Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Pháp luật về tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NGỌC HÒA

PHÁP LUẬT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NGỌC HÒA

PHÁP LUẬT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Anh Sơn

Hà Nội - 2011


MỤC LỤC


Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục những chữ viết tắt ……………………………………………….. 1
Danh mục các bảng, hình vẽ ………………………………………………... 2
MỞ ĐẦU…………….. ........................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................. 3
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................. 4
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
5. Kết cấu luận văn ......................................................................................... 6
Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ
KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔNG
CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC ............ 7

1.1. Sự cần thiết phải thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước (SCIC) ........................................................................................... 7
1.2. Vị trí pháp lý, chức năng của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước ..................................................................................................... 16
1.3. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở một số nước trên thế
giới ....................................................................................................... 21
1.3.1. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Trung
Quốc……………………………………………………………………23


1.3.2. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Singapore
(Temasek Holdings)……………………………………………………27
1.3.3. Mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Malaysia

(Khazanah Nasional)…………………………………………………...30
1.4. Nội dung pháp luật về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước ..................................................................................................... 32
Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM .......... 39

2.1. Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước .. 39
2.2. Quản trị nội bộ Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước ........ 42
2.3. Các hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước ... 45
2.3.1. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
trong việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước………...45
2.3.2. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
trong vai trò là nhà đầu tư của Chính phủ……………………………...48
2.3.3. Hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
trong vai trò tư vấn cho Chính phủ và các doanh nghiệp………………51
2.4. Một số bất cập của pháp luật về hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước ..................................................................... 51
2.4.1. Các quy định của pháp luật về việc thực hiện quyền đại diện chủ
sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp của Tổng công ty Đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước………………………………………………52
2.4.2. Các quy định của pháp luật về vấn đề bán vốn………………….57
2.4.3. Các quy định của pháp luật về vấn đề đầu tư vốn……………….63


2.4.4. Các quy định của pháp luật về cơ chế tài chính …………………64
Chƣơng 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ

HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH
DOANH VỐN NHÀ NƢỚC............................................. 67

3.1. Phương hướng chung............................................................................. 67
3.2. Giải pháp pháp lý .................................................................................. 69
3.3. Các giải pháp cụ thể .............................................................................. 71
3.3.1. Giải pháp về tổ chức và quản trị…………………………………71
3.3.2. Giải pháp về hoạt động…………………………………………..73
KẾT LUẬN..... ................................................................................. 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 86
PHỤ LỤC 1 ……………………………………………………………….. 93
PHỤ LỤC 2 ……………………………………………………………….. 94
PHỤ LỤC 3 ……………………………………………………………….. 94
PHỤ LỤC 4 ……………………………………………………………….. 95
PHỤ LỤC 5 ……………………………………………………………….. 96


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
ADB

: Ngân hàng Phát triển Châu Á (The Asian Development Bank)

BIDV

: Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (Bank for
Investment and Development of Viet Nam)

CTCP

: Công ty cổ phần


DNNN

: Doanh nghiệp Nhà nước

DN

: Doanh nghiệp

EVN

: Tập đoàn Điện lực Việt Nam

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

HDI

: Chỉ số phát triển con người (Human Development Index)

OECD

: Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organisation for
Economic Co-operation and Development)

ROE

: Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (Return On Equity)


SASAC

: Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản Nhà nước Trung Quốc
(State-owned

Assets

Supervision

and

Administration

Commission)
SCIC

: Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (State
Capital Investment Corporation)

SDIC

: Tập đoàn Đầu tư và phát triển Nhà nước Trung Quốc (State
Development and Investment Corporation)

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TKV


: Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam

TW

: Trung ương

UBND

: Ủy ban nhân dân

WB

: Ngân hàng Thế giới (World Bank)

XHCN

: XHCN

1


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ

Số hiệu

Nội dung

Trang

1.1


: So sánh mối quan hệ giữa vốn, doanh thu và sử dụng lao

8

động của ba loại hình doanh nghiệp: DNNN, Doanh
nghiệp dân doanh và Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (FDI)
1.2

: Số lượng Công ty Nhà nước qua các năm

12

1.3

: Danh mục đầu tư theo địa lý của Temasek

28

1.4

: Danh mục đầu tư theo ngành của Temasek

29

1.5

: Cơ cấu danh mục tài sản nắm giữ của Khazanah


30

1.6

: Giá trị đầu tư của Khazanah từ 1/6/2004 đến 31/12/2008

31

2.1

: Tỷ trọng vốn phân bổ theo ngành của SCIC (tính đến

49

01/4/2010)
2.2

: Cơ cấu danh mục doanh nghiệp của SCIC đến năm 2020

2

50


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn hai mươi năm đổi mới nền kinh tế, về căn bản chúng ta đã có
một nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở
hữu. Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng trong toàn bộ nền
kinh tế và tạo ra đặc thù của nền kinh tế XHCN.

Xác định rõ mô hình và con đường lựa chọn là xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam chủ trương phát triển
một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Nghị quyết đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân của nước ta”. Thực hiện vai trò chủ đạo này, các DNNN
không thể vận hành theo cách thức cũ mà cần phải có sự tham gia của các
thành phần kinh tế khác trong DNNN. Do đó, cổ phần hóa là con đường tất
yếu của các doanh nghiệp nhà nước nếu muốn hoạt động có hiệu quả, đóng
góp nhiều cho sự phát triển kinh tế xã hội, giữ vững vai trò là “nhạc trưởng”
của nền kinh tế quốc gia.
Vấn đề đặt ra là khi DNNN cổ phần hóa cần có người đại diện vốn của
Nhà nước trong các doanh nghiệp. Trên thực tế đã có những mô hình, cách
thức khác nhau trong việc quản lý, đầu tư, phát triển vốn nhà nước. Lựa chọn
mô hình nào tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, ở từng giai
đoạn.
Doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là một trong những
mô hình mà Việt Nam đã lựa chọn sau khi đã thí nghiệm những mô hình quản
lý vốn nhà nước trước đó (như: Cục quản lý công sản). Ngày 20/6/2005, Thủ

3


tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg và
152/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước (SCIC – State Capital Investment Corporation). Kể từ khi đi vào
hoạt động (tháng 8/2006) đến nay, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước (SCIC) đã bước đầu thu được những kết quả nhất định; nhưng bên
cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề được đặt ra về mặt lý luận cũng như trong thực
tiễn hoạt động, chẳng hạn như vấn đề về:

- Tỷ lệ góp vốn.
- Đại diện của SCIC tại các doanh nghiệp.
- Địa vị pháp lý, quản trị nội bộ của SCIC.
- Mối quan hệ giữa SCIC với các cơ quan quản lý Nhà nước khác.
- Hiệu quả hoạt động của SCIC.
Xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản nêu trên, việc nghiên cứu làm
sáng tỏ những vấn đề liên quan đến lý luận, hiệu quả hoạt động của Tổng
công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, góp phần nhằm tháo gỡ những
khó khăn vướng mắc trong thực tế hoạt động của SCIC là một hướng đi đúng
đắn, thiết thực. Vì thế, người viết quyết định chọn: “Pháp luật về Tổng công
ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước ở Việt Nam” làm đề tài cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Mặc dù mô hình Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước chỉ
mới xuất hiện ở Việt Nam nhưng đã có một số bài viết nghiên cứu như bài:
“Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước – thách thức hoàn thành
nhiệm vụ được giao” đăng trên tạp chí Môi trường kinh doanh số 18 tháng 2
năm 2007, “Đầu tư vốn nhà nước một cách chuyên nghiệp” đăng trên chuyên

4


trang Thông tin doanh nghiệp của trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã
hội quốc gia số ra ngày 27 tháng 8 năm 2007… Tuy nhiên, những bài viết này
chủ yếu chỉ đi vào nghiên cứu SCIC dưới góc độ tài chính, kinh tế.
Về phương diện pháp lý, việc nghiên cứu mô hình quản lý DNNN ở
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế; nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa như
hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích nghiên cứu

Luận văn được thực hiện với mục đích:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về Tổng công ty Đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước.
- Trên cơ sở hiệu quả hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước, luận văn đưa ra những nhận xét và nguyên
nhân của thực trạng.
- Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, người viết chủ yếu sử dụng phương pháp
luận của Triết học Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trên
cơ sở đường lối và chủ trương của Đảng về đổi mới nền kinh tế đất nước, về
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN.
Ngoài ra, để hoàn thành luận văn, người viết còn sử dụng phối hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu có tính truyền thống trong khoa học pháp lý

5


để luận văn có tính lý luận và thực tiễn cao như: phương pháp biện chứng,
lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh luật học,
thống kê; phương pháp logic; phương pháp đối chiếu; phương pháp diễn giải;
phương pháp quy nạp; phương pháp xã hội học pháp luật… để giải quyết
những vấn đề cơ bản của luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu thành ba chương chính có quan hệ chặt chẽ với
nhau như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh

vốn nhà nước và pháp luật về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh
vốn nhà nước ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƢỚC

1.1. Sự cần thiết phải thành lập Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn
nhà nƣớc (SCIC)
Thực tế cho thấy, sau hơn hai mươi năm đổi mới, kinh tế quốc doanh
vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Năm 2000, cả nước
có 5.266 DNNN, đến cuối năm 2005 giảm còn 3.067 doanh nghiệp. Số lượng
DNNN tuy giảm nhưng quy mô ngày càng tăng lên. Số vốn bình quân một
DNNN tăng từ 130 tỷ đồng năm 2000 lên 355 tỷ đồng vào năm 2005 [43].
Nếu so sánh với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, DNNN vẫn là khu vực thu hút khá đông lao động (gần
32,7%), tập trung nguồn vốn lớn nhất (hơn 54%), có lợi nhuận cao (hơn 41%)
và đóng góp nhiều nhất vào ngân sách Nhà nước (gần 41%) [43]. Đến tháng
12/2007, số lượng DNNN còn khoảng 1.900 đơn vị [27]. Trong sáu tháng đầu
năm 2008, tổng số vốn mà 74 tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước đang nắm giữ
lên tới gần 403.000 tỷ đồng. Các DNNN cũng là đầu mối xuất khẩu nhiều mặt
hàng quan trọng như dầu thô, gạo, than… [30].

Khi kinh tế tư hữu và cạnh tranh chưa phát huy được hiệu quả thì việc
Nhà nước trở thành chủ đầu tư lớn nhất, đặc biệt nhất trong cơ sở hạ tầng và
những lĩnh vực độc quyền tự nhiên, là tất yếu [31]. Tuy nhiên, trong bối cảnh
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì các
DNNN dần bộc lộ những yếu kém. Kinh tế Nhà nước đóng góp hơn 40% tổng
thu ngân sách Nhà nước; nhưng bên cạnh những DNNN mang lại nguồn thu

7


lớn cho ngân sách, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả,
thậm chí còn buông lỏng quản lý tài chính. Kết quả kiểm toán tại một số Tổng
công ty năm 2008 đã chỉ ra không ít sai phạm về tài chính. Sự yếu kém của
một bộ phận DNNN thể hiện rõ trên bảng xếp hạng của Bộ Tài chính. Theo
đó, chỉ có 44,4% doanh nghiệp xếp loại A; 39,5% doanh nghiệp xếp loại B;
16,1% doanh nghiệp loại C và có tới 19,5% doanh nghiệp làm ăn thua lỗ [30].
Phân nhóm Doanh nghiệp
TT

Chỉ tiêu

Đơn
vị

DNNN
2005

1
2
3


Cơ cấu trên
tổng vốn
Cơ cấu trên
tổng doanh
thu
Cơ cấu trên
tổng số lao
động

2006

DN ngoài Nhà nƣớc
2007

2005

2006

2007

DN có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài
2005 2006 2007

%

54.88 51.92 47.06 24.98 28.16 34.69 20.14 19.92 18.25

%


38.85 35.82 31.48 39.44 41.96 47.26 21.71 22.22 21.26

%

32.67 28.29 23.88 47.76 50.19 53.28 19.57 21.52 22.84

Bảng 1.1: So sánh mối quan hệ giữa vốn, doanh thu và sử dụng lao
động của ba loại hình doanh nghiệp: DNNN, Doanh nghiệp dân doanh và
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
(Nguồn: Báo cáo ngày 4/11/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tóm
tắt kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng
vốn, tài sản Nhà nước tại các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước).
Qua bảng trên có thể thấy, tỷ trọng vốn của khối DNNN trong tổng vốn
của nền kinh tế từng năm luôn cao nhất, tuy nhiên tỷ trọng đóng góp trong
tổng doanh thu luôn thấp hơn so với khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê và Bộ tài chính, nhìn chung kết quả sản
xuất kinh doanh của DNNN thấp - trừ những DNNN có lợi thế kinh doanh,
được hưởng nhiều chính sách đặc biệt là có kết quả cao. Chẳng hạn, năm
2005, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia doanh thu đạt 42.310 tỷ đồng, lợi nhuận đạt

8


24.924 tỷ đồng. Tập đoàn Điện lực doanh thu đạt 38.818 tỷ đồng, lợi nhuận
đạt 3.200 tỷ đồng. Phần lớn những DNNN còn lại kinh doanh kém hiệu qủa,
chủ yếu thuộc các ngành: nông nghiệp, giấy, cà phê... Tính chung giai đoạn
2001-2005, doanh thu của DNNN chỉ tăng 9,1%/năm. Nhiều doanh nghiệp lỗ
lớn như các tổng công ty: Xi măng, Cà phê, Dâu tơ tằm… Trong các đơn vị
trên, đơn vị lỗ ít nhất lên tới 220 tỷ đồng, đơn vị lỗ nhiều nhất lên đến 1.352

tỷ đồng, gấp gần 13 lần vốn bình quân một DNNN [32].
Sự kém hiệu quả trong hoạt động của DNNN là do nhiều nguyên nhân,
trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
 Nguyên nhân thứ nhất: Trước tiên đó là do quyền tài sản của
DNNN không thực sự rõ ràng. Điều 17 Hiến pháp Việt Nam 1992 (sửa đổi,
bổ sung 2001) ghi nhận: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên
trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và
tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng,
an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều
thuộc sở hữu toàn dân”. Như vậy, theo đó, các DNNN đều thuộc sở hữu toàn
dân. Mặt khác, phạm trù Nhà nước là một phạm trù rất trừu tượng. Chỉ có thể
cảm nhận được Nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan của nó. Chính
vì thế, khi giao kết một hợp đồng với DNNN, đối tác cần biết ai sẽ là người
có thẩm quyền kiểm soát những tài sản thuộc sở hữu toàn dân đó. Và cùng
một lúc, có rất nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng chủ sở
hữu Nhà nước và đều được coi là đại diện chủ sở hữu Nhà nước.
 Nguyên nhân thứ hai: Sự không rõ ràng giữa chức năng quản lý
Nhà nước về kinh tế và chức năng điều hành hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp; giữa quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp với

9


quyền chủ động của doanh nghiệp trong quản lý, sử dụng vốn nhà nước.
Chính việc cơ quan Nhà nước can thiệp hành chính quá sâu vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp đã dẫn tới việc quản lý Nhà nước đối với các
doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
 Nguyên nhân thứ ba: Vốn đầu tư của Nhà nước vào các doanh

nghiệp còn dàn trải nên phần lớn các DNNN có quy mô nhỏ, chưa tập trung
đầu tư vào những ngành, lĩnh vực then chốt (như quốc phòng, an ninh, các
lĩnh vực sản xuất sản phẩm phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng…). Thêm vào đó,
quá trình sắp xếp, chuyển đổi, cổ phần hoá DNNN còn chậm; dẫn tới số
lượng doanh nghiệp có tỷ trọng vốn nhà nước lớn còn nhiều, chưa tập trung
được nguồn lực để xây dựng nên các DNNN có tầm cỡ khu vực, làm nòng cốt
để nước ta chủ động và thực hiện có hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn
nữa, nếu như việc chủ tư nhân mang tiền của mình đi kinh doanh sẽ quan tâm
sống còn đến đồng vốn của mình bỏ ra sao cho đem lại hiệu quả cao nhất; thì
các DNNN sử dụng tài sản của Nhà nước để kinh doanh, và khi kinh doanh
không đem lại hiệu quả thì đã có Nhà nước “chịu”. Tâm lý “cha chung không
ai khóc”, lối suy nghĩ “tiền chùa”, “của chùa” đã ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hiệu quả kinh doanh của DNNN. Mặt khác, vẫn còn tình trạng Nhà nước
ưu ái với các DNNN như miễn thuế, nộp thuế chậm… khiến DNNN không
nhạy cảm với lợi nhuận, tiết kiệm, tăng hiệu suất và gây ra nhiều tác hại khác.
Thực tế cho thấy, hiện nay DNNN đang tồn tại ở hầu hết các nước trên
thế giới, không chỉ ở các nước đi theo con đường XHCN mà cả ở những nước
tư bản chủ nghĩa. Sự cần thiết tồn tại DNNN ở các nước có chế độ chính trị và
trình độ phát triển khác nhau là do nhiều nguyên nhân. Trước tiên, đó là do
yêu cầu của việc quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bên cạnh việc sử dụng
các công cụ như: pháp luật, chính sách kinh tế… thông qua các DNNN, Nhà

10


nước sẽ điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thêm nữa, DNNN còn đi đầu
trong việc mở đường, tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát
triển; trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng (đặc biệt đối
với địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, với các vùng kinh tế

khó khăn, vùng sâu, vùng xa). Thêm vào đó, DNNN còn là công cụ sắc bén
để khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường như: tính bất ổn định,
sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, ảnh hưởng không tốt tới sự tăng
trưởng bền vững của nền kinh tế, gây ra sự mất cân đối, phân hóa giàu nghèo
quá mức… thông qua việc khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào
các địa bàn khó khăn; hay DNNN sẽ tiến hành đầu tư, phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống của nhân dân tại những vùng này. Hơn thế, DNNN còn góp phần
quan trọng trong việc chống độc quyền. Nhờ DNNN, quyền lực kinh tế của
một số tập đoàn tư bản ở mọi quy mô, mức độ trong nền kinh tế bị hạn chế.
Như vậy, mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự mang lại kết quả
như mong đợi, nhưng sự tồn tại của DNNN trong nền kinh tế là cần thiết.
Chính vì thế, trong vòng hai thập kỷ trở lại đây, cải cách DNNN luôn được
coi là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Mọi nỗ lực cải cách đều tập trung vào việc gỡ bỏ những rắc rối trong mối
quan hệ giữa chức năng quản lý hành chính và chức năng đại diện chủ sở hữu
của các cơ quan Nhà nước; nhằm giúp các DNNN có được sự độc lập, tự chủ
hơn trong hoạt động kinh doanh thông qua việc tái cơ cấu và đa dạng hóa
hình thức sở hữu, trong đó có việc tiến hành cổ phần hóa DNNN. Bất chấp
những nỗ lực này, khối DNNN vẫn hoạt động kém hiệu quả hơn so với khối
doanh nghiệp tư nhân. Vấn đề quản trị DNNN sao cho có hiệu quả, cũng như
vấn đề liên quan đến vai trò “đúp” của Nhà nước trong quản lý và sở hữu
doanh nghiệp đến nay vẫn chưa được giải quyết triệt để [54].

11


Số lƣợng Công ty nhà nƣớc qua các năm
7.000
6.000
5.000


6.052 6.052 5.800
5.600 5.400
5.266 5.438

4.000

4.773

4.273

3.808
3.067

3.000
2.000
1.000
0

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Bảng 1.2: Số lượng Công ty Nhà nước qua các năm
(Nguồn: Cục Tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính)
Nếu mục tiêu quản lý vốn của Nhà nước tại DNNN chỉ dừng lại ở mức
bảo toàn, không làm thất thoát vốn thì việc quản lý hành chính là có thể phù
hợp. Tuy nhiên, nếu muốn sử dụng nguồn vốn đó sao cho hiệu quả nhất,
không những thế, có thể dùng vốn đó để phát triển nền kinh tế, thì cần phải
thay đổi cơ bản cách quản lý vốn nhà nước như hiện nay. Một trong những
điểm mấu chốt để đạt được mục tiêu đó chính là việc cần phải tách bạch chức
năng quản lý Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh. Điều này có

nghĩa các quyết định kinh doanh phải do những nhà kinh doanh đưa ra, chứ
không phải do các nhà chính trị hay nhà quản lý hành chính thuần túy đưa ra.
Bên cạnh đó, thay vì đầu tư vào những lĩnh vực mà khu vực kinh tế tư
nhân muốn làm và có thể làm tốt (chẳng hạn như dệt may hay bất động sản)
thì Nhà nước có thể dành nguồn vốn để đầu tư cho các lĩnh vực khác cần đến
vai trò của Nhà nước, tránh đầu tư tràn lan, chồng chéo. Điều này có nghĩa là
khi đầu tư vốn, Nhà nước không chỉ coi trọng đến hiệu quả tài chính, mà còn
phải nhìn vào hiệu quả kinh tế và xã hội. Thêm nữa, hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp có vốn nhà nước phải chịu sự điều tiết, tác động của

12


quy luật của thị trường. Trên thực tế, khu vực DNNN hiện nay còn nhiều đặc
quyền, đặc lợi như lợi thế về đất đai, về tiếp cận vốn… Mặc dù điều này đã và
sẽ tiếp tục làm tăng tính ỷ lại, khiến DNNN yếu đi chứ không mạnh lên. Việc
tách các đơn vị này ra khỏi sự quản lý hành chính của Nhà nước sẽ giúp cho
nó có được một vị thế tương đối độc lập. Vị thế này cùng với động cơ lợi
nhuận sẽ giúp DNNN phát triển. Nhưng vấn đề đặt ra là sau khi tách chức
năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh thì vốn của Nhà
nước trong các doanh nghiệp sẽ do ai/cơ quan nào quản lý, bởi lẽ, quản lý
nguồn vốn của Nhà nước là một việc rất khó khăn, đòi hỏi chuyên môn cao và
sâu, nên buộc phải có một đội ngũ chuyên gia đích thực giàu kinh nghiệm [1].
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc cải cách DNNN, Nghị quyết của
Chính phủ tháng 7 năm 2004 nhấn mạnh: “Trong những năm qua, hoạt động
của các doanh nghiệp có vốn nhà nước đã góp phần quan trọng trong sản
xuất và đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả sản
xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, chưa
bảo đảm được việc bảo toàn và phát triển vốn nhà nước, gây thất thoát lãng
phí. Tình trạng trên có phần do cơ chế quản lý vốn của Nhà nước tại các

doanh nghiệp còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với đặc điểm
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhằm từng bước khắc phục tình trạng
này, việc thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước có tính
độc lập, chuyên nghiệp để thực hiện các chức năng theo quy định tại Luật
DNNN năm 2003, góp phần đẩy nhanh tiến độ đổi mới, sắp xếp lại DNNN,
tiến tới đổi mới cơ bản phương thức quản lý nhằm quản lý nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp là hết sức cần thiết” [10].
Bên cạnh đó, Nghị quyết qua các lần Hội nghị của Ban chấp hành TW
Đảng các khóa cũng thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
công cuộc cải cách DNNN. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành

13


TW Đảng khóa VIII về tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nêu rõ phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, chấn chỉnh và nâng cao hiệu
quả hoạt động của DNNN, trong đó cần: “Tổng kết mô hình tổng công ty Nhà
nước, trên cơ sở đó có phương án xây dựng các tổng công ty thực sự trở
thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, thực
sự là xương sống của nền kinh tế. Xem xét, sắp xếp lại các tổng công ty không
phù hợp, hoạt động kém hiệu quả. Nghiên cứu bổ sung, sửa đổi mô hình tổng
công ty theo hướng phối hợp quan hệ liên kết theo chiều ngang với quan hệ
liên kết theo chiều dọc; chuyên môn hóa theo một ngành hàng và từng bước
thực hiện kinh doanh đa ngành nghề. Nghiên cứu chuyển cơ chế quản lý vốn
theo phương thức hành chính sang cơ chế công ty tài chính” [22].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN khẳng
định: “phải đẩy mạnh sắp xếp, nâng cao hiệu quả DNNN, kiên quyết chấm
dứt tình trạng cơ quan hành chính Nhà nước can thiệp trực tiếp, cụ thể vào

hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; phân định rõ quyền quản
lý hành chính kinh tế của Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp”, “thí điểm lập công ty đầu tư tài chính Nhà nước để thực hiện
đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiên cứu ban hành Luật
sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh” [23].
Đến Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nhấn
mạnh: “Nghiên cứu việc thành lập công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và
cơ quan quản lý Nhà nước để thực hiện thống nhất và có hiệu quả chức năng
đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp thuộc mọi ngành
trong nền kinh tế quốc dân... Khẩn trương xóa bỏ đặc quyền và độc quyền
kinh doanh của DNNN phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế” [24].

14


Nghị quyết Đại hội Đảng khoá X: “Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước làm tốt việc đầu tư vốn cho DNNN và làm đại diện chủ sở hữu phần
vốn nhà nước tại các công ty, tổng công ty Nhà nước đã cổ phần hoá và các
DNNN độc lập chuyển thành công ty TNHH một chủ sở hữu là Nhà nước… ; Đổi
mới tổ chức và quy chế thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN
gắn với việc thu hẹp và tiến tới không còn chức năng đại diện chủ sở hữu của
các bộ, UBND các tỉnh, thành phố đối với DNNN” [25].

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành TW khoá X: “Hoàn
thiện thể chế về sở hữu nhà nước theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước
với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai
trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản,
vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của DNNN; thu hẹp và
tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các Bộ, Ủy ban
nhân dân đối với tài sản, vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có tài sản, vốn

nhà nước” [26].
Chính vì vậy, ngày 20/6/2005 Thủ tướng đã ban hành Quyết định
151/2005/QĐ-TTg về việc “Thành lập Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh
vốn nhà nước để thực hiện việc quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước
tại các doanh nghiệp, các lĩnh vực theo quy định của pháp luật” (Điều 1); và
Quyết định 152/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động
của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Tháng 8/2006,
SCIC chính thức đi vào hoạt động với vốn điều lệ ban đầu là 5.000 tỷ đồng.
Theo Quyết định 183/2007/QĐ-TTg (27/11/2007) sửa đổi, bổ sung Quyết
định 151/2005/QĐ-TTg thì vốn điều lệ của SCIC đã tăng lên là 15.000 tỷ
đồng. Hiện nay, theo Quyết định số 992/QĐ-TTg (30/6/2010) của Thủ tướng
về việc chuyển SCIC thành công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu, vốn điều lệ của SCIC tại thời điểm chuyển đổi là 19.000 tỷ đồng.

15


Việc thành lập SCIC được xem như một quyết định đúng đắn của
Chính phủ trong việc nỗ lực cải cách mạnh mẽ khu vực kinh tế Nhà nước, và
là một phần của quá trình đổi mới DNNN nhằm chuyển đổi từ cơ chế quản lý
hành chính sang mô hình đầu tư kinh doanh vốn; góp phần quan trọng bảo
toàn và phát triển vốn nhà nước. Theo điều lệ, SCIC sẽ thực hiện quyền sở
hữu Nhà nước trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước, nhằm giảm thiểu can
thiệp chính trị vào việc quản lý tài sản Nhà nước, hướng tới bán nốt phần vốn
nhà nước ở các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối.
Như vậy, qua tìm hiểu có thể thấy, việc thành lập Tổng công ty Đầu tư
và kinh doanh vốn nhà nước là cần thiết nhằm mục đích: quản lý, sử dụng sao
cho có hiệu quả nguồn vốn nhà nước tại các doanh nghiệp; cải cách phương
thức quản lý DNNN (tách biệt và loại bỏ dần sự can thiệp quản lý hành chính
của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp); chấm dứt tình trạng không xác định rõ ràng người đại diện sở hữu
phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp.
1.2. Vị trí pháp lý, chức năng của Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn
nhà nƣớc
Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước được thành lập để
thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty TNHH Nhà
nước một thành viên hoặc do chuyển đổi từ các công ty Nhà nước độc lập
hoặc do SCIC thành lập; thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước và quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với cổ phần, vốn góp của Nhà
nước tại các doanh nghiệp đã chuyển đổi sở hữu hoặc hình thức pháp lý từ
các công ty Nhà nước độc lập (khoản 3 Điều 47 Luật DNNN 2003).
Được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng, SCIC là tổ chức tài
chính đặc biệt để thực hiện mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp có

16


vốn nhà nước; tách chức năng quản lý Nhà nước của các Bộ, ngành, địa
phương với chức năng đầu tư, kinh doanh vốn thông qua một tổ chức tài
chính chuyên nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, góp phần nâng cao
quyền tự chủ, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp có vốn nhà nước.
Với tư cách là tổ chức chuyên kinh doanh vốn của Chính phủ, sự ra đời
của SCIC nằm trong tiến trình cải cách kinh tế nói chung, cải cách doanh
nghiệp nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhà nước. SCIC
là đại diện duy nhất chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, thực hiện
quyền đầu tư tài chính, kinh doanh vốn theo những nguyên tắc và quy luật thị
trường. Về chức năng, nhiệm vụ của SCIC, pháp luật hiện hành quy định:
 Điều 3 Quyết định 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng
Chính phủ nêu rõ SCIC có các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu sau:
“1. Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước

đầu tư tại các công ty TNHH Nhà nước một thành viên, công ty TNHH có hai
thành viên trở lên, công ty cổ phần được chuyển đổi từ các công ty Nhà nước
độc lập hoặc mới thành lập.
2. Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực kinh tế
trong nước và nước ngoài dưới các hình thức:
a) Đầu tư vốn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng mà Nhà nước cần
chi phối để thành lập doanh nghiệp mới;
b) Đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần với các doanh
nghiệp khác;
c) Đầu tư mua một phần tài sản hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác;
d) Đầu tư trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán thông qua việc
mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ tài chính khác.

17


3. Thực hiện việc đầu tư và quản lý vốn đầu tư của Tổng công ty vào
các lĩnh vực, ngành kinh tế quốc dân theo nhiệm vụ Nhà nước giao.
4. Tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để bổ sung
vốn kinh doanh thông qua việc vay vốn, phát hành trái phiếu công ty, trái
phiếu công trình, lập quỹ tín thác đầu tư theo quy định của pháp luật đối với
công ty Nhà nước.
5. Cung cấp các dịch vụ tài chính: tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính, tư
vấn cổ phần hoá, tư vấn chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; nhận uỷ thác các
nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
6. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh vốn.

7. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp.
8. Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật”.
 Điều 6 Quyết định 152/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng

ghi nhận các chức năng, nhiệm vụ của SCIC gồm:
“1. Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước
đầu tư tại các công ty TNHH Nhà nước một thành viên, công ty TNHH có hai
thành viên trở lên, công ty cổ phần được chuyển đổi từ các công ty Nhà nước
độc lập hoặc mới thành lập.
2. Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực kinh tế
trong nước và nước ngoài để đạt các mục tiêu sau:
- Bảo toàn và phát triển vốn nhà nước, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
- Tạo động lực để phát triển, nâng cao năng lực hoạt động, khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước.
3. Thực hiện việc đầu tư và quản lý vốn đầu tư của Tổng công ty vào
các lĩnh vực, ngành kinh tế quốc dân theo nhiệm vụ Nhà nước giao.

18


4. Tổ chức huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước theo quy định
của pháp luật đối với công ty Nhà nước.
5. Cung cấp các dịch vụ tài chính: tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính, tư
vấn cổ phần hóa, tư vấn chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, nhận ủy thác các
nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
6. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh vốn.

7. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”.
 Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của SCIC còn được thể hiện tại Điều 7
Quyết định 152/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005:
“1. Đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn đầu
tư của Tổng công ty.
2. Chiếm hữu, sử dụng vốn và tài sản của Tổng công ty để đầu tư thực
hiện các lợi ích hợp pháp của Tổng công ty.

3. Định đoạt đối với vốn và tài sản của Tổng công ty. Quản lý và sử
dụng các tài sản được Nhà nước giao, cho thuê theo quy định của pháp luật
và Điều lệ này.
4. Lựa chọn và quyết định lĩnh vực đầu tư và kinh doanh vốn theo
nguyên tắc thị trường, bảo đảm hiệu quả và khả năng sinh lời trong tương lai.
Trường hợp thực hiện các nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao, nếu
không có hiệu quả thì được thực hiện các chính sách ưu đãi thích hợp và Nhà
nước hỗ trợ về tài chính.
5. Góp vốn, tài sản với các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước để
liên doanh, liên kết bằng các hình thức: mua một phần hoặc toàn bộ công ty
khác, đầu tư thành lập doanh nghiệp mới, ký hợp đồng hợp tác kinh doanh và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

19


6. Điều chỉnh tăng, giảm vốn mà Tổng công ty đã đầu tư tại các doanh
nghiệp, lĩnh vực theo quy định của pháp luật, Điều lệ của các doanh nghiệp
và Điều lệ này.
7. Huy động vốn để kinh doanh dưới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ
phiếu; vay vốn của tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính khác theo quy
định của pháp luật và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn huy động.
8. Nhận ủy thác các nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức và cá nhân trong,
ngoài nước, chịu trách nhiệm về việc quản lý sử dụng các nguồn vốn này.
9. Bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao, chịu trách nhiệm về việc
thất thoát vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.
10. Thực hiện báo cáo công khai, minh bạch về hoạt động kinh doanh
và tài chính của Tổng công ty với các cấp có thẩm quyền theo quy định.
11. Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật
DNNN và Điều lệ này”.

Như vậy, tựu chung lại, SCIC được thành lập nhằm thực hiện những
chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau:
 Thứ nhất: Tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn
nhà nước với vai trò là cổ đông Nhà nước tại doanh nghiệp.
 Thứ hai: Chiếm hữu, sử dụng vốn nhà nước để đầu tư, và đảm bảo
một cách tốt nhất các lợi ích hợp pháp của Nhà nước qua việc quản lý vốn nhà
nước đầu tư tại doanh nghiệp. Tổ chức huy động vốn trong nước và quốc tế
nhằm tăng năng lực tài chính của Nhà nước đầu tư cho nền kinh tế, thay cho
phương thức cấp phát ưu đãi vốn qua ngân sách Nhà nước như trước kia.
 Thứ ba: Thực hiện đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước vào các
ngành, lĩnh vực theo nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao; vào các

20


×