Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với kiểu dáng công nghiệp tại Việt Nam và kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN VIỆT

NGUYỄN VĂN VIỆT

LUẬT QUỐC TẾ

THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI KIỂU
DÁNG
CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM TỪ
MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012
Hà Nội - 2012


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC THI
QUYỀN SHTT ĐỐI VỚI KDCN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT QUỐC TẾ VỀ THỰC THI QUYỀN ĐỐI VỚI KDCN ................... 9
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về thực thi quyền SHTT đối với KDCN...... 9
1.1.1 Quyền SHTT và thực thi quyền SHTT. ............................................. 9


1.1.2 Phân biệt các khái niệm bảo hộ, bảo vệ và thực thi quyền SHTT. 17
1.1.3 Sự cần thiết của hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt
Nam. ........................................................................................................ 20
1.2. Một số quy định của Pháp luật quốc tế về thực thi quyền SHTT đối với
KDCN.............................................................................................................. 22
1.2.1. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền Sở
hữu Trí tuệ (Agreement on Trade – Related Aspects of Intellectual
Property Rights – TRIPS) ....................................................................... 22
1.2.2. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (BTA). ....................................... 33
1.2.3. Hiệp định giữa Nhật bản và Việt Nam về đối tác kinh tế. ............ 40
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ
THỰC THI QUYỀN SHTT ĐỐI VỚI KDCN VÀ NHỮNG KINH
NGHIỆM RÚT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM ................................................. 46
2.1. Pháp luật của một số nước trên thế giới về thực thi quyền SHTT đối với
KDCN.............................................................................................................. 46


2.1.1. Pháp luật và kinh nghiệm của Singapore về thực thi quyền SHTT
đối với KDCN. ......................................................................................... 46
2.1.2. Quy định về thực thi quyền SHTT đối với KDCN trong liên minh
châu Âu.................................................................................................... 49
2.1.3. Pháp luật và kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp về thực thi quyền
SHTT đối với KDCN ............................................................................... 53
2.2. Những kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam. .......................................... 57
2.3. Khả năng áp dụng kinh nghiệm quốc tế của Việt Nam ........................... 59
2.4 Một số bài học rút ra đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng hệ thống
pháp luật và thực thi quyền SHTT. ................................................................. 60
2.4.1 Xây dựng hệ thống pháp luật về thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo
tiêu chuẩn tối thiểu của Hiệp định TRIPS; ............................................. 60
2.4.2 Xây dựng cơ chế đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách

hiệu quả;.................................................................................................. 61
2.4.3 Xây dựng và củng cố lực lượng thực thi quyền SHTT;.................. 62
2.4.4. Thành lập toà chuyên trách về sở hữu trí tuệ, nâng cao năng lực
hoạt động của ngành Toà án; ................................................................. 62
2.4.5 Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển Sở hữu Trí tuệ, đầu
tư cho việc xây dựng các lực lượng thực thi kế cận trong tương lai; ..... 63
2.4.6. Nâng cao nhận thức cộng đồng, nhận thức của doanh nghiệp, các
hiệp hội, các tổ chức nghề nghiệp - giải pháp hữu hiệu nhằm thực thi,
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. .................................................................... 64
CHƢƠNG 3: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THỰC THI QUYỀN SHTT ĐỐI VỚI KDCN, PHƢƠNG HƢỚNG
HOÀN THIỆN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI QUYỀN .................................................................................................. 65


3.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về thực thi quyền SHTT đối với
KDCN.............................................................................................................. 65
3.1.1 Giai đoạn trước năm 2005: ........................................................... 65
3.1.2 Giai đoạn từ năm 2005 đến nay..................................................... 69
3.2. Thực tiễn hoạt động thực thi quyền SHTT đối với KDCN ở Việt Nam
những năm qua: ............................................................................................... 71
3.2.1 Thực trạng công tác thực thi quyền SHTT đối với KDCN ở Việt
Nam những năm qua: .............................................................................. 71
3.2.2 Các biện pháp thực thi quyền SHTT đối với KDCN ở Việt Nam
hiện nay. ................................................................................................. 78
3.2.3 Mối quan hệ giữa các biện pháp thực thi quyền SHTT; ................ 85
3.2.4 Những khó khăn và thách thức đối với công tác thực thi quyền
SHTT đối với KDCN ở Việt Nam hiện nay : ........................................... 87
3.3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thực thi quyền SHTT
đối với KDCN và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHTT. 96

3.3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thực thi quyền
SHTT đối với KDCN. .............................................................................. 96
3.3.2 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHTT đối với
KDCN. ................................................................................................... 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 119


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương

BTA

Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa kỳ

CNAC

Uỷ ban quốc gia về chống hàng giả của Pháp

GATT

Hiệp ước chung về Thuế quan và Mậu dịch

IPOS

Cơ quan chủ trì thuộc Chính phủ, cơ quan điều chỉnh các vấn đề
về SHTT, cơ quan đăng ký SHTT của Singapore


IPRB

Lực lượng Cảnh sát Singapore

KDCN

Kiểu dáng công nghiệp

SHCN

Sở hữu công nghiệp

SHTT

Sở hữu Trí tuệ

TRIPS

Hiệp định liên quan đến các khía cạnh thương mại của quyền Sở
hữu Trí tuệ - Agreement on Trade – Related Aspects of
Intellectual Property Rights.

VBQPPL Văn bản quy phạm Pháp luật
WIPO

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới

WTO


Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT.

Nguồn tài liệu

Số Tài liệu tham khảo

Bảng 3.1

Cơ quan Quản lý thị trường

[39]

Bảng 3.2

Cơ quan Quản lý thị trường

[39]

Bảng 3.3

Thanh tra khoa học & công nghệ

[10]



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Hoạt động xác lập quyền và thực thi quyền đối với các đối tượng của
Sở hữu công nghiệp nói chung, cũng như hoạt động thực thi quyền SHTT đối
với KDCN nói riêng, đang trở thành một vấn đề cấp thiết và nhận được rất
nhiều sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan, các cơ
quan báo chí, người tiêu dùng, các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng, và đặc
biệt là các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động sản xuất và kinh
doanh các sản phẩm thuộc đối tượng bảo hộ KDCN.
Hiện nay tình trạng sản xuất hàng hóa giả mạo, đặc biệt là những sản
phẩm vi phạm quy định đối với KDCN đã được bảo hộ ngày càng trở nên phổ
biến, thậm chí các hành vi xâm phạm ngày càng tinh vi, khó phát hiện và
đánh giá. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh những nhà sản xuất,
những người luôn quan tâm đến việc đầu tư cho tài sản trí tuệ, nghiên cứu
sáng tạo những sản phẩm mới…, vẫn còn không ít những người chỉ chờ đợi
việc người khác nghiên cứu ra sản phẩm mới rồi bắt trước theo đó để kiếm lợi
nhuận. Hành động này vi phạm pháp luật, phải có những biện pháp, cơ chế rõ
ràng hơn để chấm dứt hiện tượng này, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ các bằng độc quyền KDCN, nhằm bảo hộ và khuyến khích sáng tạo
từ các đối tượng này. Mặt khác tạo ra một môi trường pháp lý lành mạnh cho
việc phát triển hoạt động Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, phù hợp với các cam
kết quốc tế Việt Nam là thành viên.
Thực tiễn giải quyết việc xâm phạm đối với KDCN đã cho thấy, khung
pháp lý so với thực tiễn triển khai còn có nhiều cách hiểu, cách tiến hành khác
nhau. Mặt khác những cơ quan, đơn vị có chức năng thực thi quyền khi triển

1



khai thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, bối rối và do vậy kết quả không thống
nhất, khó thực thi trên thực tế và chưa hiệu quả. Do vậy, đề tài nghiên cứu sẽ
góp phần vào việc xử lý những điểm bất cập này.
Trong xu thế phát triển và hội nhập với thế giới, Việt Nam không thể
đứng ngoài sự phát triển đó. Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều các điều ước
quốc tế về quyền Sở hữu Trí tuệ. Tuy nhiên hoạt động thực thi những quyền
này còn phụ thuộc nhiều vào pháp luật quốc gia cũng như các yếu tố bản địa.
Trách nhiệm trước hết thuộc về các cơ quan thực thi quyền, tiếp đến là sự
nhận thức, hành động của doanh nghiệp, chủ sở hữu quyền, người tiêu dùng
và toàn xã hội nói chung. Trên thực tế còn khá nhiều các vấn đề xung quanh
việc thực thi quyền đối với KDCN ở Việt Nam. Những vấn đề này sẽ ảnh
hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả của việc thực thi quyền
SHTT tại Việt Nam đó là: Vai trò, trách nhiệm, tính hiệu quả, khả năng tự bảo
vệ quyền SHTT của mỗi Chủ sở hữu quyền sau khi xác lập quyền thành công
và khi phát hiện những hành vi xâm phạm quyền của mình, hiện nay việc các
chủ thể này đã nhận thức đầy đủ về quyền và trách nhiệm của mình hay chưa,
họ sẽ hành động như thế nào khi họ sáng tạo ra một tài sản trí tuệ, cũng như
việc họ sẽ làm gì để bảo vệ và phát triển tài sản này? vẫn đang là một câu hỏi.
Vai trò của các Cơ quan Nhà Nước, các Nhà chức trách có nhiệm vụ đảm bảo
thực thi quyền SHTT, bảo vệ, ngăn chặn và xử lý những hành vi xâm phạm
quyền, đảm bảo sự bảo hộ của Nhà Nước đối với quyền SHTT của các Chủ
thể, những cơ quan này hành động như thế nào khi xảy ra hành vi xâm phạm
quyền, tính hiệu quả, tính kịp thời của những hành động này như thế nào? sự
phối hợp, liên hợp giữa các Cơ quan thực thi này ra sao…? tất cả những câu
hỏi, những vấn đề đó nếu giải quyết được một cách hợp lý, thoả đáng và hài
hoà theo đúng các quy định của Pháp luật thì hiệu quả thực thi quyền SHTT
sẽ được đảm bảo, pháp luật SHTT sẽ được thực thi.
2



Ngoài vai trò của hai đối tượng nêu trên, chúng ta cũng không thể xem
nhẹ, bỏ qua vai trò của xã hội trong việc thực thi và ngăn chặn xâm phạm
quyền SHTT ở Việt Nam, bởi mỗi tổ chức, cá nhân là một thành tố của xã
hội, họ sẽ tham gia các quan hệ, các giao dịch có liên quan đến quyền SHTT,
việc họ nhận thức đầy đủ và tôn trọng pháp luật sẽ là cơ sở, nền tảng để đảm
bảo vịêc thực thi và thực thi hiệu quả quyền SHTT trên thực tế. Đặc biệt riêng
đối với KDCN một đối tượng của quyền SHTT với các tiêu chuẩn bảo hộ đó
là phải có tính mới đối với thế giới, phải có tính sáng tạo và phải có khả năng
áp dụng công nghiệp, như vậy đối với một đối tượng đòi hỏi phải có tính sáng
tạo, tính mới này thì việc nhận thức đầy đủ, hiểu rõ, hiểu đúng về đối tượng
đối với đại bộ phận xã hội sẽ là một vấn đề khó, đòi hỏi phải có quá trình
tuyền truyền, phố biến giáo dục dài lâu, bài bản và hiệu quả để đảm bảo được
hiệu quả của việc thực thi quyền.
Đề tài nghiên cứu sẽ tập trung vào việc phân tích các quy định của pháp
luật hiện hành về thực thi quyền và cơ chế thực thi quyền đối với KDCN trên
thực tế, những tồn tại và biện pháp khắc phục vấn đề này, phân những kinh
nghiệm từ các quy định cũng như cơ chế thực thi quyền đối với KDCN ở một
số quốc gia trên thế giới như Pháp, Liên minh Châu Âu và Singapore.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Hiện nay ở nước ta, đã có một số đề tài nghiên cứu, cũng như các bài
báo đề cập đến góc độ này, góc độ khác của hoạt động thực thi quyền, cũng
có các tác giả có bài viết, bài nghiên cứu về vấn đề này, như: đề tài “Về việc
thực thi quyền Sở hữu trí tuệ theo quy định của TRIPS trong tương quan so
sánh với Pháp luật Việt Nam Luận văn thạc sỹ - tác giả Lê Thành Trung năm
2006”, đề tài “ Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hộ và
thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, tên thươngmại, chỉ dẫn

3



địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam – Thạc sỹ
Trần Văn Toàn”, bài viết “Thực thi quyền Sở hữu trí tuệ theo quy định của
WTO, lợi ích quốc gia hay uy tín quốc tế- tác giả Tiến sỹ Trần Văn Hải, Đại
học khoa học xã hội và nhân văn”, Cuốn sách “Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
ở Việt Nam: Pháp luật và thực tiễn, Nhà xuất bản Tư Pháp của tác giả Nguyễn
Bá Bình – năm 2005…, nhưng những đề tài nghiên cứu, bài viết này thường
mang ý nghĩa chung, hoặc áp dụng cho hoạt động thực thi quyền SHTT nói
chung, hoặc các đối tượng khác của quyền SHTT như Nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, hiện nay chưa có đề tài nghiên cứu nào chuyên sâu về
thực thi quyền đối với KDCN tại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu này mang ý
nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật đầy đủ, phù hợp
với luật pháp quốc tế và là cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp thực
thi quyền riêng biệt đối với KDCN ở Việt Nam. Pháp luật và kinh nghiệm
thực thi của một số nước trên thế giới với mong muốn những kiến nghị của đề
tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy
định pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích vừa thực hiện đúng các cam kết
quốc tế vừa bảo hộ được các ngành sản xuất của Việt Nam chống lại việc xâm
phạm quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh của các nhà sản xuất trong
nước, các nhà nhập khẩu hoặc đầu tư nước ngoài. Tác giả hy vọng rằng với sự
đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn:
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý về thực thi quyền
SHTT và hiệu quả thực thi quyền đối với KDCN tại Việt Nam hiện nay, một
số các vụ việc thực thi điển hình trong thời gian vừa qua, những tồn tại,
những bất cập cần khắc phục để hoạt động thực thi quyền được hiệu quả,
trong bối cảnh hội nhập và phát triển, chúng ta xem xét các quy định về thực

4



thi quyền đối với KDCN ở một số quốc gia trên thế giới như Singapore, Pháp,
Liên minh Châu Âu và kinh nghiệm triển khai hiệu quả hoạt động thực thi
quyền đối với KDCN tại Việt nam hiện nay.
- Mục đích:
Luận văn có mục đích:
+ Làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về các
quy định của pháp luật về thực thi quyền SHTT đối với KDCN.
+ Nghiên cứu Pháp luật quốc tế về thực thi quyền SHTT nói chung và
thực thi quyền SHTT đối với KDCN nói riêng.
+ Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực thi quyền SHTT đối với
KDCN tại Việt Nam trong một số năm đã qua, để đánh giá hiệu quả công tác
thực thi bảo vệ quyền đối với KDCN.
+ Trên cơ sở nghiên cứu về thực trạng các quy định của pháp luật, thực
trạng thực thi quyền SHTT đối với KDCN, và kinh nghiệm của một số nước
về thực thi quyền SHTT, tác giả đưa ra các đánh giá và chỉ ra những điểm
chưa phù hợp trong quy định của pháp luật để đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về thực thi quyền SHTT đối với KDCN nói riêng và
quyền SHTT nói chung.
- Nhiệm vụ của luận văn
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực thi quyền SHTT đối với KDCN
tại Việt Nam.
+ Nghiên cứu quy định của Pháp luật quốc tế về thực thi quyền SHTT
đối với KDCN.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm và thực tế pháp luật của một số nước trên
thế giới trong công tác thực thi quyền SHTT nói chung và thực thi quyền
SHTT đối với KDCN nói riêng.

5



+ Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực thi quyền SHTT đối với
KDCN tại Việt Nam trong một số năm đã qua.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thực thi quyền
SHTT đối với KDCN nói riêng và quyền SHTT nói chung.
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về thực thi
quyền SHTT đối với KDCN, thực trạng thực thi quyền SHTT đối với KDCN
tại Việt Nam, những khó khăn và giải pháp. Luận văn cũng nghiên cứu quy
định của Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm từ một số nước trên thế giới về
thực thi quyền SHTT nói chung và thực thi quyền đối với KDCN nói riêng.
- Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn này không nhằm vào việc nghiên cứu pháp luật về bảo hộ
KDCN hoặc quyền SHTT nói chung mà chỉ tập chung đi sâu nghiên cứu pháp
luật, thực trạng thực thi quyền SHTT đối với KDCN của Việt Nam và kinh
nghiệm thực thi từ pháp luật quốc tế.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn đã vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
đối chiếu, so sánh, khái quát hoá, phương pháp logic và phương pháp lịch sử
trong việc phân tích và luận giải những vấn đề đã đặt ra.
Phương pháp nghiên cứu chính để hoàn thành Luận văn là phương
pháp phân tích, tổng hợp đối chiếu với các quy định của pháp luật và các số
liệu đã có cũng như tự thu thập được để tìm ra những điểm chưa phù hợp,
đưa ra những nhận xét, những ưu, nhược điểm và kiến nghị. Phương pháp
tổng hợp được sử dụng chủ yếu để đưa ra những nhận xét mang tính chất khái
quát từ đó đưa ra những kiến nghị thích hợp.

6



Tác giả sẽ sử dụng phương pháp phân tích các quy định của pháp luật,
phân tích các số liệu về thực thi quyền SHTT đối với KDCN ở Việt nam trong
một số năm đã qua, để thấy được thực trạng thực thi quyền SHTT đối với
KDCN; phân tích các quy định cũng như kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới về thực thi quyền SHTT, từ đó xây dựng kinh nghiệm cho Việt
Nam để hướng tới việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam trong
việc thực thi, bảo vệ quyền SHTT đối với KDCN.
5. Những đóng góp mới của luận văn:
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, Luận văn là tài liệu đầu tiên
nghiên cứu chuyên sâu về thực thi quyền SHTT đối với KDCN tại Việt Nam,
Luận văn làm sáng tỏ về mặt lý luận những quy định pháp luật của Việt Nam
về thực thi quyền đối với KDCN; đánh giá thực trạng thực thi quyền thông
qua hoạt động của các cơ quan thực thi quyền SHTT đối với KDCN, từ đó
cho thấy được vai trò của các cơ quan này trong quá trình hoàn thiện cơ chế
đảm bảo thực thi quyền hiệu quả; Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật về thực thi quyền SHTT tại Việt Nam và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHTT nói chung và quyền đối
với KDCN nói riêng.
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tham khảo, nội dung Luận
văn bao gồm có ba chương:
CHƢƠNG 1
Những vấn đề lý luận cơ bản về thực thi quyền SHTT đối với KDCN và các
quy định của pháp luật quốc tế về thực thi quyền đối với KDCN.

7


CHƢƠNG 2
Pháp luật của một số nước trên thế giới về thực thi quyền SHTT đối với

KDCN và những kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam.
CHƢƠNG 3
Các quy định của pháp luật Việt Nam về thực thi quyền SHTT đối với
KDCN, phương hướng hoàn thiện và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
thi quyền.

8


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC THI QUYỀN SHTT
ĐỐI VỚI KDCN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ THỰC THI QUYỀN ĐỐI VỚI KDCN.

1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về thực thi quyền SHTT đối với KDCN.
1.1.1 Quyền SHTT và thực thi quyền SHTT.
1.1.1.1 Quyền Sở hữu Trí tuệ:
Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quy phạm pháp luật được ban hành
nhằm xác lập, ghi nhận, củng cố và bảo vệ các quan hệ sở hữu trí tuệ trong xã
hội. Theo từ điển tiếng Việt năm 2008, khái niệm quyền sở hữu trí tuệ được
hiểu là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ” [38, tr.1076]. Luật
Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 quy định rằng quyền sở hữu trí tuệ là
“quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối
với giống cây trồng” (Điều 4, khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005). Quyền
sở hữu công nghiệp được hiểu (tại điều 4 khoản 4 Luật này) là quyền đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật
kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Quyền SHCN là
quyền không phát sinh một cách tự nhiên , đương nhiên, mà đòi hỏi chủ sở
hữu, tác giả của những quyền này thực hiện các hành động pháp l ý theo đúng

quy định của Pháp luật nhằm đạt được sự bảo hộ theo quy định của Pháp luật
hiện hành.
Theo Điều 2 mục (8) của Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ
thế giới (WIPO) ký ngày 14-7-1967 quy định: "Sở hữu trí tuệ bao gồm các
quyền liên quan đến các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các cuộc

9


biểu diễn của nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát
sóng; các sáng chế trong tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người; các khám
phá khoa học; các kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu
dịch vụ và các tên thương mại; bảo hộ chống lại sự cạnh tranh không lành
mạnh; và tất cả các quyền khác nảy sinh từ kết quả của hoạt động trí tuệ thuộc
các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghiệp".
Pháp luật nhiều nước không định nghĩa thế nào là quyền sở hữu trí tuệ
mà chỉ liệt kê các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Ví dụ, Bộ luật Sở hữu trí
tuệ năm 2003 của Pháp không nêu khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ mà chỉ
liệt kê những đối tượng thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật này, đó là quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng mới tại.
Theo đó, quyền sở hữu công nghiệp gồm quyền đối với sáng chế, nhãn hiệu
hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp và bí quyết công nghệ.
Pháp luật của Hoa Kỳ cũng không có quy định khái niệm của quyền sở
hữu trí tuệ mà chỉ quy định cụ thể về từng đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.
Bộ luật Hoa Kỳ năm 1996 (United States Code 1996) dành hẳn quyển 7,
chương 58 để đưa ra những quy định về bảo hộ giống cây trồng; quyển 15,
chương 22 về nhãn hiệu hàng hoá; toàn bộ quyển 17 về quyền tác giả; quyển
35 về bằng phát minh, kiểu dáng công nghiệp.
Có thể thấy pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của nhiều nước không
chú trọng tới việc nêu khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ mà thường liệt kê các

đối tượng của tài sản trí tuệ. Thực tiễn này ảnh hưởng tới nội dung của các
điều ước quốc tế lớn trên thế giới về quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định về các
khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của WTO (Hiệp định
TRIPS) dành toàn bộ phần II để nêu ra các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ,
gồm quyền tác giả, quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, kiểu
dáng công nghiệp, patent (bằng sáng chế), giống cây trồng, thiết kế bố trí

10


mạch tích hợp, bảo hộ thông tin bí mật và khống chế các hoạt động chống
cạnh tranh trong các hợp đồng li- xăng [17].
Từ phân tích nêu trên, có thể rút ra những nhận xét sau:
Thay vì đưa ra một định nghĩa cụ thể, đầy đủ hoặc khái quát tổng hợp,
Pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều nước chỉ liệt kê các đối tượng của quyền
sở hữu trí tuệ. Nói cách khác, khái niệm về sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí
tuệ là những vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được giới luật gia các nước đầu tư
nghiên cứu và xây dựng, chưa được định nghĩa một cách trọn vẹn đầy đủ, nó
chỉ mang tính chất liệt kê, mô tả.
Việc hiểu, phân tách các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, theo quy
định của pháp luật các nước mặc dù có những điểm khác nhau nhưng về cơ
bản đều có điểm chung là đều quy định và chia tách các đối tượng của quyền
này thành các nhóm quyền; quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và
quyền đối với giống cây trồng.
Tuỳ từng cách hiểu của mỗi Quốc gia đối tượng được bảo hộ trong
quyền sở hữu công nghiệp có thể được mở rộng hoặc thu hẹp. Ví dụ như
quyền sở hữu công nghiệp ở Hoa Kỳ không bao gồm chỉ dẫn địa lý trong khi
đây lại là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp theo Hiệp định TRIPS,
WIPO, Việt Nam, v.v.
Trên cơ sở nhận xét ở trên, tác giả cố gắng phân tích để làm rõ hơn khái

niệm về quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt các tài sản trí tuệ. Không phải mọi tài sản trí tuệ đều được
nhà nước ghi nhận và bảo hộ. Pháp luật các nước đều liệt kê các tài sản trí tuệ
mà các chủ thể có quyền sở hữu. Tác giả nghiên cứu Quyền SHTT theo cách
liệt kê của Hiệp định TRIPS về các tài sản trí tuệ được bảo hộ, theo đó quyền
sở hữu trí tuệ gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với

11


giống cây trồng, quan điểm này cũng phù hợp với quy định của Pháp luật hiện
hành ở Việt Nam về SHTT.
1.1.1.2 Thực thi quyền SHTT:
Thực thi theo định nghĩa của Đại từ điển tiếng Việt là “Thi hành, thực
thi nhiệm vụ” [11, tr. 1556], theo định nghĩa này, Thực thi một mặt là việc
Nhà nước, các cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhân danh quyền lực Nhà nước để
thi hành một nhiệm vụ, làm một công việc theo yêu cầu, theo chỉ định, theo
nhiệm vụ đã được đề ra để nhằm đảm bảo việc thi hành quyền SHTT. Mặt
khác thực thi là việc các chủ thể quyền SHTT cũng là đối tượng tham gia tích
cực vào việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật trao cho
họ các quyền năng, đặt gánh năng về tự bảo vệ lên vai họ, do vậy Chủ sở hữu
quyền có thể yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ tài sản trí
tuệ của mình. Các cá nhân, tổ chức, hiệp hội, toàn thể xã hội cũng tham gia
tích cực vào việc góp phần thực thi quyền SHTT, bởi vai trò của những cá
nhân, tổ chức này là tôn trọng pháp luật, tôn trọng và không xâm phạm tới
quyền của những chủ thể khác đã đựơc bảo hộ theo quy định của Pháp luật,
đó cũng chính là việc các chủ thể này đang góp sức mình vào việc đảm bảo
thực thi quyền SHTT.
Trong phạm vi nghiên cứu mặc dù chưa thể hoàn chỉnh và đưa ra một
khái niệm chính xác tuyệt đối về thực thi quyền SHTT, tuy nhiên tác giả sẽ cố

gắng khái quát để đưa ra cách hiểu, khái niệm của mình về thực thi quyền
SHTT ở Việt Nam hiện nay như sau: Thực thi quyền SHTT là việc các chủ
thể sử dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của Pháp luật, để nhằm
ngăn cản, chống lại và xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT, yêu cầu bồi
thường thiệt hại từ một hoặc một số chủ xâm phạm quyền thể khác.

12


Quyền SHTT đối với KDCN với tính cách là một đối tượng của quyền
SHCN của Việt Nam, do vậy đối tượng quyền này mang đầy đủ những đặc
điểm, thuộc tính của quyền SHTT. Như vậy, với định nghĩa chung về Thực
thi quyền SHTT nêu trên, chúng ta có thể hiểu Thực thi quyền SHTT đối với
KDCN tại Việt nam hiện nay là việc các chủ thể quyền KDCN, các cơ quan
chức năng có liên quan sử dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của
Pháp luật để nhằm ngăn cản, chống lại và xử lý hành vi xâm phạm quyền
SHTT, yêu cầu bồi thường thiệt hại từ một hoặc một số chủ thể xâm phạm
quyền khác.
Luật SHTT năm 2005 với các quy định về „„Bảo vệ quyền SHTT‟‟ đã quy
định theo hướng, đề cao trách nhiệm của Chủ thể quyền, tăng tính dân sự
trong hoạt động thực thi. Tăng cường các biện pháp đảm bảo việc thực thi
được thực hiện, giảm sự can thiệp trực tiếp của cơ quan hành chính, mức hình
phạt đối với các hành vi vi phạm quyền SHTT mang tính răn đe hơn. Bên
cạnh việc nỗ lực thực thi quyền của các chủ thể quyền, ở Việt Nam hiện nay,
việc thực thi quyền là một hoạt động thực thi pháp luật và được thực hiện bởi
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Toà án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân, Công an kinh tế, Quản lý thị trường, Hải quan, Thanh tra khoa
học công nghệ. Đây là các cơ quan công quyền có thẩm quyền và có trách
nhiệm trong việc đảm bảo thực thi và bảo vệ quyền SHTT khi có những hành
vi xâm phạm quyền. Các biện pháp thực thi quyền SHTT của các cơ quan

công quyền hiện nay gồm có 04 biện pháp: thực thi bằng biện pháp hành
chính, thực thi bằng biện pháp dân sự, thực thi bằng biện pháp hình sự, thực
thi bằng biện pháp kiểm soát biên giới. Bên cạnh việc thực thi của cơ quan
công quyền, sự tham gia bảo vệ quyền lợi của các chủ thể quyền và sự tôn
trọng pháp luật, tôn trọng quyền SHTT của các chủ thể trong xã hội cũng có
vai trò to lớn trong quá trình thực thi quyền SHTT tại Việt Nam.

13


1.1.1.3 Vai trò của các chủ thể trong việc Thực thi quyền SHTT theo quy
định của Pháp luật Việt Nam.
Thứ nhất: Hoạt động thực thi của Chủ sở hữu quyền:
Phần thứ năm Luật SHTT năm 2005 quy định về “Bảo vệ quyền SHTT”,
theo đó Pháp luật trao các quyền năng, trách nhiệm của Chủ sở hữu quyền
trong việc chủ động tự bảo vệ quyền, chủ động phối hợp, thông báo, yêu cầu
các cơ quan bảo vệ quyền SHTT có trách nhiệm thực thi bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, những quyền năng này bao gồm: quyền tự bảo vệ của
Chủ sở hữu quyền (điều 198 Luật SHTT 2005). Bao gồm các biện pháp: áp
dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ; Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường
thiệt hại; Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan; Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình.
Để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), Chủ thể quyền có thể thực hiện
quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu các cơ quan thực thi xử lý hành vi xâm phạm
quyền SHTT bằng các biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự, hoặc yêu
cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất, nhập khẩu để phát hiện, ngăn

chặn và xử lý hành vi xuất, nhập khẩu hàng hoá xâm phạm quyền.
Thứ hai: Hoạt động thực thi quyền của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền:
Với vai trò là các cơ quan đảm bảo việc bảo vệ, xử lý các hành vi xâm
phạm quyền SHTT, hệ thống các cơ quan công quyền này bao gồm: Cơ quan
Toà Án, Công an kinh tế, Thanh tra khoa học công nghệ, Lực lượng Quản lý
thị trường, Uỷ ban nhân dân các cấp và Cơ quan Hải quan. Theo quy định của

14


điều 200 Luật SHTT năm 2005, việc áp dụng biện pháp dân sự, hình sự thuộc
thẩm quyền của Toà án. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng biện
pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản
lý thị trường, Hải quan, Uỷ ban nhân dân các cấp. Trong trường hợp cần thiết,
các cơ quan này có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành
chính theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng biện pháp kiểm soát hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền của
cơ quan hải quan.
Thứ ba: Hoạt động thực thi quyền của xã hội (Tổ chức và cá nhân khác).
Theo quy định của điều 201 Luật SHTT năm 2005, Cơ quan Giám định
về sở hữu trí tuệ với quyền năng được Pháp luật trao cho, cơ quan Giám định
sẽ là tổ chức đưa ra các quyết định giám định chuyên môn về SHTT. Khi
muốn có căn cứ để xác định một hành vi có bị coi là xâm phạm quyền SHTT
của người khác hay không, các cơ quan Nhà nước, các chủ thể quyền, các bên
thứ ba khác có thể yêu cầu trưng cầu giám định, kết luật của cơ quan Giám
định sẽ được coi là căn cứ để xác định hành vi xâm phạm. Vai trò và chức
năng của tổ chức Giám định SHTT được thể hiện ở việc: xác định tình trạng
pháp lý, khả năng bảo hộ đối tượng quyền SHTT, phạm vi quyền SHTT được
bảo hộ; xác định các chứng cứ để tính mức độ thiệt hại; xác định yếu tố xâm

phạm quyền, sản phẩm/ dịch vụ xâm phạm, yếu tố là căn cứ để xác định giá
trị đối tượng quyền SHTT được bảo hộ, đối tượng xâm phạm; xác định khả
năng chứng minh tư cách chủ thể quyền, chứng minh xâm phạm, hàng hoá
xâm phạm hoặc khả năng chứng minh ngược lại của các tài liệu, chứng cứ
được sử dụng trong vụ tranh chấp hoặc xâm phạm.

15


Bản Kết luận giám định về SHTT của tổ chức giám định hoặc giám
định viên là một trong những nguồn thông tin, tài liệu tham khảo để các cơ
quan thực thi kết luận có hay không hành vi xâm phạm quyền SHTT. Việc
yêu cầu giám định có thể được thực hiện bởi chủ thể quyền, các tổ chức, cá
nhân liên quan và các cơ quan thực thi khi cần thiết. Hoạt động giám định
được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân đáp ứng được các điều kiện hành
nghề theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể nói rằng Cơ quan Giám
định có vai trò như một điểm tựa pháp lý cho việc xác định hành vi xâm
phạm, mức độ thiệt hại…, trong quá trình thực thi, bảo vệ và xử lý xâm phạm
quyền SHTT.
Hoạt động của Cơ quan quản lý nhà nước về SHTT (Cục SHTT, Cục
Bản quyền tác giả, Văn phòng bảo hộ giống cây trồng) những cơ quan không
trực tiếp thực hiện các biện pháp thực thi quyền SHTT, song đây là các cơ
quan chuyên môn, trong nhiều trường hợp các cơ quan này sẽ cung cấp các ý
kiến để giúp các cơ quan thực thi kết luận về việc có hay không có hành vi
xâm phạm quyền SHTT. Việc cung cấp ý kiến chuyên môn tương tự như
giám định SHTT nhưng được thực hiện bởi cơ quan xác lập quyền và chỉ có
cơ quan thực thi như Toà Án, Hải quan, Thanh tra, Công an… mới có quyền
được lấy ý kiến chuyên môn của các cơ quan này. Các cơ quan xác lập quyền
không cung cấp ý kiến chuyên môn cho chủ thể quyền hoặc các tổ chức, cá
nhân liên quan khác.

Hoạt động của Đại diện SHTT: hoạt động này là một dịch vụ do tổ
chức, hoặc cá nhân thực hiện nhằm đại diện cho chủ thể quyền, bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của chủ thể quyền SHTT và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ
chứng minh hoặc các thông tin về hành vi xâm phạm quyền SHTT chủ thể
quyền mà mình đang là đại diện, có trách nhiệm giải trình làm rõ các nội dung
liên quan đến yêu cầu xử lý trước các cơ quan thực thi.

16


Bên cạnh các cơ quan, tổ chức chuyên môn về SHTT, thì việc mỗi tổ
chức, cá nhân trong xã hội hiểu biết và tuôn thủ Pháp luật về SHTT cũng sẽ là
cơ sở là nền tảng cho việc đảm bảo thực thi quyền SHTT trên thực tế. Mỗi cá
nhân, tổ chức với tư cách là một thực thế pháp lý, một bên trong các giao dịch
có liên quan đến quyền SHTT, việc những cá nhân này nhận thức đúng đắn,
đầy đủ và tuôn thủ pháp luật về SHTT, tôn trọng quyền SHTT của người khác
được xem như là nền tảng, là mấu chốt cho việc có đảm bảo thực thi quyền
SHTT được hay không? Bởi cho dù các Chủ thể quyền hay các Cơ quan, tổ
chức có chức năng đảm bảo thực thi quyền SHTT có hoạt động hiệu quả và
năng nổ đến mức độ nào, nhưng mỗi cá nhân, tổ chức trong xã hội không có ý
thức tôn trọng và thực thi quyền SHTT, thì bất chấp những nỗ lực đó, việc
đảm bảo thực thi quyền SHTT cũng sẽ trở nên vô cùng khó khăn.
1.1.2 Phân biệt các khái niệm bảo hộ, bảo vệ và thực thi quyền SHTT.
Bảo hộ được hiểu là “che chở, không để bị tổn thất” [38, tr. 49]. Như
vậy, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ là những hành động mang tính chất che
chở quyền sở hữu trí tuệ nhằm không để xảy ra tổn thất về cả tinh thần và vật
chất. Bên cạnh thuật ngữ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta cũng thường
gặp cụm từ “bảo vệ quyền sở hữu”. “Bảo vệ” là “chống lại mọi sự huỷ hoại,
xâm phạm để giữ cho được nguyên vẹn” [38, tr. 50]. Như vậy, về nghĩa, “bảo
vệ” cũng tương đương với “bảo hộ” nhưng từ “bảo hộ” thường hay được hiểu

là hoạt động của nhà nước trong khi “bảo vệ” có thể là hoạt động của bất cứ
chủ thể nào. Do đó, hiểu theo nghĩa hẹp thì bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là
“việc nhà nước - thông qua hệ thống pháp luật - xác lập quyền của các chủ thể
đối với đối tượng sở hữu trí tuệ tương ứng và bảo vệ quyền đó, chống lại bất
kỳ sự vi phạm nào của bên thứ ba” [34, tr. 20]. Hiểu theo nghĩa rộng thì bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ là hoạt động bảo hộ của nhà nước, của chính chủ sở

17


hữu và của toàn thể xã hội hướng tới việc bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp
của chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ của mình [01, tr. 62].
Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là hoạt động, theo đó:
Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật nhằm xác lập quyền sở hữu
của chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ. Xác lập là ghi nhận và bảo đảm cơ sở
pháp lý cho chủ sở hữu có thể thực hiện được các quyền của mình. Bên cạnh
đó, nhà nước cũng quy định các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ sở hữu, của người sử dụng hợp pháp tài sản trí tuệ theo
những cơ chế nhất định. Như vậy, hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của
Nhà nước sẽ thể hiện trên hai phương diện. Phương diện thứ nhất là xây dựng
pháp luật nhằm xác lập quyền sở hữu của sở hữu chủ đối với tài sản trí tuệ và
phương diện thứ hai là thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Chủ sở hữu, trên cơ sở các quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ do Nhà nước ban hành, thực hiện các thủ tục cần thiết để xác lập quyền
sở hữu đối với tài sản trí tuệ của mình. Ngoài ra, khi các quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm, chủ sở hữu phải có biện pháp tự bảo vệ và yêu cầu pháp
luật bảo vệ.
Quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể được bảo hộ một cách hữu hiệu khi có
sự tham gia bảo hộ của cả cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ thể hiện qua sự tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu và

tích cực tuân thủ pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tiêu chí để đo
lường cụ thể về hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của cộng đồng xã hội
là tỷ lệ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tỷ lệ này càng thấp thì hoạt động bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ của cộng đồng xã hội càng hiệu quả.
Như vậy, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là tất cả những biện pháp được áp
dụng nhằm bảo đảm cho các chủ sở hữu của tài sản trí tuệ - những người sáng
tạo ra tài sản trí tuệ - có thể khai thác lợi ích thiết thực từ những tài sản do họ

18


sáng tạo ra. Nếu phân tích từ góc độ dân sự, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là
xác lập, củng cố và bảo vệ quyền sở hữu (gồm quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và quyền định đoạt) của các chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ. Xác lập
quyền sở hữu trí tuệ là xác nhận về mặt pháp lý rằng một người đã đăng ký
bảo hộ các đối tượng của quyền SHTT và họ sẽ là chủ sở hữu của Bằng độc
quyền, giấy chứng nhận đó. Khi là chủ sở hữu của những tài sản này, họ có
quyền thủ đắc, có quyền sử dụng, có quyền bán, tặng, cho...
Nếu phân tích từ góc độ kinh tế và cụ thể hơn là từ góc độ thương mại,
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là tất cả các biện pháp được áp dụng nhằm đảm
bảo cho các chủ sở hữu của các tài sản trí tuệ có thể khai thác giá trị kinh tế,
khai thác lợi ích thương mại, hay nói cách khác là khai thác khả năng sinh lợi
từ các sản phẩm trí tuệ do chính họ sáng tạo ra nhằm một mặt được hưởng lợi
ích từ các tài sản đó, mặt khác bù đắp và tái tạo sức lao động mà họ đã bỏ ra
như thời gian, trí lực, sức khoẻ...
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là nhà nước và chủ thể quyền sở
hữu trí tuệ sử dụng các phương thức pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu các đối
tượng sở hữu trí tuệ của mình, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn
quyền sở hữu các đối tượng này. Quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ bằng các
biện pháp hành chính, dân sự và hình sự, kiểm soát biên giới. Trong đó chủ

thể quyền có thể tự bảo vệ hoặc bằng hoạt động của cơ quan nhà nước thông
qua việc khởi kiện tại Toà án, hoặc gửi đơn yêu cầu xử lý xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Thanh tra Khoa học và
Công nghệ (nếu là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp), Thanh tra
Văn hoá, Thể thao và Du lịch (nếu là hành vi xâm phạm quyền tác giả và
quyền liên quan), Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nếu là
hành vi xâm phạm đối với giống cây trồng) hoặc gửi tới các cơ quan như:

19


×