Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Vai trò tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng Nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa - qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 138 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ............................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3
3. Tính mới và những đóng góp của Luận văn ................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Bố cục luận văn ............................................................................................. 6
Chương 1: VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA MẶT TRẬN TQVN THAM
GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA .............................................................. 7
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ MẶT TRẬN
TQVN THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN ... 7
1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TQVN TRONG
THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN
VIỆT NAM .............................................................................................. 14
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 17
Chương 2: VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TQVN THAM GIA XÂY
DỰNG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC, CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ............ 18
2.1. VAI TRÒ THAM GIA, PHỐI HỢP CỦA MẶT TRẬN TQVN VỚI
CÁC CƠ QUAN DÂN CỬ ..................................................................... 18
2.1.1. Vai trò của Mặt trận TQVN trong tham gia công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp.................................................... 18
2.1.2. Vai trò của Mặt trận TQVN trong tham gia phối hợp tổ chức các
hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp .......................................... 22


2.1.3. Vai trò của Mặt trận TQVN trong tham gia xây dựng pháp luật và
thực hiện phản biện xã hội .................................................................... 33


2.2. VAI TRÒ THAM GIA, PHỐI HỢP CỦA MẶT TRẬN TQVN VỚI
CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ..................................... 43
2.2.1. Vai trò tham gia phối hợp của Mặt trận TQVN trong việc phát huy
quyền làm chủ và bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân ........................ 43
2.2.2. Thực trạng công tác tham gia phối hợp của Mặt trận TQVN với các
cơ quan Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ và bảo vệ
quyền dân chủ của nhân dân trên địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế ......... 49
2.2.3. Vai trò tham gia phối hợp của Mặt trận trong công tác tiếp dân, xử lý đơn
thư khiếu nại tố cáo của công dân, đôn đốc và giám sát việc giải quyết........ 58
2.3. VAI TRÒ THAM GIA, PHỐI HỢP CỦA MẶT TRẬN TQVN ĐỐI
VỚI CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP ........................................................... 65
2.3.1. Vai trò tham gia phối hợp của Mặt trận TQVN với Toà án nhân dân
góp phần bảo vệ pháp chế XHCN ........................................................ 65
2.3.2. Vai trò tham gia phối hợp của Mặt trận TQVN với Viện kiểm sát
nhân dân ................................................................................................ 73
2.4. VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TQVN TẬP HỢP XÂY DỰNG KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN THAM
GIA THỰC HIỆN CÁC PHONG TRÀO, CÁC CUỘC VẬN ĐỘNG,
XÂY DỰNG SỰ ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI NHẰM THAM GIA
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN............................... 77
2.4.1. Mặt trận TQVN tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ............................................ 77
2.4.2. Mặt trận TQVN vận động nhân dân tham gia thực hiện các phong
trào, các cuộc vận động xây dựng sự đồng thuận xã hội nhằm tham
gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ......................................... 80
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 88


Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN
TQVN TRONG THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.................................. 89
3.1. NHÓM GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC MẶT TRẬN VÀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG,
PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TQVN TRONG
THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN ............ 89
3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận ............................. 89
3.1.2. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận TQVN
trong tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ...................... 90
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH VÀ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
MẶT TRẬN TQVN TRONG THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN ............................................................... 96
3.2.1. Nhóm giải pháp đẩy mạnh nâng cao vai trò của Mặt trận tham gia đối
với cơ quan dân cử (gồm Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp) ...... 96
3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam với các cơ quan Nhà nước trong việc phát huy quyền làm
chủ và bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân ........................................ 107
3.2.3 Nhóm giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận TQVN với
các cơ quan tư pháp ............................................................................ 112
Kết luận chương 3 ....................................................................................... 115
KẾT LUẬN .................................................................................................. 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 118
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCH

: Ban chấp hành

BTT


: Ban Thường trực

ĐCT

: Đoàn Chủ tịch

HĐND

: Hội Đồng nhân dân

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TQVN

: Tổ quốc Việt Nam

TTND

: Thanh tra nhân dân

UBMT TQVN

: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam


UBND

: Ủy ban nhân dân

UBTVQH

: Ủy ban Thường vụ Quốc hội

UBTWMT

: Ủy ban Trung ương Mặt trận

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một
trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và một xã hội phát triển.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội
nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để đảm bảo quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân

dân là của nhà nước; nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp
trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều
pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không
cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tối đa của nhân dân. Vai trò của
pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định, trong đó
không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người
đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng và thực hiện pháp luật đã được quy
định. Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu
cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của "Nhà nước pháp
quyền" trong lịch sử nhân loại.
Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của dân, do dân và vì dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, bao gồm
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị xã hội. Mỗi thành phần trong hệ thống chính trị có
mỗi vai trò riêng của mình trong sự nghiệp cách mạng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập
hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp

1


thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tuyên truyền, động
viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt
động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước;
tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà

nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước
chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Với nền dân chủ
ngày càng phát triển thì Mặt trận Tổ quốc càng cần được mở rộng, vai trò của
Mặt trận TQVN cần được đề cao như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Mặt trận Dân tộc Thống nhất vẫn là một trong những lực
lượng to lớn của cách mạng nước ta"[41, T10, tr 605].
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay, việc tiếp tục xây dựng
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân vừa là cơ bản,
vừa cấp bách, nhằm đáp ứng với yêu cầu xây dựng đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đảm bảo xây dựng thành công
CNXH ở nước ta. Với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đó là chế độ hiệp thương dân chủ (khác căn bản với dân chủ trong
Đảng) đặc biệt quan trọng trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức rộng rãi của tất cả các giai cấp và tầng
lớp xã hội, với mục tiêu đoàn kết phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn
kết dân tộc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện chức năng giám sát và phản
biện xã hội - một thể chế dân chủ thực chất mà không cần nhiều đảng chính trị.
Vì vậy, việc phát huy tối đa vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia trong
xây dựng và quản lý Nhà nước, trong vai trò phản biện và giám sát hoạt động

2


của các tổ chức trong hệ thống chính trị là điều kiện quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tại Thừa Thiên Huế, nhiều năm qua hệ thống Mặt trận TQVN từ Tỉnh
đến các xã, phường, thị trấn đã có rất nhiều hoạt động nhằm phát huy dân chủ
trong các tầng lớp nhân dân, tích cực tham gia xây dựng chính sách pháp luật,
xây dựng và cụ thể hóa chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc... Tuy vậy, để đẩy

mạnh việc tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy dân chủ, thực hiện tốt hơn
nữa các chức năng giám sát, phản biện, xây dựng sự đồng thuận xã hội và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân vẫn
đang là vấn đề cần thiết đặt ra.
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn và pháp lý về Mặt trận
TQVN tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề cần thiết.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi đã chọn đề tài: "Vai trò tham gia của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa qua thực tiễn tại Tỉnh Thừa Thiên Huế" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
- Làm rõ cơ sở chính trị và pháp lý quy định vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Đề xuất các giải pháp góp phần phát huy vai trò của Mặt trận trong
xây dựng bộ máy nhà nước, xây dựng chính quyền cơ sở; phát huy chức năng
giám sát, thực hiện phản biện xã hội, tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân
dân tham gia xây dựng và thực hiện pháp luật, xây dựng sự đồng thuận xã hội
góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu về vị trí, vai trò, chức năng của Mặt trận đối với vấn đề
dân chủ, đoàn kết trong thời kỳ mới; cơ sở chính trị và pháp lý quy định.

3


- Đánh giá vai trò của Mặt trận TQVN nói chung và của Tỉnh Thừa
Thiên Huế trong tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, chính quyền cơ sở;
những khó khăn, hạn chế, kinh nghiệm thực tiễn.
- Đề xuất chủ trương, giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận
tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân.

3. Tính mới và những đóng góp của Luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò
của Mặt trận trong đời sống xã hội hiện nay, Luận văn còn:
- Trình bày một cách có hệ thống dưới giác độ khoa học pháp lý vấn đề
Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
- Đánh giá thực trạng về vai trò của Mặt trận trong tham gia xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Đưa ra những giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận TQVN
tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vai trò tham gia, phối
hợp của Mặt trận TQVN đối với bộ máy Nhà nước, chính quyền cơ sở trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN qua thực tiễn hoạt động tại Tỉnh Thừa
Thiên Huế.
- Phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những quy định vị trí vai
trò của Mặt trận TQVN trong tham gia xây dựng bộ máy Nhà nước, Luận văn
nghiên cứu cụ thể về vai trò, chức năng của Mặt trận trong tham gia phối hợp
với các cơ quan dân cử, cơ quan hành chính Nhà nước, cơ quan tư pháp; thực
hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội; phát huy vai trò tập hợp xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện các phong trào, các cuộc vận
động nhằm góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội và phát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn Tỉnh Thừa Thiên Huế.

4


* Tổng quan tài liệu:
Hiện nay, trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình, bài báo nghiên
cứu nhiều góc độ về tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN như:
Các đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước như:

Đề tài khoa học cấp bộ của Ủy ban Trung ương Mặt trận TQVN – Ban
dân chủ - pháp luật, về “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
dân nguyện của Mặt trận TQVN” do PGS-TS Bùi Xuân Đức làm chủ nhiệm đề
tài, năm 2010.
Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ của Ban dân chủ pháp luật Ủy ban
Trung ương Mặt trận TQVN về “Phát huy vai trò của Mặt trận TQVN trong
việc thực hiện chức năng giám sát nhân dân đối với chính quyền cơ sở” do
ông Đỗ Duy Thường – PCT Ủy ban Trung ương Mặt trận TQVN - năm 2005
Đề tài khoa học cấp bộ của Ủy ban Trung ương Mặt trận TQVN –
Trung tâm công tác lý luận (2004) về “Một số vấn đề đổi mới phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.
Kỷ yếu khoa học của Ủy ban Trung ương Mặt trận TQVN – Trung tâm
công tác lý luận (2004), về “Phát huy vai trò của Mặt trận TQVN trong việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”.
Kỷ yếu hội thảo khoa học của Ủy ban Trung ương Mặt trận TQVN –
Trung tâm công tác lý luận – Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận TQVN Tỉnh
Thừa Thiên Huế (2012), về “Sự phối hợp hoạt động giữa Mặt trận TQVN với
các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực dân chủ pháp luật những vấn đề đặt ra
và kiến nghị”.
Cùng với các công trình nghiên cứu, các đề tài khoa học, các luận án
tiến sĩ, các luận văn thạc sĩ còn có nhiều bài viết của các nhà khoa học, nhà
nghiên cứu và nhiều tác giả khác đăng trên các báo, tạp chí v.v. đã làm phong
phú thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn về công tác xây dựng Nhà

5


nước pháp quyền XHCN nói chung và vai trò của Mặt trận tham gia xây dựng
Nhà nước pháp quyền nói riêng. Tuy nhiên để nghiên cứu vai trò tham gia của
Mặt trận TQVN xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN qua thực tiễn tại

Tỉnh Thừa Thiên Huế đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì vậy,
việc nghiên cứu để góp phần phát huy vai trò của Mặt trận TQVN tham gia
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN – qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên
Huế là việc làm cần thiết.
5. Bố cục luận văn
Kết cấu luận văn gồm có: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

6


Chương 1
VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA MẶT TRẬN TQVN
THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ MẶT
TRẬN TQVN THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản
Việt Nam nêu rõ: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai
trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và đổi
mới, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân,
thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân". "Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận".[15,tr 31].
Đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VII tháng 11/1999) khẳng định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với việc xây dựng Nhà nước: Cải cách bộ máy Nhà nước còn bao hàm
một nội dung quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước
với Mặt trận TQVN và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể tham
gia xây dựng quản lý, giám sát và bảo vệ Nhà nước. Nhà nước dựa vào Mặt

trận và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của
nhân dân. Đó là sức mạnh của bản thân Nhà nước.
Ngày 17/11/1993 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VII) ban hành Nghị quyết số 07/TW về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt
trận dân tộc thống nhất Việt Nam, đã nhấn mạnh vai trò của Mặt trận TQVN
trong việc tham gia xây dựng chính quyền: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần
được củng cố và mở rộng về tổ chức và hoạt động để thực sự là một tổ chức

7


tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi thể hiện nguyện vọng và ý chí của các
tầng lớp nhân dân... tham gia cùng với chính quyền trong việc thực hiện dân
chủ và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân, tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ chính quyền"[47, tr 165].
Đến Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
7/1996), Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của mặt trận TQVN trong việc tham
gia xây dựng chính quyền. Văn kiện Đại hội nêu rõ: "Củng cố, mở rộng tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội và các cá
nhân tiêu biểu. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân; tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện giám sát
việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước". "Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thực sự là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân”[16,tr 44].
Như vậy, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận TQVN về xây dựng, tập hợp khối đại đoàn
kết toàn dân tộc nói chung và về nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

trong công tác tham gia xây dựng, củng cố chính quyền nói riêng đã được thể
hiện ngày càng rõ hơn qua hai kỳ Đại hội (từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII). Nghị quyết Đại hội lần
thứ VII của Đảng mới xác định vai trò rất quan trọng của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân, bảo vệ Tổ quốc, chăm lo lợi ích
của đoàn viên, hội viên, thành viên của tổ chức mình; thực hiện dân chủ và
đổi mới xã hội. Nghị quyết Đại hội lần này Đảng ta chưa đặt vấn đề Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng, giám sát và bảo vệ chính quyền nhân

8


dân, nhất là nhiệm vụ giám sát và động viên nhân dân giám sát hoạt động của
cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức Nhà nước. Đến Đại
hội VIII Đảng ta đã xác định: Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân; tham gia với Nhà nước thực hiện và giám
sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng
lớp nhân dân. Cần đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân, làm cho Mặt trận và các tổ chức thành viên
thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Bởi lẽ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước ta là trụ cột của
hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân. Quyền lực
Nhà nước là thống nhất, có sự phấn công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; tăng
cường sự lãnh đạo đối với Nhà nước”[16, tr 44, 45].
Để xây dựng Nhà nước - Trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ thực
hiện quyền lực của nhân dân thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả,
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định "Cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân”[16, tr.71]. Chính những ý

kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường
lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng
cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới
đạt được những thành tựu hôm nay. Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến
lên, giành những thành tựu to lớn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, cả trong nước và nước ngoài, phát huy
dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng, tập hợp khối đại

9


đoàn kết toàn dân tộc, do đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành
viên của Mặt trận phải đảm nhiệm trọng trách là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, tham gia và phát huy quyền làm chủ của nhân dân xây dựng,
giám sát và bảo vệ chính quyền nhân dân. Đó là một tất yếu lịch sử của cách
mạng và sứ mệnh cao cả của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng là mốc son lịch sử đánh dấu thời kỳ phát triển mới
của cách mạng Việt Nam, thời kỳ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định "Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong
sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". [17, tr 129]. Đồng thời Đảng ta còn nêu
rõ hơn, cụ thể hơn về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ
mới, đó là "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp
khối đại đoàn kết toàn dân, góp sức xây dựng Nhà nước trong sạch, vững

mạnh; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp; xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác và
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các
cơ quan Nhà nước”[17, tr 130].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn
ra trong thời điểm mà sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã trải qua 20 năm.
Hai mươi năm đổi mới chúng ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, đã đưa lại cho đất nước ta một sự thay đổi cơ bản và toàn diện, làm cho
thế và lực, uy tín quốc tế của nước ta tăng lên nhiều so với trước. Chúng ta nhất

10


định làm hết sức mình để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Để đạt được mục tiêu cao cả
đó cần đưa ra và triển khai thực hiện có đồng bộ các giải pháp; trong đó có việc
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đại đoàn kết
toàn dân tộc. Về vấn đề này Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập
hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc
sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội" [18, tr 124].
Tuy nhiên, trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần này đã có
bước phát triển mới về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đó là “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân
đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân” và “Nhà nước ban
hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò

giám sát và phản biện xã hội” [18, tr.124]. Đảng “Xây dựng quy chế giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối chủ trương, chính sách,
quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác
tổ chức và cán bộ”[18, tr.135].
Về vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động
của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức Nhà nước đã
được Đảng ta nêu ra từ Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VII) năm 1991 và đã được thể chế hóa tại điều 9 Hiến pháp 1992 và
nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước. Còn vai trò phản biện xã hội của Mặt
trận được Nghị quyết Đại hội X của Đảng ta nêu ra; đây là vấn đề rất khó và

11


nhạy cảm, nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc vận động các tầng
lớp nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ
mới. Tuy nhiên để quan điểm này của Đảng đi vào đời sống xã hội thì cần
được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, có cơ chế cụ thể thì Mặt trận, các
đoàn thể nhân dân thực hiện mới có hiệu quả.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính
trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các
dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân”. “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng
cường tổ chức, đội mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình
trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân

xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám
sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững
mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân
dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại”[19, tr 86,87, 246].
Tóm lại, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng, giám sát, bảo vệ Đảng,
xây dựng và củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân ngày càng được
khẳng định rõ hơn, cụ thể hơn qua các kỳ đại hội của Đảng. Đúng như lời Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã dạy: "Chính sách
Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác
rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng. Các cán bộ và đảng viên ta

12


cần nắm vững và chấp hành đúng Nghị quyết của Đại hội Đảng và Nghị
quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất. Trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của
cách mạng Việt Nam" [40, T9, trg 401].
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng ta nêu ra là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mọi hoạt động của bộ máy Nhà nước
phải được thực hiện trên cơ sở pháp luật, quản lý Nhà nước bằng pháp luật,
"pháp luật là tối thượng". Đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền quyền Nhà nước
đều thuộc về nhân dân; quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công
phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về cơ
chế kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan công quyền. Tóm lại
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân,

được xác lập trên cơ sở pháp luật, đảm bảo mọi công dân đều được làm những
việc mà pháp luật không cấm; cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước chỉ
được làm những việc mà pháp luật cho phép. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu của các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư
ở nước ngoài; là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện cho quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân; có vai trò quan trọng trong việc thực hiện giám
sát và phản biện xã hội góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng, xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

13


1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TQVN
TRONG THAM GIA XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN
VIỆT NAM
Thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước,
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác với
tất cả các nước, tiếp tục phấn đấu giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong
sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1992, Quốc hội quyết
định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm
vụ mới của cách mạng Việt Nam. Trong đó, điều 9 Hiến pháp năm 1992,
Quốc hội quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống
đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân

dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, động viên nhân
dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên
chức Nhà nước”.
Năm 2001, Quốc hội quyết định sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 cho
phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Trong đó có bổ sung điều 9 quy định
về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Điều 9 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ
sung năm 2001 vẫn tiếp tục khẳng định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên
chức Nhà nước. Đồng thời bổ sung một khái niệm về Mặt trận Tổ quốc Việt

14


Nam, đó là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội,
các dân tộc, các tôn giáo và người Việt nam định cư ở nước ngoài”. Có thể
nói đây là một nội dung hết sức quan trọng, lần đầu tiên được đưa vào Hiến
pháp nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức trong cán bộ, công chức, đảng viên
và trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Đó là vấn đề có ý nghĩa chính trị to lớn cả trong nước và quốc tế.
Để nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới đất nước, góp phần thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường
mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, phát huy tinh
thần yêu nước, truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc – một nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một đạo luật ít chương, điều nhất
trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chỉ có 4 chương và 18 điều, nhưng đã quy
định khá rõ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị; là bộ
phận của hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có
chức năng, nhiệm vụ bao trùm nhất, cơ bản nhất là tập hợp xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “tự nguyện, hiệp
thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động”; Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, tham gia xây dựng và củng
cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu
dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp

15


hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
quy định năm nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong các
cuộc bầu cử, đó là: Tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu những người
ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tham gia các tổ chức
phụ trách bầu cử; phối hợp tổ chức các hội nghị cử tri nơi cư trú đối với
những người ứng cử; các cuộc tiếp xúc cử tri với những người ứng cử để vận
động bầu cử; tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện pháp luật về
bầu cử và tham gia giám sát việc bầu cử. Trong năm nhiệm vụ trên, nhiệm vụ
tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân là nhiệm vụ then chốt nhất, là vấn đề cốt lõi trong tất

cả các cuộc bầu cử.
Ngoài ra, các văn bản pháp luật của Nhà nước quy định có liên quan
đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; đến tổ chức bộ máy Nhà nước;
đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có nội dung về
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giám sát
việc tổ chức, thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước và vận động các tầng
lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện văn bản pháp luật đó.

16


Kết luận chương 1
Vai trò của một tổ chức trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là
do tính chất, vị trí của tổ chức đó quyết định, nó mang tính khách quan.
Nhưng có được vai trò tác dụng thực tế hay không còn do kết quả hoạt động
thực tiễn của tổ chức đó quyết định và chịu sự chi phối của mối quan hệ giữa
các thành viên trong hệ thống chính trị tác động. Vai trò của Mặt trận không
phải tự Mặt trận khẳng định mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.
Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng được khẳng
định và nâng cao trong đời sống xã hội đã góp phần quan trọng vào việc củng
cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã
hội, tham gia xây dựng Đảng, mở rộng quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác
quốc tế, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, động
viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, hăng hái tham gia các phong trào thi
đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng, thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

17



Chương 2
VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TQVN THAM GIA XÂY DỰNG BỘ MÁY
NHÀ NƯỚC, CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ QUA THỰC TIỄN TẠI
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. VAI TRÒ THAM GIA, PHỐI HỢP CỦA MẶT TRẬN TQVN VỚI
CÁC CƠ QUAN DÂN CỬ (bao gồm Quốc Hội, Hội đồng nhân dân các cấp)
2.1.1. Vai trò của Mặt trận TQVN trong tham gia công tác bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp
Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân là một vấn đề cơ bản nhất được
quy định tại Hiến pháp. Quyền lực đó phải có các hình thức và biện pháp nhất
định để thực hiện, trong đó phương pháp bầu cử trở thành một trong những hình
thức thực hiện quyền tự do, dân chủ, một trong những biểu hiện quyền con
người trong lĩnh vực chính trị - quyền tự do dân chủ. Bầu cử trở thành một chế
độ bầu cử, một hình thức hoạt động quan trọng của xã hội dân chủ, một phương
pháp phổ biến nhất hiện nay để nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân. Ngoài việc bỏ phiếu để bầu ra những người đại diện thay mặt mình
trong các cơ quan quyền lực Nhà nước, bầu cử còn là một trong những biện pháp
kiểm tra, giám sát Nhà nước và làm cho quyền lực Nhà nước luôn có xu hướng
thuộc về nhân dân. Một chế độ dân chủ chỉ có thể có khi và chỉ khi có được các
cuộc bầu cử phổ thông, bình đẳng, tìm ra được những người thực sự tài năng
thay mặt nhân dân nắm giữ quyền lực Nhà nước.
Mặt trận TQVN với vai trò là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,
là cơ sở của chính quyền nhân dân, Mặt trận TQVN được pháp luật bầu cử
quy định vai trò giới thiệu ứng cử viên tham gia đại biểu quốc hội và đại biểu
HĐND các cấp, các ứng cử viên muốn ứng cử phải được thông qua Uỷ ban
Mặt trận TQVN các cấp hiệp thương giới thiệu.

18



Trong tham gia công tác bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, theo quy
định của pháp luật về bầu cử, Mặt trận TQVN có quyền và trách nhiệm thực
hiện các nhiệm vụ trong các cuộc bầu cử; trong đó có một nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng có tính chất cốt lõi trong tất cả các cuộc bầu cử, đó là Mặt trận
TQVN tổ chức hiệp thương dân chủ để lựa chọn, giới thiệu những người ứng
cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, lập danh sách chính thức
để cử tri bầu làm đại biểu, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân
thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Việc tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu người ứng cử được thực
hiện năm bước theo quy trình cụ thể do Ủy ban Trung ương Mặt trận TQVN và
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành bằng Nghị quyết liên tịch (Đối với bầu
cử đại biểu Quốc Hội) và do Ủy ban Trung ương Mặt trận TQVN và Chính phủ
ra nghị quyết liên tịch ban hành (đối với cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp),
gồm các bước sau:
Trên cơ sở dự kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (bầu cử đại biểu
Quốc hội), Thường trực Hội đồng nhân dân (bầu cử đại biểu HĐND các dấp),
về cơ cấu, thành phần số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu
làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban
Mặt trận TQVN cùng cấp tiến hành tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ nhất
để thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức,
đơn vị mình ra ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Trên cơ sở kết quả hội nghị hiệp thương này, BTT Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
cấp hiệp thương gửi văn bản phân bổ số lượng người ra ứng cử của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị, đảm bảo số lượng người giới thiệu ứng cử phải nhiều
hơn số đại biểu được bầu của cơ quan, tổ chức đơn vị đó, nhằm có số dư cần
thiết ở mỗi đơn vị bầu cử theo quy định của pháp luật về bầu cử. Sau khi nhận
được danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng

19



nhân dân do cơ quan, tổ chức, đơn vị gửi đến, BTT Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
các cấp tiến hành tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ hai.
Hội nghị hiệp thương lần thứ hai thỏa thuận danh sách sơ bộ những
người ứng cử và gửi đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn nơi cơ
trú đối với những người ứng cử (bao gồm những người được cơ quan, tổ
chức, đơn vị giới thiệu và những người tự ứng cử).
Quá trình tổ chức hội nghị cử tri nơi cư trú của những người ứng cử
nếu có ý kiến, kiến nghị hoặc tố cáo đối với những người ứng cử nào đó thì
BTT Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tổ chức hiệp thương lập danh sách gửi đến
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý người ứng cử đó phải xác
minh rõ đúng sai và gửi đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tổ chức hiệp
thương. Sau khi nhận được văn bản xác minh của cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền đối với người ứng cử, BTT Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tổ chức
hiệp thương tiến hành tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba.
Hội nghị hiệp thương lần thứ ba thỏa thuận lập danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và gửi
ngay đến Hội đồng bầu cử để Hội đồng bầu cử xem xét phân bổ người ứng cử
về các đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu và công bố danh sách người ứng cử ở
từng đơn vị bầu cử.
Kết thúc hội nghị hiệp thương lần thứ ba lập danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
cũng là kết thúc quy trình hiệp thương khá chặt chẽ theo quy định của pháp
luật. Đó là khái quát quy trình hiệp thương dân chủ để sàn lọc, lựa chọn, giới
thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp. Trong quá trình thực hiện các bước của quy trình hiệp thương thì bước tổ
chức lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm cử tri nơi cư trú của những người ứng
cử là quan trọng nhất, bởi lẽ đây là những người có thể trúng cử làm đại biểu


20


Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân trong cơ quan
quyền lực Nhà nước. Mặt khác, trên cơ sở nhận xét và tín nhiệm của cử tri hội
nghị hiệp thương của Mặt trận có cơ sở quan trọng cho việc lựa chọn lập danh
sách chính thức để nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp.
Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016, trên địa bàn Thừa Thiên Huế, hệ thống Mặt trận
từ Tỉnh đến cơ sở đã thực hiện tốt công tác Mặt trận tham gia bầu cử. Thực
hiện quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
TQVN các cấp đã tổ chức năm bước của quy trình hiệp thương để lập danh
sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
các cấp. Trong đó đã lập danh sách chính thức đối với 13 người ứng cử đại
biểu Quốc hội khóa XIII; lập danh sách chính thức đối với những người ứng
cử đại biểu HĐND tỉnh khóa VI gồm 84 người; lập danh sách chính thức đối
với những người ứng cử đại biểu HĐND cấp huyện 458 người và lập danh
sách chính thức đối với những người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã gồm
5.867 người. Nhìn chung công tác tổ chức quy trình hiệp thương lựa chọn,
giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và những người
ứng cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016 của Tỉnh đảm bảo
đúng quy trình theo luật định; đảm bảo dân chủ. Chất lượng người được giới
thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp do các hội nghị trong quy
trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu đều đảm bảo điều kiện, tiêu chuẩn theo
luật định được cử tri nơi cư trú và nơi công tác tín nhiệm cao.
Thực hiện tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện quyền bầu
cử, tự mình đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử. Thực hiện quyền giám sát việc bầu


21


×