Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ KINH DOANH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.53 KB, 31 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ KINH DOANH
XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa (hoặc dịch vụ) cho nước ngoài trên cơ sở
dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán theo nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở
đây có thể là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong mối quan hệ này.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc
gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hóa mang lại lợi ích
cho các quốc gia do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động
này.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã
xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh
vực, trong mọi điều kiện từ sản xuất hàng tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị,
tư liệu sản xuất và cả công nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động
xuất khẩu cũng đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho các quốc gia tham
gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về không gian lẫn
thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn song cũng có thể kéo dài
hàng năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay
nhiều quốc gia khác nhau.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
a. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia.
 Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu nhập khẩu.
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phụ thuộc vào 4 nhân tố đó là:
vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Song không phải quốc gia nào cũng có
đầy đủ cả 4 yếu tố này đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển và chậm
phát triển. Mô hình:
Thiếu vốn
Khả năng sản xuất kém Công nghệ lạc hậu
Hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển đều thiếu


vốn thế nên họ không có cơ hội để nhập khẩu công nghệ hiện đại và không thể
đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực do đó trình độ sản xuất của họ rất thấp.
Ngược lại trình độ sản xuất thấp lại chính là nguyên nhân làm cho quốc gia này
thiếu vốn. Vì vậy, đây chính là một vòng luẩn quẩn của các quốc gia đang phát
triển và chậm phát triển. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này buộc các quốc gia
này phải có vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến mà trong nước chưa sản xuất
được và nâng cao trình độ nguồn nhân lực qua đó nâng cao khả năng sản xuất.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra với các quốc gia là: Làm thế nào để có một
lượng ngoại tệ cần thiết đáp ứng cho nhu cầu này?
Thực tiễn cho thấy, để có đủ một lượng ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu này
các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy động vốn chính sau:
 Nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
 Nguồn đầu tư nước ngoài.
 Nguồn vay nợ, viện trợ.
 Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ ngân hàng , du lịch.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển chậm lại như hiện nay
thì các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong việc huy động được nguồn vốn từ các hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ
và các dịch vụ thu ngoại tệ. Thêm vào đấy, với các nguồn vốn này các quốc gia
phải chịu những thiệt thòi và những ràng buộc về chính trị nhất định. Vì vậy
nguồn vốn quan trọng nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là nguồn thu
từ hoạt động xuất khẩu.
 Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia thường phải lựa chọn
các mặt hàng sản xuất ở quốc gia đó có lợi thế hơn so với sản xuất tại các quốc
gia khác. Đây chính là những mặt hàng có sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào,
lao động rẻ, ứng dụng nền sản xuất trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất
khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Ta có thể chứng minh điều này ở ví dụ sau: Giả sử trong nền kinh tế thế giới
chỉ có hai quốc gia Việt Nam và Đài Loan sản xuất hai loại mặt hàng là thép và

vải.
Bảng 1: Lợi thế kinh tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Quốc gia
Hàng hóa
Việt Nam Đài Loan
Thép ( kg/1 công ) 1 6
Vải ( m/1h công ) 4 3
Qua bảng số liệu trong ta thấy: trong ngành sản xuất thép năng suất lao
động của Đài Loan lớn hơn năng suất lao động của Việt Nam. Tuy nhiên trong
ngành sản xuất vải thì Việt Nam lại có năng suất lao động lớn hơn. Do vậy Việt
Nam có lợi thế trong sản xuất thép còn Đài Loan có lợi thế trong sản xuất vải.
Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu Việt Nam
chuyên môn hoá sản xuất vải còn Đài Loan chuyên môn hoá sản xuất thép. Sau
đấy hai nước sẽ mang trao đổi một phần sản phẩm cho nhau. Nếu tỷ lệ trao đổi
bằng tỷ lệ trao đổi nội địa của mỗi quốc gia thì một trong hai quốc gia sẽ từ chối
trao đổi. Do vậy tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm ở khoảng giữa. Tức là: 6/3 >
Tỷ lệ trao đổi quốc tế (thép/vải) > 1/4. Giả sử tỷ lệ trao đổi của Việt Nam và Đài
Loan là 6 thép lấy 6 vải. Khi đó, Đài Loan sẽ được lợi 3 mét vải tương đương
với tiết kiệm được một giờ công lao động. Việt Nam sẽ được lợi 18 mét vải
tương đương với tiết kiệm được 4,5 giờ công lao động. Qua phân tích ở trên
cho thấy hoạt động xuất khẩu sẽ phát tạo cơ hội cho một quốc gia phát huy được
lợi của mình.
 Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Thông thường các nhà xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất khẩu những mặt
hàng có lợi thế của đất nước. Khi lợi nhuận thu được từ xuất khẩu mặt hàng ấy
càng lớn thì số người tập trung vào sản xuất mặt hàng ấy ngày càng nhiều. Do
vậy cơ cấu sản xuất trong nước sẽ thay đổi. Sự thay đổi này không chỉ diễn ra
trong ngành mà còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành hàng xuất
khẩu. VD: khi hoạt động xuất khẩu hàng nông sản phát triển thì nó kéo theo sự
phát triển của ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải; ngành công nghiệp thực

phẩm phát triển kéo theo ngành trồng trọt chăn nuôi phát triển; ngành dệt may
phát triển kéo theo ngành trồng bông đay cũng phát triển.
 Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập, nâng
cao mức sống và trình độ của người lao động.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang lại nguồn lợi
nhuận lớn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy số lượng lao
động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không ngừng
tăng. Hàng năm ngành xuất khẩu giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao
động. Thêm vào đó do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức
quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại nên trình độ của người lao động cũng
được cải thiện để đáp ứng với yêu cầu chung của thị trường quốc tế.
 Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế
Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa vào 4 điều kiện
đó là: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Hoạt động xuất khẩu
đem lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán do vậy là
một trong bốn điều kiện đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia : Cao
hơn nữa hoạt động xuất khẩu làm tăng tích lũy ngoại tệ của một quốc gia và có
thể biến quốc gia trở thành quốc gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh
toán cho đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Qua hoạt động xuất khẩu,
hàng hóa của quốc gia được bày bán trên thị trường thế giới, khuyếch trương
tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra hoạt động xuất khẩu làm tiền
đề cho các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Dịch vụ, ngân hàng, đầu tư,
hợp tác liên doanh...và làm cho quan hệ giữa các nước trở nên chặt chẽ hơn.
b.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
 Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào cuộc
cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng hóa trên thị trường thế giới.
Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo hơn, phải không
ngừng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới trang
thiết bị... để tự hoàn thiện mình.
 Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ buôn

bán với nhiều đối tác nước ngoài từ đó người lao động trong doanh nghiệp có
thể nâng cao năng lực chuyên môn của mình, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm
quản lý của đối tác.
 Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để mở rộng và
nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người
lao động trong doanh nghiệp.
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
a. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các hàng hóa hoặc dịch vụ do
doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới các
khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức
xuất khẩu này là : Các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với
khách hàng, với thị trường nước ngoài, biết được yêu cầu của khách hàng và
tình hình bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Ngoài ra hình thức xuất khẩu này làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
do giảm chi phí trung gian.
b.Xuất khẩu ủy thác.
Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu
một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao
theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Ưu điểm của hình
thức này là: Đơn vị có hàng xuất khẩu không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do đó rủi ro trong kinh doanh là không cao. Tuy
nhiên họ lại không trực tiếp liên hệ với khách hàng và thị trường nước ngoài
nên không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra họ thường
phải đáp ứng những yêu sách của bên nhận ủy thác.
c. Buôn bán đối lưu.
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng và lượng hàng hóa mang trao
đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích ở đây không nhằm thu về một
khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được một lô hàng có giá trị tương

đương với lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh
được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi
khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của
mình.
d.Xuất khẩu theo nghị định thư.
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà nước
giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho
chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ.
Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong
việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức
này thường không có rủi ro trong thanh thư.
e. Xuất khẩu tại chỗ.
Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới
quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. Ở hình thức này doanh
nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người
mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp do vậy doanh nghiệp
tránh được những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận
chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này thường được áp
dụng đối với quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài
đóng tại quốc gia đó.
f. Gia công quốc tế.
Là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhập nguyên liệu hoặc bán
thành phẩm (bên nhận gia công) của bên khác (bên đặt gia công) để chế tạo ra
thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một khoản lệ phí
như thỏa thuận của cả hai bên. Trong hình thức này bên nhận gia công thường là
các quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động dồi dào, có tài nguyên thiên
nhiên phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động,
có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để nâng cao năng suất sản xuất. Còn
đối với nước đặt gia công họ khai thác được giá nhân công rẻ và nguyên phụ
liệu khác từ nước nhận gia công.

g.Tái xuất khẩu.
Với hình thức này một nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa đã nhập từ một
nước khác sang nước thứ ba. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể
thu được một khoản lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào
trang thiết bị, nhà xưởng, khả năng thu hồi vốn cao. Hình thức này được áp
dụng khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước
nhập khẩu.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của
môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp song cũng có thể tạo ra những
khó khăn, kìm hãm sự phát triển của hoạt động này.
Đối với hoạt động xuất khẩu - một trong những hoạt động quan trọng của
thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động này càng
trở nên mạnh mẽ bởi trong thương mại quốc tế các yếu tố thuộc môi trường
kinh doanh rất phong phú và phức tạp. Ta có thể phân chia các nhân tố thuộc
môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
thành các nhóm sau:
 Các nhân tố vĩ mô:
a. Các công cụ của nhà nước trong quản lý kinh tế.
Các quốc gia khác nhau thường có những chính sách thương mại khác
nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh
các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc gia mình.
Để nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại
thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các công cụ chính sách
chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết hoạt động này gồm:
 Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị
hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản
lý hoạt động xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình. Công

cụ này thường chỉ được áp dụng với một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ
sung cho ngân sách nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng đầy đủ nhu cầu
tiêu dùng mặt hàng ấy trong nước.
Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu cũng có tác động đến
hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thuế quan nhập khẩu là thuế quan mà
nước nhập khẩu đánh vào một đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy nó sẽ làm tăng
gía bán hàng xuất khẩu của doanh nghiệp tại thị trường nhập khẩu. Vì vậy hàng
xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh.
 Hạn ngạch
Hạn ngạch được hiểu như là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất
một mặt hàng hay một nhóm hàng doanh nghiệp được phép xuất khẩu hay nhập
khẩu. Quốc gia xuất khẩu sẽ quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm điều chỉnh
lượng hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Quốc gia nhập khẩu sẽ quy
định hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào trong nước,
bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh
toán. Tương tự thuế quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có thể gây
tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
 Tiêu chuẩn kỹ thuật
Ngoài hai công cụ thuế quan và hạn ngạch, một công cụ khác tinh vi hơn
ngày càng được nhiều quốc gia sử dụng đó là việc đề ra các tiêu chuẩn chất
lượng, kỹ thuật cho sản phẩm nhập khẩu. Đây là biện pháp phi thuế quan cũng
nhằm mục đích hạn chế lượng hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
 Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích
xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng tiền khác. Sức
mua của đồng tiền là khả năng thanh toán của một đơn vị tiền tệ với một khối
lượng hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh thanh toán quốc tế. Trong
thanh toán quốc tế người ta thường sử dụng những đồng tiền mạnh như USD để
thanh toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng, tương đương với giá trị ngoại tệ tăng so
với nội tệ khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ

giá hối đoái giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc
đẩy, mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện
pháp này thường được nhiều quốc gia sử dụng vì: Khi xâm nhập vào thị trường
nước ngoài doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi ro cao hơn so với thị trường trong
nước. Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được nhà nước sử dụng dưới nhiều hình
thức như: trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất vốn vay, hoặc cho bạn
hàng nước ngoài vay ưu đãi đẻ họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình...
 Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại
Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương mại sẽ góp phần củng
cố lòng tin của đối tác nước ngoài với quốc gia, nâng cao uy tín của quốc gia
trên trường quốc tế. Biện pháp để quốc gia có thể giữ cán cân thanh toán, cán
cân thương mại có thể là: Khuyến khích xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn chế
nhập khẩu hoặc vay vốn. Tuy nhiên sự cân bằng theo các hình thức cấm nhập
khẩu là cân bằng tiêu cực, gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế của quốc
gia. Chính vì vậy, để cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại các
quốc gia không còn con đường nào khác ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong
đó chú trọng tới mặt hàng chủ lực.
Như vậy nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân
thương mại đã chứa đựng trong đó yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của
quốc gia.
b.Các quan hệ kinh tế quốc tế.
Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới hoạt động
thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung và tác động tới hoạt động
thương mại của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế
chính vì vậy nó cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này.
Khi hàng hóa của doanh nghiệp xâm nhập được vào thị trường của một
quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với các rào
cản thương mại từ quốc gia này như: thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, các tiêu

chuẩn kỹ thuật sản phẩm.... Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay
các rào cản thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu chặt chẽ hay nới lỏng
hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song phương giữa quốc gia xuất
khẩu và quốc gia nhập khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, nhiều hiệp
định kinh tế song phương và đa phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế
đã được hình thành với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia,
giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới. Nếu
là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định thương mại ấy thì quốc
gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Nếu không phải, chính các hiệp
định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho việc
xâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Tóm lại, có được những mối quan hệ mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo
tiền đề cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
c. Ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế.
Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định đến lượng cung hàng
xuất khẩu. Nếu nền sản xuất trong nước phát triển, khả năng cung ứng hàng
xuất khẩu sẽ tăng lên, giá cả thu mua hàng xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh
nghiệp sẽ gặp thuận lợi trong khâu đầu vào. Ngược lại, khi nền sản xuất trong
nước bị giảm sút dẫn tới giá cả hàng xuất khẩu sẽ tăng lên, doanh nghiệp sẽ gặp
khó khăn để chọn được hàng hóa có chất lượng cao, đồng loại phục vụ cho xuất
khẩu.
Đối với nền sản xuất nước ngoài thì ngược lại. Khi nền sản xuất nước
ngoài phát triển, nhu cầu nhập khẩu sẽ ít đi, khả năng xuất khẩu của các doanh
nghiệp vào thị trường của họ sẽ bị hạn chế. Ngược lại, khi nền sản xuất của họ
bị giảm sút, nhu cầu nhập khẩu của họ cao. Đây sẽ là thới cơ để doanh nghiệp
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình.
Vấn đề không đơn thuần chỉ có các yếu tố cung, cầu, giá cả mới tác động
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Rất nhiều các yếu tố khác cũng tác
động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp như: chất lượng, mẫu mã,

chủng loại của sản phẩm. Khi các yếu tố này đều tốt thì khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường quốc tế sẽ cao. Đây là một sự thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước và quốc tế
cũng góp phần hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu vì nó quyết định đến sự chu
chuyển hàng hóa trong nội bộ nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế thế
giới.
d.Trình độ phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng, thông tin liên lạc,
cơ sở hạ tầng quốc gia.
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đang phát triển khá mạnh và có can
thiệp rất lớn tới hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực
dù doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào và hoạt động trong lĩnh vực
nào. Một hệ trong thống ngân hàng phát triển không đơn thuần chỉ là nơi cấp
vốn cho doanh nghiệp mà nó còn giúp các doanh nghiệp trong việc thanh toán
một cách thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. Đây là một trong những yếu tố
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin liên lạc của một quốc gia cũng góp phần thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin đầy đủ,
chính xác và nhanh chóng cho doanh nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia cũng có tác động rất lớn tới hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ thống đường xá, cầu cống
phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao khả năng tham gia của doanh
nghiệp vào thị trường thương mại quốc tế. Đặc biệt các bến bãi, các nhà ga, các
cảng biển có tác động trực tiép tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu
hệ thống này được đầu tư xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của thị trường
quốc tế sẽ là nhân tố tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp. Ngược lại, hệ thống cảng biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối
thiểu về kỹ thuật sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước ngoài và rất có thể
doanh nghiệp sẽ mất cơ hội kinh doanh.
 Các nhân tố vi mô

a. Nguồn nhân lực
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy
con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét đến các vấn đề liên quan
đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có kinh
nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước biến động
của thị trường và đặc biệt có lòng say mê trong công việc luôn là đội ngũ lý
tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn
nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì
doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và kinh doanh kém hiệu quả. Như
vậy, nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp muốn
hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm tuyển chọn đội ngũ lao động
thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng đến công tác quản lý nhằm tạo động
lực cho người lao động trong doanh nghiệp làm việc có hiệu quả.
b.Khả năng tài chính
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh của
doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Nếu có tiềm lực tài chính mạnh, doanh
nghiệp sẽ có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động có chất lượng cao,
mở rộng quy mô hoạt động. Ngoài ra khi có tiềm lực về tài chính doanh nghiệp
có trong thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông qua việc cấp tín dụng
cho khách hàng qua hình thức mua trả chậm.
Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh
hưởng lớn bởi khả năng tài chính của doanh nghiệp.
c. Vị trí địa lý
Nếu được bố trí ở gần nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc vùng gần nhà ga cảng biển, doanh nghiệp sẽ giảm được
chi phí vận chuyển - đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách
địa lý nhà cung ứng yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể thường xuyên xuống
cơ sở sản xuất tạo lập mối quan hệ nhằm xây dựng chân hàng vững chắc phục

vụ hoạt động xuất khẩu. Như vậy để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả doanh
nghiệp cần lựa chọn vị thế tối ưu phù hợp với khả năng và điều kiện của mình.
d.Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp chính là tình cảm, là sự tin tưởng mà khách hàng
dành cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã có uy tín cao, đối với khách hàng
nhiều khi họ mua hàng dựa trên uy tín của doanh nghiệp chứ không hoàn toàn
dựa trên chất lượng hàng của doanh nghiệp. Vì vây, uy tín cũng quyết định đến
vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
5. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ ngoại thương có những nét đặc
trưng, phức tạp hơn nhiều so với hoạt động thương mại trong nước. Vì vậy

×