Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Các nguồn lực trong phát triển kinh tế liên hệ với thực tế ở địa phương tiểu luận cao học môn Kinh tế phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.09 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Trong tiến trình đổi mới của đất nước ta, Đảng và Nhà nước đã nhận
định: cần phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội
nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để
phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế,
nhất là kinh tế tư nhân, làm động lực, nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ
của nền kinh tế. Các nguồn lực trong nước được khai thác, sử dụng hợp lý,
hiệu quả sẽ tạo môi trường ổn định, hấp dẫn thu hút nguồn lực nước ngoài. Các
nguồn lực nước ngoài (vốn, khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý...) là
nguồn hỗ trợ, bổ sung cho nguồn lực trong nước, làm tăng năng lực sản xuất,
tạo điều kiện để khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cả trong và ngoài
nước.
Trong mối quan hệ đó, nguồn lực trong nước đóng vai trò quyết định,
nguồn lực nước ngoài là quan trọng. Nội lực có vai trò quyết định đối với sự
phát triển, bởi vì, có phát huy được nội lực mới thu hút và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực nước ngoài. Nội lực có được tăng cường mới bảo đảm được
độc lập, tự chủ về kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
mới thành công. Ngược lại nếu sử dụng nguồn lực nước ngoài không hợp lý,
để nguồn lực đó lấn át, chèn ép làm kìm hãm, phá sản nguồn lực trong nước
thì sẽ có nguy cơ làm cho nền kinh tế lệ thuộc nước ngoài, dễ tổn thương đến
tính độc lập tự chủ và dễ dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Chính vì tầm quan
trọng của vấn đề đó nên tôi đã chọn đề tài “Các nguồn lực trong phát triển
kinh tế - liên hệ với thực tế ở địa phương” cho môn học Kinh tế phát triển
của mình.


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUỒN LỰC PHÁT
TRIỂN
1. Khái niệm về nguồn lực phát triển
Nguồn lực (Resouree) là toàn bộ những yếu tố trong và ngoài nước đã,


đang và sẽ tham gia vào quá trình thúc đẩy, phát triển, cải biến xã hội của một
quốc gia. Có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực phát triển do các tác
giả trình bày dưới các cách tiếp cận khác nhau, nhưng về cơ bản chúng đều
thống nhất ở những điểm sau.
- Nguồn lực phát triển là tổng thể các yếu tố kinh tế, phi kinh tế cả
trong nước và nước ngoài đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình thúc đẩy, cải
biến xã hội theo hướng tiến bộ của một quốc gia.
- Nguồn lực phát triển kinh tế là tổng thể nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên, tài sản quốc gia, nguồn nhân lực và các yếu tố phi vật thể khác, bao
gồm cả trong nước và nước ngoài có khả năng khai thác, sử dụng nhằm thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững.
2. Phân loại các nguồn lực phát triển
Rất nhiều nguồn lực tham gia vào quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Do vậy, khi nghiên cứu, người ta thường phân chia nguồn lực thành
các nhóm để phân tích, đánh giá các đặc điểm, tính chất của chúng và có giải
pháp thích hợp nhằm khai thác có hiệu quả các yếu tố nguồn lực đó vào quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sự phân loại các nguồn lực phát triển
cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Tiếp cận theo tính chất của nguồn lực phát triển, thì người ta chia
nguồn lực phát triển thành hai loại sau:
Thứ nhất: Các nguồn lực vật chất.


Nhóm này bao gồm các nguồn lực như: nguồn lực lao động; nguồn lực
khoa học - công nghệ; nguồn vốn và nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. Đây là
các nguồn lực đầu vào trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra các sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ mong muốn. Nhưng mức độ tham gia của các
nguồn lực phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
tính chất của từng loại sản phẩm và hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát
triển. Ngoài ra mức độ tham gia của các nguồn lực vào quá trình sản xuất còn

phụ thuộc vào cơ chế quản lý và hệ thống chính sách của nhà nước.
Thứ hai: Các nguồn lực phi vật chất:
Nhóm này bao gồm rất nhiều yếu tố tác động đến tăng trưởng và phát
triển, có thể nêu một số yếu tố cơ bản như:
- Thể chế chính trị: Tuy đây không phải là yếu tố kinh tế, song lại là
nguồn lực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế- xã hội. Trong một xã hội, thượng tầng kiến trúc luôn có mối quan hệ
biện chứng với hạ tầng cơ sở; chính trị luôn có mối quan hệ biện chứng với
kinh tế, trong đó kinh tế là cơ sở để hình thành và phát triển chính trị, nhưng
chính trị lại là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, không có chính trị phi kinh
tế và ngược lại. Một quốc gia có đường lối chính trị đúng đắn sẽ tập hợp được
mọi thành viên xã hội, tạo ra sự đồng thuận, ổn định chính trị - xã hội, môi
trường đầu tư thuận lợi, thu hút được nguồn lực trong nước và nước ngoài cho
mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Ngược lại, thể chế chính trị không ổn định,
tất yếu sẽ kéo theo suy thoái kinh tế và tệ nạn xã hội gia tăng. Như vậy, thế
chế chính trị có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã
hội.
- Cơ chế quản lý và hệ thống chính sách: Có thể chế chính trị đúng,
song cơ chế quản lý và hệ thống chính sách vĩ mô không hợp lý, thiếu căn cứ
khoa học và thực tiễn thì cũng không thể huy động, khai thác, sử dụng có hiệu


quả các nguồn lực trong nước và nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
không thể phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Không những thế
cơ chế quản lý và chính sách vĩ mô không hợp lý sẽ dẫn đến khai thác, sử
dụng lãng phí các nguồn lực và hiệu quả kinh tế - xã hội kém, kinh tế suy
thoái, thậm chí dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Đặc điểm tôn giáo, truyền thống, dân tộc, tính cộng đồng: Đây là các
nguồn lực mang tính nhân văn, là sức mạnh tinh thần, nó khuyến khích mọi
thành viên xã hội tự rèn luyện, nâng cao năng lực và ý chí để hoàn thành tốt

nhiệm vụ của công dân, góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tính cộng đồng cao sẽ tạo
ra sức mạnh tập thể lớn hơn, góp phần nâng cao năng suất lao động, hiệu quả
kinh tế - xã hội.
- Kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh: Sản xuất cái gì? sản xuất
như thế nào? sản xuất cho ai? đều do thị trường quyết định. Nhưng trong thực
tế không phải ai tổ chức sản xuất kinh doanh cũng thành công. Sự thành, bại
trong sản xuất kinh doanh còn phụ thuộc vào việc biết vận dụng các kiến thức
khoa học, nắm bắt nhu cầu thị trường và kinh nghiệm quản lý vào quá trình tổ
chức, điều hành sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, người có
kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh, có năng lực cạnh tranh thì sẽ có cơ
hội mở rộng sản xuất thu lợi nhuận cao và ổn định. Do vậy, kinh nghiệm tổ
chức sản xuất kinh doanh không chỉ là yếu tố sản xuất đơn thuần, mà còn là
nguồn lực rất quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Tiếp cận theo khu vực hành chính quốc gia, nước ta chia các nguồn lực
phát triển thành hai loại là nguồn lực trong nước và nước ngoài.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nguồn lực nước
ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi quốc gia. Nhưng nguồn lực nước
ngoài chỉ bao gồm các nguồn lực vật chất và kinh nghiệm quản lý. Các nguồn


lực trong nước bao gồm các nguồn lực vật chất và các nguồn lực phi vật chất.
Nguồn lực trong nước nhiều hay ít, mạnh hay yếu phụ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử nhất định của mỗi quốc gia. Như vậy, thể chế chính trị, cơ
chế chính sách, đặc điểm dân tộc, tôn giáo, truyền thống, tính cộng đồng là
các yếu tố nguồn lực phát triển riêng có của mỗi quốc gia, dân tộc, chứ không
thể trao đổi, mua bán hay áp đặt dưới bất kỳ hình thức nào.
3. Mối quan hệ giữa nguồn lực trong nước và nước ngoài
Trong xu thế toàn cầu hóa, việc khai thác nguồn lực phát triển giữa các
quốc gia để tạo ra khả năng hợp tác đan xen vào nhau, bổ sung sức sản xuất

cho nhau, khai thác lợi thế của nhau là tất yếu khách quan. Song muốn khai
thác có hiệu quả nguồn lực nước ngoài, tác động tích cực đến khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, cần hoàn thiện các điều kiện sau:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý và các chính sách
không chỉ phù hợp với sự vận động phát triển kinh tế - xã hội nước ta, mà còn
phải phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực;
- Xây dựng kết cầu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội bảo đảm các điều
kiện thiết yếu cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả;
- Đào tạo, đào tạo lại lại đội ngũ kỹ thuật, quản lý và đội ngũ lao động
có chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới, hiện đại với
trình độ kỹ thuật tiến tiến.
- Duy trì và phát triển thế chế chính trị tiến bộ, ổn định là điều kiện tiên
quyết để các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn và kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh
lầu dài ở nước ta.
Khi các điều kiện được hoàn thiện, đầu tư nước ngoài tăng lên sẽ góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu cho ngân sách, giải quyết
việc làm, tăng sản phẩm xuất khẩu, học tập được kinh nghiệm, quản lý sản
xuất kinh doanh ... Những đóng góp đó rất quan trọng trong quá trình thực


hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Song nguồn lực nước
ngoài chỉ đóng vai trò quan trọng, nguồn lực trong nước đóng vai trò quyết
định. Để khai thác có hiệu quả nguồn lực nước ngoài, thì Nhà nước cần có qui
hoạch phát triển và định hướng khuyến khích đầu tư vào các ngành, lĩnh vực
mà nước ta chưa đủ khả năng đầu tư. Đồng thời có chính sách khuyến khích
đầu tư vào vùng sâu, vùng xa, vào các ngành sử dụng nhiều lao động ... để thu
hút nguồn lực tài nguyên, lao động tại địa phương.
Tóm lại, giữa nguồn lực trong nước và nước ngoài có mối quan hệ hỗ
trợ, bổ sung, hợp tác với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển và cùng có lợi.
Song phải lựa chọn các dự án đầu tư phải có chính sách bảo đảm cho các nhà

đầu tư có lợi nhuận thỏa đáng, nhưng không làm ảnh hưởng đến môi trường
kinh tế, xã hội và kìm hãm sự phát triển nguồn lực trong nước.
II. CÁC NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở NƯỚC TA
1. Nguồn lực lao động
Nguồn lực lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi có khả năng lao
động được pháp luật quy định, thực tế đang làm việc và những người đang
tích cực tìm kiếm việc làm.
Nguồn lực lao động là nhân tố quyết định việc tổ chức khai thác, cải
tạo, sử dụng có hiệu quả và phát triển các nguồn lực khác của quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
Nguồn lực lao động là một trong những yếu tố cơ bản '' đầu vào" của
quá trình sản xuất. Chi phí nguồn lực lao động trở thành yếu tố cấu thành giá
trị hàng hóa và là bộ phận cấu thành mức tăng trưởng của nền kinh tế.
Nguồn lao động vừa là yếu tố "đầu vào" của quấ trình sản xuất, vừa là
người tham gia tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ của xã hội. Như vậy, với tư
cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở
thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Nguồn lực lao động khác với các nguồn


lực khác là vừa tham gia tạo cung, tạo cầu, vừa trực tiếp điều tiết quan hệ gắn
bó với chủ thể kinh tế - xã hội do con người tạo ra.
Trong nền kinh tế công nghiệp, nền kinh tế tri thức, nguồn lao động
chất lượng cao là nhân tố quyết định. Đảng và nhà nước ta khẳng định mục
tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội là vì con người và do con người.
2. Nguồn lực khoa học và công nghệ
Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, qui trình, kỹ năng, bí quyết,
công cụ, phương tiện để biến đổi các nguồn lực thành các sản phẩm và dịch
vụ mong muốn.

Công nghệ bao gồm 4 yếu tố: công cụ, con người, thông tin và tổ chức.
Bốn yếu tố này tác động qua lại vối nhau và cùng thực hiện quá trình sản xuất.
- Vai trò của khoa học và công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Khoa học và công nghệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác
động của nó đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Khoa học và công nghệ góp phần mở rộng khả năng phát hiện, khai
thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. Khoa
học và công nghệ tạo điều kiện mở rộng khả năng huy động, tập trung, di
chuyển các nguồn lực lao động và nguồn vốn một cách kịp thời, nhanh chóng
để khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó.
Khoa học và công nghệ góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và
chuyển từ tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang chiều sâu.
Khoa học và công nghệ phát triển sẽ phát minh sáng chế ra các máy
móc, thiết bị hiện đại, vật liệu mới, công nghệ tiên tiến góp phần thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển sang nền kinh tế tri thức.


Khoa học và công nghệ làm tăng khả năng tiếp cận của người tiêu dùng
đến với hàng hóa và dịch vụ.
Thứ hai, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ:
Khoa học và công nghệ phát triển làm thay đổi lực lượng sản xuất theo
hướng hiện đại; thay đổi qui mô sản xuất; thay đổi ngành nghề, sản phẩm; mở
rộng khả năng tiếp cận thị trường; giảm bớt sự cách biệt giữa các vùng, miền.
Thứ ba, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa:
ứng dụng những tiến bộ của khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản
xuất sẽ tăng năng suất lao động, giảm chi phí đầu vào, giá thành sản phẩm
thấp, chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã, nhãn hiệu phù hợp và uy tín của
thương hiệu sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và
sản phẩm hàng hóa.

Thứ tư, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người:
Khoa học và công nghệ thúc đẩy công nghệ cao, công nghệ điện tử, tin
học, viễn thông phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho con người giao lưu, liên
kết với nhau trên phạm vi quốc gia cũng như toàn cầu; tạo điều kiện cho con
người được hưởng lợi ích văn hóa, tinh thần và văn minh nhân loại; phát triển
công nghệ sinh học để chế ra các loại dược phẩm, sản phẩm sinh học dể
phòng chống và chữa bệnh cho con người
Thứ năm, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái:
Khoa học và công nghệ phát triển sẽ tạo ra các công nghệ sạch, năng
lượng sạch, vật liệu mới, thay năng lượng và vật liệu truyền thống góp phần
bảo vệ môi trường.
Công nghệ sinh học phát triển sẽ biến các chất thải thành phân vi sinh
thay thế phân hóa học, thuốc trừ sâu gây ô nhiễm môi trường.
Khoa học và công nghệ sẽ góp phần sử lý chất thải rắn, khí thải, bụi
độc hại, nước thải ... do công nghiệp và sinh hoạt của dân cư thải ra.


3. Nguồn lực vốn
Vốn cho phát triển kinh tế - xã hội được hiểu như sau: "vốn không chỉ
bao gồm nguồn ngân sách cùng các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm hàng hóa tồn kho... được biểu hiện dưới
dạng giá trị, mà còn bao gồm cả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao
động, đặc biệt là lao động trí tuệ"
Với cách hiểu như vậy người ta chia vốn thành hai loại:
Loại vốn hữu hình: là vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất, giá trị.
Loại vốn vô hình: bao gồm các phát minh sáng chế, mẫu, kiểu dáng
công nghiệp, uy tín thương hiệu, lợi thế địa lý...
Các nguồn vốn
- Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước gồm có:

Tiết kiệm của ngân sách nhà nước là phần ngân sách nhà nước dành
cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Tiết kiệm của doanh nghiệp là phần lãi sau thuế được các doanh nghiệp
dành cho đầu tư phát triển.
Tiết kiệm của dân cư là phần thu nhập để dành chưa tiêu dùng của các
hộ gia đình.
- Nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn nước ngoài gồm nguồn vốn của các chính phủ, các tổ chức
phi chính phủ, các tổ chức quốc tế và tư nhân, đầu tư vào nước khác dưới các
hình thức trực tiếp và gián tiếp.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment FDI) là nguồn vốn tư nhân nước ngoài đầu tư vào nước khác (nước tiếp nhận
đầu tư) để tiến hành kinh doanh vì mục đích lợi nhuận.
Nguồn vốn FDI gắn trực tiếp với trách nhiệm bảo tồn vốn với các chủ
đầu tư, nước tiếp nhận đầu tư không phải chịu trách nhiệm hoàn trả vốn và lãi
như trường hợp đi vay.


Nguồn vốn FDI ở nước ta bao gồm các hình thức, hợp đồng hợp tác
kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài.
Nguồn vốn FDI có thể bù đắp nguồn vốn thiếu hụt trong nước để đầu tư
phát triển, có thể tiếp nhận được công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo thêm việc làm, tăng GDP và
tăng thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, do sự chênh lệch về công nghệ, nguồn tài chính và kinh
nghiệm quản lý nên thu hút vốn FDI cũng nảy sinh nhiều vần đề phức tạp
như: mâu thuẫn về lợi ích giữa giới chủ và người lao động, những tác động
tiêu cực về kinh tế, xã hội và môi trường.
4. Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai, được

hình thành, tồn tại trong tự nhiên và tất cả những gì thuộc về thiên nhiên
mà con người có thể khai thác, sử dụng thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển của mình.
Tài nguyên thiên nhiên rất đa dạng và phong phú, song để nghiên cứu
chúng ta có thể chia làm hai loại cơ bản.
Loại thứ nhất: Tài nguyên hữu hạn, đây là loại tài nguyên có trữ lượng
nhất định, không được cung cấp liên tục, sử dụng nhiều sẽ hết.
Loại này, lại có thể chia thành hai nhóm:
Nhóm tài nguyên có thể tái tạo được như: nước, thổ nhưỡng, hệ động
vật, thực vật ...
Nhóm tài nguyên không tái tạo được, đó là các loại khoáng sản.
Loại thứ hai: Tài nguyên vô hạn, đây là loại tài nguyên có trữ lượng vô
định, được cung cấp liên tục, phân chia theo địa giới hành chính và khi khai
thác, sử dụng không gây ô nhiễm môi trường.


III. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC TRONG KHAI THÁC SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC
PHÁT TRIỂN Ở NƯỚC TA
1. Một số quan điểm định hướng khai thác, sử dụng các nguồn lực
phát triển ở nước ta
Một là: Chủ động và mở rộng hợp tác quốc tế trong khai thác, sử dụng
các nguồn lực phát triển. Hội nhập sâu rộng với các nước, vùng lãnh thổ trên
thế giới và khu vực là nhằm thực hiện hợp tác đa phương, song phương; hợp
tác toàn diện, tích cực vào các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội; khai thác
được nguồn lực nước ngoài, học tập kinh nghiệm tiền tiến của các nước đi
trước, mở rộng các loại thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội.
Hai là: Khai thác lợi thế so sánh, khi mà khoa học và công nghệ của thế
giới phát triển mạnh mẽ, kéo theo công nghiệp công nghệ cao phát triển

nhanh chóng. Nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đang chuyển dần
sang kinh tế tri thức, giai đoạn phát triển cao hơn của nền kinh tế công
nghiệp. Trong khi đó, Việt Nam mở cửa, hội nhập với điểm xuất phát thấp và
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Do vậy, phải biết khai thác lợi thế so sánh đó
để bổ sung cho các nguồn lực trong nước còn thiếu hụt hoặc không có. Nhưng
để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh đó, thì phải xác định tiềm năng, lợi
thế của đất nước; xác định các ngành mũi nhọn, sản phẩm chủ lực cho xuất
khẩu; đầu tư phát triển theo chiều sâu; nâng cao năng suất, chất lượng tăng
trưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Ba là: Kết hợp khai thác, sử dụng các nguồn lực nước ngoài phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Trước hết, phải xác định chiến lược
phát triển các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà nước ta có thế mạnh, có nguồn
lực đáp ứng nhu cầu sản xuất, tạo nhiều việc làm như chế biến nông, lâm, thủy


sản, tiểu thủ công nghiệp, giầy da, dệt may... Mặt khác, phải lựa chọn đầu tư
xây dựng các ngành, lĩnh vực công nghệ có hàm lượng chất xám cao để thu hút
nguồn lực nước ngoài như công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin, các loại dịch vụ cao cấp.
Bốn là: Gắn khai thác các nguồn lực với bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Khi khai thác, sử dụng các nguồn lực, nhất là nguồn lực tài
nguyên thiên nhiên phải gắn với quá trình tái tạo, phục hồi những loại tài
nguyên có thể tái tạo được và sử dụng tiết kiệm các loại tài nguyên không thể
tái tạo được để không làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ảnh hưởng đến sự
phát triển của xã hội tương lai; sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch làm
giảm tiêu hao, thất thoát tài nguyên thiên nhiên, giảm chất thải; xây dựng
đồng bộ hệ thống xử lý chất thải, bảo vệ môi trường; phát triển nền nông
nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái; kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu máy
móc, thiết bị, công nghệ và sản phẩm từ nước ngoài, trên nguyên tắc sản
phẩm đó trong nước chưa sản xuất được hoặc sản phẩm đó phải có chất lượng

cao hơn sản phẩm trong nước.
2. Vai trò của Nhà nước trong khai thác, sử dụng các nguồn lực
phát triển
Cơ chế chính sách có vai trò cụ thể hóa chiến lược, mục tiêu, định
hướng phát triển kinh tế - xã hội thành các dự án và có các lộ trình thực hiện
để đạt kết quả. Cơ chế quản lý và hệ thống chính sách cũng tác động đến khai
thác sử dụng các nguồn lực vật chất và phi vật chất vào quá trình tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết Nhà nước phải có cơ chế điều tiết
kinh tế vĩ mô hợp lý tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định chính trị
xã hội, các chính sách tài chính, tiền tệ, duy trì tỷ lệ lạm phát hợp lý ... Các
chính sách này tác động trực tiếp đến qui mô, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Không những thế, cơ chế quản lý và hệ thống chính sách còn tác động đến sự


phát triển đồng đều các vùng, lĩnh vực kinh tế xã hội; phân công lao động xã
hội hợp lý; góp phần giải quyết gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội;
giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa nguồn lực trong nước với nguồn lực
nước ngoài phù hợp với xu thế hợp tác, hội nhập và các thông lệ của thế giới và
khu vực.
Như vậy, vai trò của cơ chế quản lý và hệ thống chính sách có ý nghĩa
quyết định thành bại trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đến
khai thác có hiệu quả các nguồn lực vật chất và phi vật chất cả trong nước và
nước ngoài nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Đồng
thời tác động đến phân phối lợi ích cộng đồng góp phần thực hiện gắn tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
IV. LIÊN HỆ VỚI THỰC TẾ HUYỆN QUỲNH NHAI – TỈNH
SƠN LA
Những năm qua, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La đã tập trung chỉ đạo
thực hiện lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, ưu tiên nguồn vốn
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn và vùng đồng bào

dân tộc thiểu số, vùng tái định cư thủy điện Sơn La; tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; quan tâm công tác đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ là con em
đồng bào các dân tộc thiểu số; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội,
nâng cao hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo.
Tranh thủ thời cơ, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực;
phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, gắn với các yếu tố bền vững; đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
sản xuất hàng hóa có sức cạnh tranh trên thị trường và xuất khẩu; từng bước
ổn định sản xuất và đời sống cho các hộ tái định cư dự án thủy điện Sơn La và
các dự án thủy điện khác. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công


nghệ; bảo vệ môi trường sinh thái; chú trọng công tác giảm nghèo bền vững.
Đảm bảo quốc phòng, an ninh; tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác đối
ngoại, nhất là quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh phía Bắc Nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào; tạo tiền đề phát triển nhanh và bền vững trong những
năm tiếp theo.



×