâu đỏ xỉn (ẩm: 5YR 4/2,5; khô: 5YR 6/3);
sét; ẩm; nhiều rễ lúa; ít hạt kết von màu nâu vàng mềm; phía
dưới có các vệt nâu vàng; chuyển lớp từ từ.
AB (20- 50cm): Nâu đỏ xỉn (ẩm: 5YR 4/3; khô: 5YR 5/2);
sét; ẩm; phía trên bở rời có nhiều hạt kết von nâu đen nhỏ,
phía dưới to hơn, kết von có đường kính 2- 5mm; phía dưới
tầng có các vệt vàng nâu rỉ sắt; chuyển lớp từ từ.
Bn (50- 100cm): Nâu đỏ xỉn (ẩm: 5YR 4/3; khô: 5YR 5/2);
sét; ẩm; nhiều kẽ nứt, nhiều vệt vàng nâu rỉ sắt; có kết von
ống màu đen nâu; chuyển lớp từ từ.
Bnc (100-120cm): Nâu xám (ẩm: 5YR 4/2; khô: 5YR 5/2,5);
thịt pha sét; ẩm; còn nhiều vết nứt; nhiều kết von bọc ngoài rễ
cây màu ngoài vàng nâu; trong nâu đen; chuyển lớp từ từ.
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
5
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
C1 (120- 140cm): Nâu xám (ẩm: 7,5YR 4/1,5; khô: 7,5YR
5/3); thịt pha sét; ướt; dính; các vệt lớn kết von theo xác thực
vật ngoài màu vàng trong đen nâu; chuyển lớp đột ngột.
C2 (140- 160cm): Nâu xám (ẩm: 7,5YR 4/1,5); sét; ướt dẻo
dính; mịn.

c. Ðất mặn trung bình và ít - Molli Salic Fluvisols (FLsm)
- Diện tích và phân bố: đất mặn trung bình và ít có diện
tích khoảng 700.000 ha trong đó có tới 75% diện tích này tập
trung ở đồng bằng sông Cửu Long. Phân bố tiếp giáp đất phù
sa, bên trong vùng đất mặn nhiều, đại bộ phận ở địa hình trung
bình và cao ít bị ảnh hưởng của thủy triều.

Kết quả phân tích nhiều mẫu đất mặn trung bình và ít cho
thấy: mức độ Cl
-
< 0,25% và EC < 4 mS/cm. Ðất có phản ứng
trung tính ít chua pH
KCl
: 6- 8, càng xuống sâu pH càng có
chiều hướng tăng do nồng độ muối cao hơn, tỷ lệ Ca
2+
/ Mg
2+
<
1.
Nhìn chung về tính chất nông hóa đất mặn trung bình và
ít có có hàm lượng mùn, đạm trung bình (N%: 0,09- 0,18%),
lân tổng số ở mức trung bình đến nghèo (P
2
O
5
%: 0,05- 0,17%)
và kali trung bình đến giàu (K
2
O%: 1,5- 2,5%). Tuy nhiên đất
có hàm lượng lân dễ tiêu nghèo đến rất nghèo; Nhìn chung các
tính chất nông hóa của đất mặn có sự thay đổi khá rõ tùy theo
từng khu vực, tuy nhiên về mặt sử dụng thì các tính chất nông
hóa thông thường không phải là yếu tố quyết định mà hàm
lượng muối và thành phần muối mới là những yếu tố chi phối
chính vì đất có giàu mùn và N, P, K cao đến mấy song cũng
không có khả năng sử dụng nếu như đất ở đấy có hàm lượng

muối tan cao.
- Hướng sử dụng và cải tạo đất mặn
Ðất mặn là một trong những loại đất xấu ở Việt Nam
muốn sử dụng đất có hiệu quả cao người ta phải tiến hành cải
tạo đất. Mục đích cải tạo đất mặn nhằm:
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
6
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
+ Giảm tổng số muối tan đến mức bình thường cho cây
trồng.
+ Tăng cường hàm lượng các chất dinh dưỡng cần thiết
cho cây trồng.
+ Từng bước cải thiện tính chất vật lý của đất.
Ðể thực hiện các mục đích trên cần phải áp dụng các biện
pháp tổng hợp như thủy lợi, canh tác, phân bón... trong đó
thủy lợi được coi là biện pháp quan trọng hàng đầu.
- Biện pháp thủy lợi: Cần tiến hành xây dựng các hệ
thống kênh, mương tưới để rửa mặn và hệ thống mương tiêu
để tiêu mặn trên mặt và nước ngầm. Có 3 phương pháp rửa
mặn thường được áp dụng đó là: rửa trên mặt, rửa thấm và rửa
theo phương pháp kết hợp cả hai hình thức trên.
+ Phương pháp rửa trên mặt: dẫn nước ngọt vào và làm
đất, muối tan được rút ra khỏi phức hệ thấp thu của đất và hòa
vào dung dịch (sau một khoảng thời gian ngâm ngắn), rồi sau
đó tháo nước đã rửa này xuống các mương tiêu. Biện pháp này
có tác dụng làm giảm tổng muối tan ở lớp đất mặn trong thời
gian ngắn.
+ Phương pháp rửa thấm: đưa nước ngọt vào ruộng duy
trì ngâm liên tục trong một thời gian dài. Do tác động của áp
suất thủy tĩnh nước chứa muối sẽ thấm dần xuống sâu theo các

mạch nước ngầm thoát ra mương tiêu. Hình thức này rửa được
mặn sâu cả ở các tầng đất bên dưới tuy nhiên đòi hỏi thời gian
và lượng nước nhiều.
+ Phương pháp rửa kết hợp: là hình thức kết hợp 2
phương pháp rửa trên mặt và rửa thấm trong khoảng thời gian
ngắn.
Muốn cải tạo cơ bản đất mặn, nhất thiết phải áp dụng
biện pháp rửa thấm là tốt nhất.
Trong quá trình rửa mặn lượng ion Cl
-
giảm nhanh do
chúng dễ dàng bị hòa tan và rửa trôi, trong khi SO
4
2-
, HCO
3
-
do ít bị rửa trôi hơn nên có chiều hướng tăng. Ca
2+
, Mg
2+

Na
+
giảm dần. pH của đất có xu hướng tăng điều này có liên
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
7
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
quan tới hàm lượng NaHCO
3

tích lũy nhiều do đó dần làm
tăng khả năng hấp phụ Na
+
vào keo đất. Có những nơi, sau
một thời gian dài áp dụng các biện pháp rửa mặn, đã xuất hiện
hiện tượng ion Na
+
tăng lên trong phức hệ thấp phụ làm đất
xuất hiện những dấu hiệu mới mang đặc tính của đất solonet
(đất mặn kiềm natri).
- Biện pháp phân bón:
+ Phân hữu cơ có tác dụng rất tốt đối với đất mặn ngoài
giá trị cung cấp dinh dưỡng, phân hữu cơ dần dần cải thiện kết
cấu đất. Một số loại cây phân xanh phát triển tốt trên đất mặn
như bèo dâu, điền thanh hạt tròn... nên phát triển những cây
này ở những vùng đất mặn.
+ Ðối với phân khoáng nên tăng cường đầu tư N, P, K cho
phù hợp với từng loại cây trồng trong đó chú ý quan tâm đến
phân lân yếu tố dinh dưỡng hạn chế đối với cây trồng ở đây.
- Biện pháp canh tác:
Cần xây dựng chế độ canh tác hợp lý cho vùng đất mặn.
Ðối với đất mặn nhiều tốt nhất là đưa vào trồng các cây có khả
năng chịu mặn như cói, phân xanh trong một số năm để cải tạo
độ mặn rồi sau đó mới trồng lúa hay các loại hoa màu khác.
Những nơi đất mặn ít cần đưa vào các công thức luân canh
hợp lý giữa các cây trồng để hạn chế quá trình tích lũy hay bốc
mặn trong đất. Nên thường xuyên duy trì lớp nước trên mặt
ruông. Ðối với vùng đất đã được cải tạo cũng không được để
đất bị hạn, ở những vùng không thuận lợi trong việc tưới do
thiếu nước ngọt rửa mặn thì tuyệt nhiên cũng không nên làm

ải.
2. Nhóm đất phèn (Ðất chua mặn)
Tên theo FAO-UNESCO - Thionic Fluvisols (Flt)
2.1. Diện tích và phân bố: đất phèn ở Việt Nam có khoảng 2
triệu ha, chiếm trên 6,5% diện tích đất tự nhiên toàn quốc.
Phân bố tập trung nhiều nhất ở đồng bằng Nam Bộ, trong các
tỉnh Long An, Ðồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ,
Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau... ở đồng bằng Bắc Bộ có một
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
8
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
số ít diện tích ở Hải Phòng, Thái Bình... ngoài ra còn gặp rải
rác ở một số tỉnh thuộc miền Trung.
2.2. Ðiều kiện và quá trình hình thành đất phèn
Ðất phèn thường được hình thành và phát triển ở những
vùng địa mạo đầm lầy, rừng ngập mặn, cửa sông có địa hình
trũng, khó thoát nước. Do sản phẩm bồi tụ phù sa kết hợp với
vật liệu sinh phèn (xác sinh vật chứa nhiều lưu huỳnh) và
muối phèn.
Thực vật tự nhiên ở đây chủ yếu là những cây ưa nước có
muối như ôrô, cỏ năn, cỏ lác, cỏ gà nước. Những diện tích
đang được canh tác chủ yếu trồng lúa, cói và một số loại hoa
màu khác song năng suất nói chung còn thấp do đất chua mặn.
Về vị trí so với đất mặn, nhìn chung đất phèn nằm sâu
vào đất liền hơn. Ở đồng bằng sông Cửu Long đất phèn có sự
xen kẽ rất phức tạp với đất mặn và đất phù sa. Trong đất xảy
ra các quá trình mặn hóa, chua hóa, glây và sét hóa làm cho
đất có thành phần cơ giới nặng. Tuy nhiên trong đất phèn hai
quá trình mặn hóa và chua hóa diễn ra rất mạnh và chúng
quyết định các đặc tính của đất phèn.

- Quá trình mặn hóa: được hình thành do trong đất có
chứa một số lượng muối tan nhất định như muối NaCl,
Na
2
SO
4
. Các muối này có nguồn gốc từ nước biển, trải qua
thời gian lượng muối NaCl đã giảm nhờ tính hòa tan cao, còn
lại muối Na
2
SO
4
được tích lại ở đất phèn. Trong đất phèn do
ion Cl
-
dễ bị rửa trôi trong khi ion SO
4
2-
lại thường xuyên được
bổ sung, tích lũy bởi quá trình phèn hóa trong qua trình phân
hủy các xác hữu cơ (sú, vẹt, đước) do đó tỷ lệ Cl
-
/ SO
4
2-
< 1.
Hàm lượng Cl
-
và SO
4

2-
có chiều hướng tăng dần theo chiều
sâu phẫu diện.
- Quá trình chua hóa:
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân làm cho đất
bị chua và có chứa nhiều muối phèn. Theo Amio (Thụy Ðiển)
thì mẫu chất chứa nhiều secqui oxit, còn Morman thì cho rằng
do lưu huỳnh có nguồn gốc từ biển. Hoàng Kế Mậu (Trung
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
9
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
Quốc) chứng minh rằng trong đất chứa nhiều tàn tích sú vẹt đã
biến đổi làm cho đất tích lũy nhiều sunphat và hóa chua. Thực
tế nghiên cứu của các học giả Việt Nam đi đến kết luận sơ bộ
về nguyên nhân làm cho đất chua là do lưu huỳnh có nguồn
gốc từ nước biển tích lũy lại theo 2 con đường.
+ Con đường thứ nhất là do những phản ứng hóa học
thuần túy như kiểu các muối sunphat ít tan khi nồng độ tăng
lên kết tủa lại sinh ra nhiều SO
4
2-
làm đất hóa chua.
+ Con đường thứ hai qua tích lũy sinh học từ xác các
thực vật rừng ngập mặn (phổ biến là các cây sú, vẹt, đước...).
Trong quá trình sống các loại cây này hấp thụ và tích lũy S ở
dạng hữu cơ, sau khi chết đi xác của chúng được phân giải ở
điều kiện yếm khí, các hợp chất chứa lưu huỳnh bị biến đổi
thành S
2-
chủ yếu ở dạng pyrite (FeS

2
) và sunphua hydro
(H
2
S), hợp chất FeS
2
trong đất khi gặp điều kiện oxy hóa
chúng sẽ biến đổi tạo ra SO
4
2-
.
Quá trình hóa chua trong đất có thể minh họa theo sơ đồ dưới
đây:
VSV yếm khí
oxy hóa
Tàn tích hữu cơ → H
2
S, FeS
2
→ H
2
SO
4
và FeSO
4
Phản ứng xảy ra cụ thể như sau:
2FeS
2
+ 7O
2

+2 H
2
O → 2FeSO
4
+ 2H
2
SO
4

(1)
2FeSO
4
+ H
2
SO
4
+ 1/2 O
2
→ Fe
2
(SO
4
)
3
+ H
2
O
(2)
Fe
2

(SO
4
)
3
+ 6H
2
O → Fe(OH)
3
+ 3H
2
SO
4

(3)
Các phản ứng trên xảy ra có sự tham gia của các khuẩn
khử sunphat và vi khuẩn Thiobacillus Ferrooxydans.
Ðất bị chua là do H
2
SO
4
được sinh ra trong đất theo các
phản ứng trên. Axit sunfuric phá hủy khoáng sét giải phóng ra
nhiều sắt, nhôm và cùng với lượng sắt nhôm tự do có sẵn
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
10
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
chúng kết hợp với gốc anion SO
4
2-
tạo ra các dạng muối phèn

sắt, nhôm cao trong đất.
Nước ruộng ở vùng đất phèn thường trong do các
hydroxit sắt, nhôm tạo ra gặp các hạt keo đất âm sẽ bị kết tủa
tạo ra lớp váng có màu nâu vàng hoặc trắng. Xét về nguồn Fe
có thể tích lũy theo con đường sinh học như nói ở trên hoặc
qua con đường hóa học thuần túy nhờ phân giải các secqui
oxit (Oxit sắt hòa tan khi pH < 3,3 tạo ra Fe
2
SO
4
hay FeCl
3
).
Còn Al chỉ tích lũy nhờ các phản ứng hóa học. Al trong phiến
gipxit của khoáng có thể trao đổi với H
+
của axit khi pH < 4,0,
phản ứng xảy ra chậm. Các muối nhôm sau khi tạo thành bị
thủy phân đã làm cho hàm lượng Al
3+
ở trạng thái di động
trong dung dịch đất tăng lên rất độc đối với cây trồng.
2.3. Phân loại đất phèn
Theo phân loại đất của FAO-UNESCO đất phèn được
xác định do sự có mặt ở trong phẫu diện đất 2 loại tầng chẩn
đoán chính đó là tầng sinh phèn (sunfidic horizon) và tầng
phèn (sulfuric horizon). Nếu đất chỉ có tầng chứa vật liệu sinh
phèn gọi là đất phèn tiềm tàng, đất có tầng phèn (thường có cả
tầng sinh phèn) gọi là đất phèn hoạt động.
+ Tầng sinh phèn (sulfuric horizon) là tầng tích lũy vật

liệu chứa phèn (sulfuric materials) là tầng sét hữu cơ ngập
nước, thường ở trạng thái yếm khí có chứa SO
3
trên 1,7%
(tương đương với 0,75% S); khi oxy hóa cho pH dưới hoặc
bằng 3,5.
+ Tầng phèn (sulfuric horizon) là một dạng tầng B xuất
hiện trong quá trình hình thành và phát trển của đất phèn tiềm
tàng, tập trung chủ yếu là khoáng Jarosite dưới dạng đốm vệt
màu vàng rơm (2,5Y) có pH thường dưới 3,5. Tầng chứa
Jarosite cũng là tầng chỉ thị cho đất phèn hoạt động.
Nhóm đất phèn (Thionosols) được chia ra thành các đơn
vị sau
- Ðất phèn tiềm tàng: Protothionic Gleysols (FLtp).
- Ðất phèn hoạt động: Orthithionic Fluvisols (FLto)
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
11
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
Ðặc điểm chung đất phèn có thành phần cơ giới nặng
(sét: %>50%), đất rất chua (pH
KCl
: 3- 4,5). Hàm lượng hữu cơ
trong đất khá (OC%: 2- 4%); hàm lượng lân nghèo đến rất
nghèo cả tổng số và dễ tiêu (P
2
O
5
% < 0,06%; P
2
O

5
dễ tiêu< 6
mg/100g đất, có nơi chỉ thấy vệt) ; hàm lượng kali từ khá đến
giàu (K
2
O
5
: 1,5- 2,0%). Hàm lượng S% tương đương hoặc lớn
hơn 0,75%. Hàm lượng nhôm di động Al
3+
trong tầng sinh
phèn cao (có chỗ lên đến >50 mg/100g đất).
Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu các đơn vị đất phèn chính
a. Ðất phèn tiềm tàng (Protothionic Gleysols- GLtp ) :
Có khoảng 600 ha tập trung chủ yếu ở ven biển đồng
bằng Nam Bộ. Ðất được hình thành do sự có mặt của tầng sinh
phèn (Sulfidic Horizon), đây cũng chính là tầng vật liệu chứa
phèn (Sulfidic Materials), gồm tầng sét và tầng hữu cơ ngập
nước, thường ở trạng thái yếm khí có chứa SO3 trên 1,7%
(tương đương với 0,75% S). Ðất phèn tiềm tàng hiện đang
được khai thác trồng lúa, nuôi tôm, ở những rừng ngập mặn
sú, vẹt, đước có một số diện tích phèn nhiều đặc thù hiện đang
được bảo vệ để bảo tồn những đàn chim quý hiếm.
- Cấu tạo phẫu diện của đất phèn tiềm tàng thể hiện ở
phẫu diện ở VN 28, tại xã Tam Giang, huyện Ngọc Hiển, tỉnh
Cà Mau. Ðịa hình bằng phẳng độ dốc 0- 3
O
, rừng đước tự
nhiên.
Ðặc điểm phân tầng

Ap (0- 15cm): Nâu xám (ẩm: 7,5YR 4/2,5; khô: 10YR
6/2); sét; ướt; có nhiều vệt đen xác hữu cơ và xác cành
nhỏ mục; phía trên mặt có lớp hữu cơ mỏng thối đen; có
các vệt nhỏ màu rỉ sắt, hang hốc nhiều đùn thành ụ cao;
chuyển lớp từ từ.
AB (15- 35cm): Ðen hơi nâu (ẩm: 7,5YR 3/2; khô: 2,5YR
6/2); sét; ướt; dẻo dính; có các vệt đen xác hữu cơ, xác
cành rễ mục; dưới tầng có lẫn ít sét màu xám xẫm; chuyển
lớp từ từ.
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
12
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
Bw1 (35-55cm): Xám vàng (ẩm: 2,5Y 4/1; khô: 2,5YR
6/2); sét; ướt; dẻo dính; lẫn xác thực vật mục; chuyển lớp
rõ.
Bw2 (55-95cm): Ðen hơi nâu (ẩm: 10YR 2/2; khô: 10YR
6/2); sét; ướt; rời; dễ thấm và thoát nước, có xác bã thực
vật mục; chuyển lớp rõ.
Br (95- 125cm): Nâu vàng xỉn (ẩm: 5Y 5/1; khô: 5Y 6/1);
sét; ướt; dính; dẻo; dễ bị vỡ tạo thành các tảng lớn; còn ít
vệt đen mờ; chuyển lớp từ từ.
BC (125-160cm): Nâu vàng (ẩm: 10YR 4/3); xen lẫn với
các ổ sét màu xám sáng; ướt; dẻo; dính; dẽ bị lở thành
tảng lớn.
b. Ðất phèn hoạt động (Orthithionic Fluvisols- FLto) :
Có khoảng gần 1,4 triệu ha phân bố chủ yếu ở đồng bằng
Nam Bộ và một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Ðất hoạt động
được hình thành do có tầng phèn (Sulfuric Horizon), là một
dạng tầng B xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển
từ đất phèn tiềm tàng, tập trung khoáng Jarosite dưới dạng

đốm vệt vàng rơm có màu 2,5Y đây cũng chính là tầng chỉ thị
của đất phèn hoạt động; pH của đất thường dưới 3,5. Ðất này
thường được sử dụng trồng lúa.
- Cấu tạo phẫu diện của đất phèn hoạt động thể hiện ở
phẫu diện ở VN 33, xã Tân Lập, huyện Mộc hóa, tỉnh Long
An. Ðịa hình bằng phẳng độ dốc 0- 3
o
, rừng đước tự nhiên.
Ðặc điểm phân tầng
Ap1 (0- 15cm): Ðen hơi nâu (ẩm: 10YR2/1; khô: 10YR 5/1);
sét; ướt nhão; có các cục lớn; phía trên nhiều rơm rạ nát và rễ
lúa; chuyển lớp từ từ.
Ap2 (15- 30cm): Ðen hơi nâu (ẩm: 10YR 2/1,5; khô: 10YR
4/1); xen các ổ sét màu xám nâu; hơi ướt; chặt; có các vệt nâu
vàng rỉ sắt dọc theo rễ lúa; chuyển lớp đột ngột.
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
13
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
Bj (30- 70cm): Nâu xám (ẩm: 7,5YR 5/2,5; khô: 10YR 6/2);
nhiều ổ màu nâu vàng rỉ sắt ở phía trên; phía dưới có các ổ
vàng sáng hơn (ẩm: 2,5Y 7/6,5; khô: 5Y 8/5); chuyển lớp từ
từ.
Bh1 (70- 95cm): Nâu xỉn (ẩm: 7,5YR 5/3; khô: 7,5YR 5/2);
sét; ướt; dẻo; dính; nhiều vệt xác bã thực vật lớn; chuyển lớp
từ từ.
Bh2 (95-130cm): Nâu xám (ẩm: 7,5YR 4/2; khô: 7,5YR 4/1);
sét; ướt; dính; dẻo; nhiều vệt bã xác thực vật đã phân hủy;
chuyển lớp từ từ.
BC (130-170cm): Nâu xám (ẩm: 7,5YR 4/2; khô: 7,5YR 4/1);
thịt pha sét; ướt; dẻo; dính; nhiều xác thực vật đã nhuyễn; dưới

đáy tầng có các hạt kết von rắn.

c. Hướng sử dụng và cải tạo nhóm đất phèn
Diện tích đất phèn bỏ hoang ở nước ta hiện nay còn khá
lớn. Những diện tích đất phèn đã được khai thác vào sản xuất
cây trồng chủ yếu là trồng 2 vụ lúa (đông xuân và hè thu) năng
xuất cây trồng ở đây phụ thuộc rất nhiều vào lượng mưa hàng
năm. Trên loại đất này nông dân nông dân có kinh nghiệm
"ém phèn" để trồng lúa bằng biện pháp cày nông, bừa sục giữ
nước liên tục và tháo nước theo định kì. Với hệ thống thủy lợi
ngày càng được hoàn thiện cùng với sự thay thế những giống
có khả năng chống chịu phèn có thể đạt năng suất bình quân 6-
7 tấn thóc/ ha/ năm. Ðất phèn là loại đất cần phải cải tạo khi
sử dụng, để cải tạo chúng người ta thường áp dụng các biện
pháp chính sau:
- Biện pháp thủy lợi
Ðể có thể sản xuất ở trên vùng đất phèn mới khai hoang
phải tiến hành thau rửa chua mặn do đó biện pháp thủy lợi phải
được đặt lên hàng đầu. Muốn thau rửa mặn người ta thường
tiến hành lên líp hoặc xây dựng hệ thống kênh tưới và kênh tiêu
song song. Một số nơi có kinh nghiệm khoan các giếng sâu,
thường xuyên bơm nước lên ruộng rồi tiêu xuống mương tiêu,
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
14
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
hạ thấp mực nước ngầm mặn (mỗi giếng đảm nhiệm diện tích
cho khoảng 100 ha).
- Bón vôi cho đất
Bón vôi có tác dụng rất tốt cho việc khử chua và hạn chế
tác hại của nhôm di động trong đất. Lượng vôi phải dùng rất

nhiều và hiệu quả của chu kỳ bón vôi lại rất ngắn (một, hai vụ
thì chua trở lại). Do đó theo các kết quả nghiên cứu thì nên
bón hàng năm, mỗi năm chỉ bón một lượng vừa phải (tương
đương 1/3- 1/4 mức độ chua thủy phân) là kinh tế nhất.
- Biện pháp phân bón
Bón phân cân đối giữa N,P,K và hợp lý cho cây trồng.
Trong các loại phân bón N,P,K cần lưu ý tới phân lân (P) bón
ở đất phèn cho hiệu quả sử dụng rất cao, vì lân cũng chính là
yếu tố dinh dưỡng hạn chế rõ nhất đối với cây trồng trên loại
đất này, đối với đất phèn nên dùng tecmophosphat tốt hơn so
với supe phosphat để tăng thêm tính kiềm giảm độ chua và
hạn chế thêm khả năng tích lũy SO
4
2-
trong đất hoặc có thể sử
dụng trực tiếp bột apatit hay bột phosphorit bón cho đất với
liều lượng cao.
- Biện pháp canh tác
Ðối với các biện pháp canh tác, việc làm đất cần phải lưu
ý giữ nước thường xuyên trong ruộng để trồng lúa, không nên
để nước cạn và tuyệt đối không cày ải đối với đất phèn. Những
nơi đất bị phèn mạnh phải "lên líp" rửa phèn rồi mới sử dụng
cho trồng trọt được.
Ðối với cây trồng phải lựa chọn những loại cây có tính
chống chịu phèn (hoặc chua mặn), ở những nơi địa hình thấp
trũng ngập nước có thể trồng cói một số năm cho giảm lượng
muối phèn trước khi trồng lúa. Những nơi đất có địa hình cao
có thể trồng dứa, mía hoặc một số loại cây ăn quả có khả năng
tồn tại và phát triển được ở đây.
Trong thực tế việc thau chua rửa mặn ở đây gặp rất nhiều

khó khăn bởi những vùng đất phèn cũng là những vùng rất
thiếu nước ngọt nên việc đảm bảo nước cũng chỉ giải quyết
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
15
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
được ở một số vùng có điều kiện thuận lợi về nguồn nước
ngọt.

3. Ðất phù sa
Nhóm đất phù sa bao gồm những loại đất được bồi tụ từ
những sản phẩm phù sa của sông không chịu ảnh hưởng của
các quá trình mặn hóa hay phèn hóa. Về mặt hình thái nhóm
đất phù sa mang đặc tính xếp lớp (Fluvic properties), theo
phân loại của FAO đất phù sa có các tầng A. Ochric; A.Mollic
và A.Umbric hay H. Histic.
Do đặc điểm cấu tạo về địa chất và địa hình của nước ta
những nhóm đất được bồi tụ phù sa thường hình thành về phía
biển. Theo các hệ thống sông chính đất phù sa được hình
thành và phân bố thành hai đồng bằng châu thổ lớn là đồng
bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long ngoài ra còn một dải đồng bằng hẹp ở vùng ven biển
miền trung. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu đặc điểm của các
nhóm đất phù sa trên:
3.1. Ðất phù sa hệ thống sông Hồng :
Là nhóm đất phù sa thuộc đồng bằng Bắc Bộ được hình
thành do sự bồi tích phù sa của hệ thống sông Hồng.
Hệ thống sông Hồng có đặc điểm: thủy chế thất thường,
có năm lũ lớn có năm lũ nhỏ nên đất phù sa sông Hồng có sự
biến động lớn về thành phần cơ giới trên bề mặt cũng như theo
chiều sâu phẫu diện. Ðất phù sa sông Hồng có thành phần cơ

giới dao động chủ yếu từ thịt nhẹ đến thịt trung bình do đó phù
hợp với rất nhiều loại cây trồng. Trầm tích sông Hồng có độ
phì nhiêu tự nhiên cao, có phản ứng trung tính và độ no bazơ
cao do đó đất thường giàu các kim loại kiềm và kiềm thổ
a. Diện tích và phân bố: diện tích khoảng 600.000 ha (bao
gồm cả lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình). Phân bố tập
trung chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ như Phú Thọ,
Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam,
Nam Ðịnh, Thái Bình, Hải Phòng... Vùng đất này nằm gọn
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
16
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
trong vùng châu thổ Bắc Bộ kẹp giữa hai dãy núi Tây Bắc và
Ðông Bắc, phía Đông mở ra biển, phía Nam ngăn cách với
đồng bằng Thanh Hóa bởi một dãy đồi núi thấp.
b. Ðiều kiện và quá trình hình thành
Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) chảy
sang Việt Nam qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ chảy
qua những vùng đất đỏ được hình thành trên đá vôi, đá phiến
mica, đá gơnai, phiến thạch sét, mỏ apatit... Nước sông Hồng
lúc nào cũng có màu đỏ đục ngầu do mang theo những sản
phẩm xói mòn, rửa trôi của hàng chục vạn hecta đất đỏ từ
thượng nguồn về.
Khí hậu thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa điển hình. Mùa
hạ nóng và mưa nhiều (tháng 4-10), mùa đông lạnh và khô
hanh đầu mùa nhưng cuối mùa thì ẩm ướt do mưa phùn (tháng
11-4). Lượng mưa bình quân 1600-1900 mm/năm. Ðộ ẩm
không khí bình quân trong năm là 82- 83%, tháng 2 đến tháng
4 có thể lên tới 90% do mưa phùn.
Ðịa hình toàn vùng ở đồng bằng sông Hồng khá bằng

phẳng, hơi nghiêng từ Tây bắc sang Ðông nam. Nơi cao nhất
không quá 25m, nơi thấp nhất khoảng 3m. Từ thời xa xưa sử
sách đã nhận xét "Nhất bình đản ngoại cảnh vô sơn", câu này
có nghĩa là ở đây toàn đồng bằng và không có núi đồi gì cả.
Thủy chế sông thất thường, mùa mưa có lưu lượng nước
khoảng 30.000 m
3
/giây, chứa 900-1300 g cặn phù sa/m
3
nước;
mùa khô lưu lượng nước chỉ khoảng 460 m
3
/giây và trong mỗi
mét khối nước chỉ chứa khoảng 500g cặn phù sa. Ðể chống lại
lũ lụt hàng năm, từ lâu nhân dân ta đã đắp một hệ thống đê
chạy dọc sông. Sau khi đắp đê toàn bộ vùng không được bồi
đắp phù sa trên toàn bộ bề mặt đồng bằng, đồng bằng mang
tính chất được bồi đắp dở dang. Những vùng trước đây bị vỡ
đê, nước lụt tràn vào làm cho một số nơi đất bị khoét sâu
thành vực có chỗ bồi đắp toàn cát, có chỗ lại được bồi lớp phù
sa mịn... Cũng do việc đắp đê mà hàng năm có một lượng phù
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
17
Tài liệu thi môn Thổ nhưỡng Nguyễn Trần Đăng - Lớp Môi trường A K50
sa lớn được đổ ra biển (khoảng 130 triệu tấn/ năm) nên ở các
cửa sông mỗi năm đất có thể lấn ra biển tới hàng trăm mét.
Dải đất nằm ở phía ngoài đê (đất bãi) do năm nào cũng
được bồi phù sa nên đất ở đây luôn được trẻ hóa và màu mỡ.
Thành phần hoá học của cặn phù sa này rất phong phú
với các chất tổng số: SiO

2
= 55-65%, R
2
O
3
= 25-30%, N =
0,2-0,3%, P
2
O
5
=0,4-0,6%, Na
2
O + K
2
O =2-3%, CaO + MgO
% = 2-2,5%, pH =7-7,5.
3.2. Ðất phù sa hệ thống sông Cửu Long
Sông Cửu Long (hay sông Mêkông) là một con sông có
chiều dài chảy qua 5 nước Trung Quốc, Mianma, Lào, Thái
Lan, Campuchia trước khi đổ vào Việt Nam. Ðến nước ta sông
chia ra thành 9 nhánh chảy ra biển chính bởi vậy mới có tên là
"Cửu Long". Sông Cửu Long có đặc điểm chính khác với sông
Hồng về thủy chế của sông khá điều hòa nhờ vào chiều dài
của sông, độ dốc không lớn và trước khi chảy vào Việt Nam
một lượng nước khá lớn đã chảy vào Biển Hồ của Campuchia
nên vào mùa mưa lũ nước được điều tiết vào Biển Hồ và
những vùng úng trũng lớn như vùng Ðồng Tháp Mười, U
Minh trước khi lan tỏa trên toàn bộ vùng đồng bằng. Do ở
đồng bằng sông Cửu Long không có đê nên vào mùa mưa lũ
nước ngập tràn trên phần lớn diện tích vùng đồng bằng.

Hàm lượng phù sa trong nước sông Cửu Long thấp hơn
sông Hồng, trong mùa mưa lũ cũng chỉ đạt khoảng 250 g/m
3
,
song với tổng lượng nước chảy qua sông hàng năm rất lớn
khoảng 1400 tỷ m
3
nên tổng lượng phù sa bồi đắp hàng năm ở
đây cũng rất lớn (khoảng 1- 1,5 tỷ m
3
) lượng phù sa này được
lan tỏa theo các hệ thống kênh, rạch chằng chịt dài hơn 3000
km ở đây.
a. Diện tích phân bố: Ðất phù sa sông Cửu Long có diện tích
khoảng 850.000 ha (lớn thứ hai sau diện tích đất phèn ở đồng
bằng Nam Bộ). Phân bố dọc hai bên bờ sông Tiền Giang và
sông Hậu Giang. Ðây là lớp phù sa trẻ nhất của đồng bằng
nước ta.
Phần hai: Đất chuyên khoa ( Các loại đất chính Việt Nam)
18

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×