Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam: Luận văn ThS. Luật: 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THANH THỦY

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
TRONG KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THANH THỦY

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
TRONG KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. DOÃN HỒNG NHUNG

Hà Nội – 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn được đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Thanh Thủy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI TRONG KHU
CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1.1


Tổng quan về chất thải nguy hại

6
6

1.1.1 Khái niệm chất thải nguy hại

6

1.1.2 Sự cần thiết quản lý chất thải nguy hại

9

1.2

Khái niệm pháp luật quản lý chất thải nguy hại trong khu
công nghiệp

11

1.2.1 Khái niệm khu công nghiệp và quản lý chất thải nguy hại
trong khu công nghiệp

11

1.2.2 Khái niệm pháp luật quản lý chất thải nguy hại trong khu
công nghiệp

15


1.2.3 Đặc điểm của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại và vai
trò của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu
công nghiệp.

16

1.3. Nội dung pháp luật quản lý CTNH trong KCN và các nguyên
tắc của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.

17

1.3.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật quản lý chất thải nguy hại
trong KCN

20

1.3.2 Kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về
quản lý chất thải nguy hại

21


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT
THẢI NGUY HẠI TRONG KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1.

26

Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về quản lý chất

thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam

26

2.1.1 Khái quát quá trình hình thành pháp luật về quản lý chất thải
nguy hại trong KCN

26

2.1.2 Kết quả thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại

27

2.1.3 Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân

32

2.2. Thực trạng các qui định của pháp luật về quản lý chất thải
nguy hại trong khu công nghiệp
2.3

40

Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý CTNH trong
KCN ở Việt Nam.

2.3.1 Thực trạng quản lý chất thải nguy hại tại Việt Nam

46
46


2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý chất thải nguy
hại ở Việt Nam
2.3.3 Nguyên nhân của những khó khăn tồn tại

51
57

CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT
THẢI NGUY HẠI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
CHẤT THẢI NGUY HẠI TRONG KHU CÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM

63

3.1 Định hướng hoàn thiện

63

3.2 Kiến nghị hoàn thiện

66

3.3 Giải pháp hoàn thiện

69

3.3.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật

69


3.3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật

73

KẾT LUẬN

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86


DANH MỤC VIẾT TẮT

TT

Kí hiệu viết tắt

Nguyên nghĩa

1

CTR

Chất thải rắn

2


CTNH

Chất thải nguy hại

3

ĐTM

Đánh giá tác động môi trường

4

KCN

Khu công nghiệp

5

KTTĐ

Kinh tế trọng điểm

6

KCX

Khu chế xuất

7


QCVN

Quy chuẩn Việt Nam

8

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

9

TCXDVN

Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam

Ghi chú


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Thống kê công nghệ xử lý chất thải nguy hại ở Việt Nam ............ 28


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ô nhiễm môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu mà không phải của
riêng quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào. Thực tiễn đã chứng minh, không một
quốc gia nào có thể phát triển hùng mạnh và bền vững nếu quốc gia đó không
lấy vấn đề bảo vệ môi trường làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường, trong đó ô nhiễm môi trường do chất

thải, đặc biệt là chất thải nguy hại là nguyên nhân cơ bản và khó tháo gỡ nhất.
Vấn đề chất thải nguy hại nói chung và quản lý chất nguy hại nói riêng
đặc biệt là quản lý chất thải nguy hại trong các khu công nghiệp hiện đang là
vấn đề bức xúc đối với công tác bảo vệ môi trường của các nước trên thế giới
cũng như của Việt Nam. Cùng với sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, các đô thị, các ngành sản xuất, kinh doanh và dịch vụ được mở rộng
và phát triển nhanh chóng, một phần đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh
tế của đất nước, mặt khác tạo ra một số lượng lớn các loại chất thải, trong đó
có một lượng đáng kể chất thải nguy hại và đặc biệt là chất thải nguy hại
trong các khu công nghiệp đã và đang là nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, từ quy mô nhỏ đến ảnh hưởng quy mô rộng lớn và tác
động xấu tới sức khỏe, đời sống con người và chất lượng môi trường chung.
Trước những yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với việc bảo vệ môi trường cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy tôi lựa
chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình là: “Pháp luật về quản lý chất thải
nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp luôn là
đề tài nóng trong những nghiên cứu ở các quốc gia trên thế giới và ở Việt

1


Nam. Đã có một số luận văn, những bài báo viết về các vấn đề liên quan đến
pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam như:
- Giáo trình “Quản lý chất thải nguy hại” của Trịnh Thị Thanh,
Nguyễn Khắc Linh Nhà xuất bản năm 2005;
- “Tính toán tải lượng, dự báo phát sinh chất thải nguy hại từ 7 khu
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2020 và đề xuất các giải
pháp cải thiện hệ thống quản lý chất thải nguy hại” của Nguyễn Thị Mỹ

Linh, Lê Thị Hồng Trân, Trịnh Ngọc Đào - Trường Đại học Bách Khoa,
ĐHQG HCM năm 2009;
- Báo cáo khoa học “Quy hoạch hệ thống thu gom vận chuyển chất thải
rắn công nghiệp và chất thải công nghiệp nguy hại cho các khu công nghiệp
tại Thành phố HCM”, năm 2012;
- Luận án “Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt dộng
làng nghề gây ra tại Việt Nam hiện nay” của TS Lê Kim Nguyệt năm 2014;
- Sách chuyên khảo của PGS.TS Doãn Hồng Nhung và Ths. Nguyễn
Thị Bình “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường tại khu công nghiệp ở Việt Nam” năm 2016.
Trong bối cảnh Luật bảo vệ môi trường năm 2014 mới có hiệu lực thi
hành, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
trong khu công nghiệp ở Việt Nam”, đề tài này có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với cuộc sống con người khi mà vấn đề ô nhiễm môi trường ngày
càng trở nên nghiêm trọng. Lựa chọn đề tài này là tiếp tục nghiên cứu các
công trình nghiên cứu trước đây của các học viên, bên cạnh đó cũng làm sáng
tỏ một số vấn đề đó là:
- Nghiên cứu thực trạng hệ thống pháp luật về quản lý chất thải nguy
hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

2


- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải
nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam cho phù hợp với thực tế và phù
hợp với xu hướng hội nhập quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về thực trạng Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong
khu công nghiệp ở Việt Nam.

Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, luận văn đưa ra những mục tiêu cụ
thể sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật quản lý chất thải
nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng hệ thống pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
trong khu công nghiệp ở Việt Nam cũng như thực trạng thực thi pháp luật về
quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp, cụ thể là các vấn đề về cấp
sổ chủ nguồn thải; thẩm định năng lực vận chuyển, xử lý CTNH…
- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải
nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, tôi
đã dựa trên đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách kinh tế
- xã hội và các nội dung khác có liên quan. Đồng thời dựa vào các quy định của
pháp luật hiện hành về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp. Trong
những trường hợp cụ thể sử dụng các phương pháp cụ thể: lịch sử cụ thể; phân
tích tổng hợp các quy định pháp luật liên quan và thực tiễn áp dụng pháp luật về
quản lý CTNH tại KCN. Đồng thời, luận văn cũng áp dụng phương pháp so sánh
với kinh nghiệm của một số quốc gia thành công trong công tác quản lý CTNH
tại KCN để đưa ra những giải pháp phù hợp cho Việt Nam.

3


5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là hệ thống các quy định pháp
luật hiện hành của Việt Nam về quản lý chất thải nguy hại trong khu công
nghiệp và thực tiễn thi hành pháp luật quản lý chất thải nguy hại trong khu
công nghiệp.

5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào pháp luật về quản
lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp của Việt Nam hiện nay. Phân tích
thực trạng của pháp luật đối với lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại ở Việt
Nam, từ đó rút ra kết luận làm cơ sở cho việc đề ra những phương hướng và
giải pháp trong thời gian tới.
Cụ thể, nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật hướng tới việc giải quyết
việc phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước trong công
tác quản lý CTNH và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý
CTNH tại KCN; bổ sung các chế tài theo hướng tăng sức răn đe đối với hành
vi vi phạm về CTNH. Giải pháp được đưa ra dựa trên đánh giá thực tiễn môi
trường KCN hiện nay cũng như hiệu quả áp dụng các quy định hiện hành về
quản lý CTNH tại KCN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn bổ sung về mặt lý luận các khái niệm, đặc điểm, nội dung
và một số yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong
khu công nghiệp ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật trong lĩnh vực quản lý chất
thải nguy hại trong khu công nghiệp, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những
hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại trong khu
công nghiệp trong thời gian qua.

4


- Đề xuất phương án và giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của pháp luật
đối với việc quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về chất thải nguy hại và pháp luật về quản lý chất

thải nguy hại trong khu công nghiệp.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu
công nghiệp ở Việt Nam.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nguy hại và nâng
cao hiệu quả quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam.

5


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ PHÁP
LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI TRONG KHU CÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1.1 Tổng quan về chất thải nguy hại
1.1.1 Khái niệm chất thải nguy hại
Khái niệm về thuật ngữ “chất thải nguy hại” (Hazardous Waste) lần đầu
tiên xuất hiện vào thập niên 70 của thế kỷ trước tại các nước Âu - Mỹ, sau đó
mở rộng ra nhiều quốc gia khác. Sau quá trình phát triển về khoa học công
nghệ cũng như sự khác nhau trong quan điểm của mỗi quốc gia mà hiện nay
trên thế giới có nhiều khái niệm khác nhau về chất thải nguy hại. Cụ thể:
Chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc (12/1985) có định nghĩa:
ngoài chất thải phóng xạ và chất thải y tế, thì chất thải nguy hại là chất thải
(dạng rắn, lỏng, bán rắn – semisolid, và các bình chứa khí) mà do hoạt tính
hóa học, độc tính, nổ, ăn mòn hoặc các đặc tính khác, gây nguy hại hay có
khả năng gây nguy hại đến sức khỏe con người hoặc môi trường bởi chính
bản thân chúng hay khi được cho tiếp xúc với chất thải khác.
Luật môi trường Canada năm 1999 [21] quy định “Chất thải nguy hại
là những chất do bản chất và tính chất của chúng có khả năng gây nguy hại
đến sức khỏe con người/hoặc môi trường. Và những chất này yêu cầu các kỹ
thuật xử lý đặc biệt để loại bỏ hoặc giảm đặc tính nguy hại của nó”.
Luật RCRA (the Resource Conservation and Recovery Act 1976) của

Hoa Kỳ định nghĩa: chất thải (dạng rắn, lỏng, bán rắn – semisolid, và các bình
khí) có thể được coi là chất thải nguy hại khi đáp ứng các tiêu chí:
- Thuộc danh mục chất thải nguy hại do EPA đưa ra (gồm 4 danh sách);
- Có một trong bốn đặc tính (khi phân tích) do EPA đưa ra gồm: cháy –
nổ; ăn mòn; phản ứng và độc tính;

6


- Được chủ nguồn thải (hay nhà sản xuất) công bố là chất thải nguy hại.
Pháp luật môi trường Philipin đưa ra khái niệm: chất thải nguy hại là
những chất có độc tính, ăn mòn, gây kích thích, hoạt tính, có thể cháy, nổ mà
gây nguy hiểm cho con người và động vật.
Tại Việt Nam, khái niệm chất thải nguy hại lần đầu được đề cập trong
Quy chế quản lý chất thải nguy hại ban hành theo Quyết định 155/1999/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, trong đó định nghĩa tại Khoản 2 Điều 3 như sau:
“Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một
trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn
mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác), hoặc tương tác với các
chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người. Danh mục các
CTNH được ghi trong Phụ lục 1 kèm theo Quy chế này. Danh mục này do cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp trung ương quy định”.
Tới Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, khái niệm chất thải nguy hại
được rút gọn tại Khoản 13 Điều 3 như sau:
“13. Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây
nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác.”
Qua các định nghĩa trên, cho thấy sự đa dạng trong quan điểm xây
dựng khái niệm về chất thải nguy hại tại mỗi quốc gia, tuy nhiên tựu chung lại
gặp nhau ở các đặc tính của chất thải nguy hại (như cháy nổ; ăn mòn; độc
tính) và trạng thái của chất thải (rắn; lỏng; bán rắn; khí) cũng như tác hại nguy

hiểm của các chất thải này đối với con người.
Về đặc tính vật lý và nguồn gốc, cần lưu ý các chất thải nguy hại có thể
ở dạng khí, lỏng, rắn được thải ra từ các cơ sở công nghiệp trong các dòng thải:
khí thải, nước thải, rác thải, các chất độc hại có trong các sản phẩm sử dụng
trong sinh hoạt: xăng, dầu, ắc quy, chất tẩy, sơn, thuốc trừ sâu... do người dân
thải bỏ cùng với nước thải và rác thải gây ô nhiễm không khí, nước bề mặt,

7


nước ngầm, gây ô nhiễm đất, gây tích tụ sinh học, gây cháy nổ làm ảnh hưởng
nghiêm trọng tới môi trường sinh thái và gây nguy hiểm cho sức khoẻ cộng
đồng. Đặc biệt đối với chất thải nguy hại từ công nghiệp, các đặc tính này càng
trở nên quan trọng, là cơ sở để phân loại chất thải nguy hại cụ thể:
- Dễ nổ: Các chất thải ở thể rắn hoặc lỏng có thể nổ do kết quả của
phản ứng hóa học khi tiếp xúc với lửa hoặc do bị va đập, ma sát sẽ tạo ra các
loại khí ở nhiệt độ, áp suất và tốc độ gây thiệt hại cho môi trường xung quanh.
Chính vì dễ nổ nên chúng có thể gây tổn thương da, bỏng và thậm chí là tử
vong; phá hủy cô ng trình và thậm chí chết người.
- Dễ cháy: Chất thải lỏng có nhiệt độ bắt cháy thấp hơn 60 độ C, chất rắn
có khả năng tự bốc cháy hoặc phát lửa do bị ma sát, hấp thu độ ẩm, do thay đổi
hóa học tự phát trong các điều kiện bình thường, khí nén có thể cháy. Đặc tính
dễ cháy sẽ gây ra hỏa hoạn, bỏng, làm ô nhiễm không khí và nguồn nước.
- Ôxy hóa: Chất thải có khả năng nhanh chóng thực hiện phản ứng ôxy
hóa tỏa nhiệt mạnh khi tiếp xúc với các chất khác, có thể gây ra hoặc góp
phần đốt cháy các chất đó, sẽ gây ra cháy nổ, gây nhiễm độc nguồn nước và
không khí.
- Ăn mòn: Các chất hoặc hỗn hợp các chất có tính axít mạnh (pH bằng
2 hoặc nhỏ hơn 2), hoặc kiềm mạnh (pH bằng 12,5 hoặc lớn hơn 12,5). Việc
ăn mòn có thể gây cháy da, ảnh hưởng đến phổi và mắt, gây hư hại vật liệu

công trình.
- Có độc tính: Đầu tiên là độc tính cấp, các chất thải có thể gây tử
vong, tổn thương nghiêm trọng hoặc có hại cho sức khỏe qua đường ăn uống,
hô hấp hoặc qua da. Độc tính từ từ hoặc mạn tính, các chất thải có thể gây ra
các ảnh hưởng từ từ hoặc mạn tính, kể cả gây ung thư, do ăn phải, hít thở phải
hoặc ngấm qua da. Sinh khí độc, các chất thải chứa các thành phần mà khi

8


tiếp xúc với không khí hoặc với nước sẽ giải phóng ra khí độc, gây nguy hiểm
đến con người và sinh vật. Đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.
- Có độc tính sinh thái: Các chất thải có thể gây ra các tác hại nhanh
chóng hoặc từ từ đối với môi trường thông qua tích lũy sinh học và/hoặc gây
tác hại đến các hệ sinh vật.
- Dễ lây nhiễm: Chất thải nếu không được quản lý chặt chẽ, không đảm
bảo an toàn trong thu gom, lưu giữ, vận chuyển, xử lý thì các rủi ro, sự cố sẽ
gây hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến môi trường sống và sức khỏe
cộng đồng. Tùy thuộc vào đặc tính và bản chất của chất thải mà khi thải vào
môi trường sẽ gây nên các tác động khác nhau, lan truyền bệnh [26].
Theo Công ước Basel năm 1989 [48], chất thải nguy hại được phân làm
7 nhóm, với 236 danh mục hoá chất độc hại.
1.1.2 Sự cần thiết quản lý chất thải nguy hại
Sản xuất công nghiệp là nguồn phát sinh chất thải nguy hại chủ yếu và
chiếm hơn 80% khối lượng CTNH như các dung môi, hóa chất, sơn thải, bao
bì chứa hóa chất, dầu nhớt thải... Rác thải công nghiệp bao gồm nhiều chất
thải độc hại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Nếu không được xử lý,
chất thải độc hại sẽ ảnh hưởng vô cùng lớn đến sức khỏe con người. Ðộ độc
hại của các chất thải nguy hại rất khác nhau. Có chất gây nguy hiểm cho con
người như các chất cháy có điểm cháy thấp, các chất diệt côn trùng, các vật

liệu clo hoá phân huỷ chậm, có chất gây tác động nhỏ hơn nhưng khối lượng
của nó lại là vấn đề lớn như các chất thải hầm mỏ, xỉ, thạch cao phốt phát cũ
hoặc các sệt hydroxyt khác. Những chất thải có chứa những hoá chất không
tương hợp có thể gây nổ, bắt cháy. Tiếp xúc với axít hoặc kiềm mạnh gây
bỏng da. Da hấp thụ một số thuốc trừ sâu có thể gây ngộ độc cấp tính. Những
thùng, hòm chứa chất thải hoá chất nếu không được xử lý, để bừa bãi vào nơi
không được bảo vệ tốt có thể gây các tai nạn ngộ độc nghiêm trọng.

9


Các chất thải công nghiệp chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng
điểm, khu công nghiệp đô thị phát triển: Khoảng 80% trong số 2,6 triệu tấn
chất thải công nghiệp phát sinh mỗi năm là từ các trung tâm công nghiệp lớn
ở miền Bắc và miền Nam. 50% lượng chất thải công nghiệp của Việt Nam
phát sinh ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận và 30% phát sinh ở
các vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Thêm vào đó, gần 1.500
làng nghề mà chủ yếu là tập trung ở các vùng nông thôn miền Bắc, mỗi năm
phát sinh khoảng 774.000 tấn chất thải công nghiệp không nguy hại. Chất thải
nguy hại là mối hiểm hoạ ngày càng lớn. Nguồn phát sinh chất thải nguy hại
lớn nhất là các cơ sở công nghiệp (130.000 tấn/năm) và các bệnh viện (21.000
tấn/năm). Ngoài ra, nông nghiệp cũng là nguồn phát sinh chất thải nguy hại,
mỗi năm phát sinh khoảng 8.600 tấn các loại thuốc trừ sâu, bao bì và thùng
chứa thuốc trừ sâu và khoảng 37.000 tấn hoá chất tồn lưu bao gồm các loại
hóa chất nông nghiệp bị thu giữ và thuốc trừ sâu quá hạn sử dụng. Lượng chất
thải nguy hại phát sinh ở các vùng khác nhau khác biệt rõ rệt, đặc biệt là đối
với chất thải nguy hại phát sinh từ hoạt động công nghiệp. Lượng chất thải
công nghiệp nguy hại phát sinh từ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm
tới 75% tổng lượng chất thải công nghiệp nguy hại của cả nước. 27% tổng
lượng chất thải y tế nguy hại phát sinh từ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và

Thanh Hóa. Trong khi đó, chất thải nguy hại từ nông nghiệp chủ yếu phát
sinh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long [24].
Thực trạng môi trường của chất thải nguy hại đối với đời sống người
dân tại các khu vực nhiều khu công nghiệp cũng như những tác hại của môi
trường sinh thái; môi trường phát triển nông nghiệp đặt ra yêu cầu cần thiết
xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về quản lý chất thải nguy hại tại các
khu công nghiệp ở Việt Nam.

10


1.2 Khái niệm pháp luật quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp
1.2.1 Khái niệm khu công nghiệp và quản lý chất thải nguy hại trong khu
công nghiệp
Khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành và phát triển gắn liền
với công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế đất nước, xuất phát từ chủ trương
đúng đắn của Đảng, Chính phủ trong việc xây dựng một mô hình mang tính đột
phá trong thu hút đầu tư, tăng trưởng công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua quá trình xây dựng và phát
triển, khu công nghiệp, khu chế xuất đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn
của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Hàng năm, vốn đầ u tư trực tiế p nước ngoài (FDI)
vào khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm từ 35-40% tổng vốn đăng ký tăng
thêm của cả nước; riêng lĩnh vực công nghiệp chiếm gần 80%. Khu công
nghiệp, khu chế xuất cũng đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối
đồng bộ, có giá trị lâu dài, góp phần hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trên
cả nước. Ngoài ra, mô hình này còn đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng
ngành sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của
nền kinh tế; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương và cả
nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tạo ra giá trị sản xuất công

nghiệp 2 triệu USD/ha; giá trị xuất khẩu 1,27 triệu USD/ha; nộp ngân sách
khoảng 1,38 tỷ đồng/ha; tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch
xuất khẩu hàng năm đều cao hơn tốc độ của cả nước; giải quyết việc làm cho
hơn 1,7 triệu lao động, trung bình 77 lao động/ha đất công nghiệp; 65% tổng số
khu công nghiệp đã vận hành có nhà máy xử lý nước thải tập trung [8].
Khái niệm khu công nghiệp gắn liền với quá trình mở cửa kinh tế của
Việt Nam. Theo điều 2 - Quy chế Khu công nghiệp được Chính phủ thông
qua theo Nghị định số 192-CP ngày 28/12/1994 định nghĩa:

11


“Khu công nghiệp quy định trong Quy chế này là Khu công nghiệp tập
trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên
sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp,
không có dân cư sinh sống”.
Khái niệm này tiếp tục được kế thừa trong các văn bản pháp luật hiện
hành, trong đó có Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 quy định về
khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Theo đó:
“Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này”.
Theo Khoản 11 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 định nghĩa: Khu công
nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Như vậy, có thể ghi nhận, khu công nghiệp là một khu vực địa lý có
ranh giới cụ thể, mà ở đó các doanh nghiệp được tập trung lại theo một quy
hoạch hoàn chỉnh để chuyên sản xuất hàng công nghiệp và dịch vụ sản xuất
công nghiệp.
Trong những năm qua, các khu công nghiệp đã thể hiện được vai trò

quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đóng góp của khu công
nghiệp đã thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên
cạnh đó, một trong những vấn đề xã hội phát sinh khi các khu công nghiệp
phát triển đó là áp lực ô nhiễm môi trường. Trong đó ô nhiễm môi trường khu
công nghiệp biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau nhưng vấn đề nổi bật
nhất vẫn là ô nhiễm do nước thải, khí thải và chất rắn, chất thải lỏng và đặc
biệt là chất thải nguy hại.
Trên thế giới, việc quản lý chất thải nguy hại nói chung và chất thải
nguy hại trong KCN nói riêng đã hình thành và có những thay đổi mạnh mẽ

12


trong thập niên 60, trở thành một vấn đề môi trường được quan tâm hàng đầu
trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Điều này là hệ quả của các cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật và sự phát triển của kinh tế xã hội của các quốc gia trên
toàn cầu. Sự phát triển của các loại hình công nghiệp đã dẫn đến một lượng
lớn các chất thải nguy hại được thải ra môi trường, làm gia tăng những hậu
quả môi trường to lớn cho người dân.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 ghi nhận “Quản lý chất thải là quá
trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái
sử dụng, tái chế và xử lý chất thải”. Theo đó, nội dung quản lý chất thải nguy
hại phải là một phần trong tổng thể quy hoạch bảo vệ môi trường, cụ thể nhấn
mạnh các nội dung như: (1) Đánh giá, dự báo nguồn phát thải nguy hại và
lượng phát thải; (2) Khả năng thu gom, phân loại tại nguồn; (3) Khả năng tái
sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng; (4) Vị trí, quy mô điểm thu gom, tái
chế và xử lý; (5) Công nghệ xử lý chất thải nguy hại…
Trong đó, hoạt động quản lý chất thải, trong đó có chất thải nguy hại
bao gồm nhiều khâu như:
- Lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép xử lý chất thải nguy hại: Chủ nguồn thải

chất thải nguy hại phải lập hồ sơ về chất thải nguy hại và đăng ký với cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp tỉnh.
- Phân loại, thu gom, lưu giữ trước khi xử lý chất thải nguy hại: Chủ
nguồn thải chất thải nguy hại phải tổ chức phân loại, thu gom, lưu giữ và xử
lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; trường hợp chủ nguồn thải chất thải
nguy hại không có khả năng xử lý chất thải nguy hại đạt quy chuẩn kỹ thuật
môi trường phải chuyển giao cho cơ sở có giấy phép xử lý chất thải nguy hại.
- Vận chuyển chất thải nguy hại: Chất thải nguy hại phải được vận
chuyển bằng phương tiện, thiết bị chuyên dụng phù hợp và được ghi trong
giấy phép xử lý chất thải nguy hại.

13


- Xử lý chất thải nguy hại: chỉ các cơ sở đạt được đủ các điều kiện về
công nghệ, năng lực, quy trình an toàn và nhân sự mới được triển khai hoạt
động xử lý chất thải nguy hại theo quy định pháp luật.
Một hệ thống quản lý chất thải nguy hại thành công phải bao gồm 04
thành phần cơ bản:
Thứ nhất, Luật pháp: đây là thành phần cơ bản và quan trọng, đồng
thời là nền tảng chi phối các thành phần còn lại. Pháp luật là hệ thống các quy
tắc hành vi, quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận được nhà
nước đảm bảo thực hiện nhằm điểu chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình. Trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại,
luật pháp là cơ sở để thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước cũng như tuân
thủ các quy định chung trong xã hội.
Thứ hai, Triển khai và Cưỡng chế: nếu chỉ có khung pháp lý cho việc
quản lý thì chưa đủ mà cần có các quy chế, hướng dẫn ban hành kèm theo.
Khi triển khai cần có những giải pháp cưỡng chế thi hành Luật. Thực tế,
cưỡng chế thi hành luật hiện nay dựa trên các văn bản pháp luật cơ bản như:

Bộ luật hình sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật xử lý vi
phạm hành chính năm 2013…
Thứ ba, Phương tiện: để quản lý hiệu quả cần có các phương tiện phù
hợp để kiểm soát mức độ nguy hại của chất thải đối với con người, môi
trường. Phương tiện được hiểu là những cơ sở vật chất, nguồn lực khoa học
công nghệ, nguồn nhân lực… để thực hiện có hiệu quả hoạt động xử lý chất
thải nguy hại. Phương tiện phụ thuộc vào sự đầu tư của chủ nguồn thải; chủ
xử lý chất thải và sự hỗ trợ của nhà nước.
Thứ tư, Dịch vụ trợ giúp: muốn kiểm soát hiệu quả chất thải nguy hại
cần phải chuẩn bị một cơ sở hạ tầng và kỹ thuật đảm bảo, bao gồm các phòng
thí nghiệm; hệ thống thông tin kỹ thuật; tư vấn; đào tạo…

14


1.2.2 Khái niệm pháp luật quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp
Về lý luận, pháp luật là hệ thống các quy tắc hành vi, quy tắc xử sự do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Khái
niệm pháp luật được thể hiện rõ nét hơn bởi các khái niệm liên quan mà cốt
lõi nhất là các quy phạm pháp luật. Theo đó, Quy phạm pháp luật là những
quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các
quan hệ pháp luật phát sinh trong đời sống xã hội.
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đó là một hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến chất
thải nguy hại đối với cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường và với nhau
trong quy trình quản lý chất thải nguy hại nhằm bảo vệ môi trường và sức
khỏe cộng đồng.
Như vậy, pháp luật quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp là
tổng thể những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, thừa nhận nhằm

điều chỉnh nội dung và trình tự trong quy trình quản lý chất thải nguy hại với
giới hạn điều chỉnh là các khu công nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam.
Việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 được coi là một bước
quan trọng hoàn thiện pháp luật về hoạt động quản lý chất thải nguy hại trong
các khu công nghiệp ở Việt Nam. Theo đó, Luật đã bổ sung các quy phạm
pháp luật cụ thể trong lĩnh vực này như: bổ sung quy định mọi loại chất thải
phải được quản lý từ khi phát sinh, giảm thiểu, phân loại, thu gom, lưu giữ,
vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý; các tổ chức, cá nhân có các hoạt
động giảm thiểu phát thải, tái chế, tái sử dụng chất thải được hưởng chính
sách ưu đãi của Nhà nước; quy định trách nhiệm của các chủ đầu tư khu công
nghiệp, khu chế xuất trong quản lý chất thải; để khắc phục những mặt trái
trong quản lý chất thải nguy hại trong thời gian vừa qua, Luật đã đưa ra 6

15


nguyên tắc trong quản lý chất thải nguy hại; quy định bổ sung các điều kiện
hành nghề xử lý chất thải nguy hại…
1.2.3 Đặc điểm của pháp luật về quản lý CTNH và vai trò của pháp luật về
quản lý CTNH trong KCN
Pháp luật về quản lý CTNH trong KCN có những đặc điểm khác biệt so
với pháp luật về quản lý chất thải thông thường bởi vì pháp luật quản lý
CTNH trong KCN quy định rất chặt chẽ và chi tiết các điều kiện về quản lý
CTNH. Bao gồm các hoạt động mà chủ thể quản lý CTNH thực hiện. Từ việc
lập hồ sơ đăng ký với cơ quan Nhà nước về bảo vệ Môi trường đối với CTNH
đến việc thu gom, lưu trữ tạm thời đến các quy định về vận chuyển, xử lý
CTNH, quy định sau khi xử lý CTNH. Từ đó có thể thấy việc quản lý CTNH
có những đặc trưng khác biệt so với quản lý chất thải thông thường:
Thứ nhất quản lý CTNH đòi hỏi tập trung nguồn lực kĩ thuật và tài
chính lớn;

Thứ hai, quản lý CTNH là những hoạt động được thực hiện với quy
trình nghiêm ngặt và những đòi hỏi rất khắt khe;
Thứ ba, hoạt động quản lý CTNH là hoạt động đòi hỏi cao về chuyên
môn và là hoạt động đòi hỏi sự can thiệp mạnh tay và thường xuyên của Nhà
nước.
Từ những đặc điểm trên của pháp luật quản lý CTNH kể trên có thể
thấy được pháp luật quản lý CTNH trong KCN đóng vai trò đặc biệt quan
trọng:
Trước hết, với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý Nhà nước
đối với CTNH, pháp luật xác định địa vị pháp lý của các cá nhân, các tổ chức
kinh doanh có liên quan đến lĩnh vực CTNNH, tạo hành lang pháp lý để các
chủ thể này tham gia vào các quan hệ khai thác, sử dụng các thành phần môi
trường. Cũng thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý tạo

16


ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các hoạt động quản lý
CTNH trong phạm vi cả nước, cần kiểm soát tốt CTNH ngay từ nguồn thải.
Bên cạnh đó, pháp luật quản lý CTNH trong KCN với mục đích là bảo
vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng, thông qua vấn đề đặt ra các khung
pháp lý quy định trách nhiệm của cơ quan Nhà nước về môi trường. Pháp luật
quản lý CTNH đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước giúp
cho hoạt động quản lý Nhà nước đối với vấn đề này đạt hiệu quả cao, pháp
luật còn định hướng cho hành vi, xử xự của các chủ thể khi tham gia các hoạt
động liên quan đến CTNH trong KCN. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia
tăng số lượng chất thải nguy hại vào môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng
bất lợi của nó đối với sức khỏe con người và môi trường sống. Nhất là trong
xu thế hiện nay, với việc thành lập nhiều nhà máy, xí nghiệp, pháp luật về
quản lý CTNH đã góp phần đáng kể hạn chế các vi phạm về môi trường thông

qua các biện pháp cụ thể.
1.3. Nội dung pháp luật quản lý CTNH trong KCN và các nguyên tắc của
pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
Nội dung của pháp luật quản lý chất thải nguy hại trong KCN:
Pháp luật về quản lý CTNH đã đưa ra một quy trình triển khai và thực
hiện một cách lần lượt từ quy định đối với chủ nguồn thải CTNH đến quy
định về việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển đến việc xử lý CTNH trong KCN,
đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến CTNH,
cụ thể:
Về quản lý đối với chủ nguồn thải CTNH: Nghị định số 38/2015/NĐCP ngày 24/04/2015 hiện nay đã quy định việc quản lý của cơ quan nhà nước
đối với các chủ nguồn thải CTNH thông qua sổ đăng ký với Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh/TP trực thuộc trung ương. Thủ tục đăng ký chủ nguồn thải
được thực hiện một lần (không gia hạn, điều chỉnh) khi bắt đầu có hoạt động

17


phát sinh CTNH. Sau khi được cấp Sổ đăng ký chủ nguồn thải, thông tin về
chất thải được cập nhật bằng báo cáo quản lý CTNH định kỳ.
Chủ nguồn thải CTNH phải lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép và xử lý
CTNH (Điều 90, Luật Bảo vệ Môi trường 2014)
Bên cạnh trách nhiệm đăng ký Sổ chủ nguồn thải, thì chủ nguồn thải có
trách nhiệm định kỳ 06 tháng báo cáo về việc lưu giữ CTNH tại cơ sở phát sinh
với Sở Tài nguyên và Môi trường, đồng thời lưu trữ và quản lý chứng từ CTNH.
Về quản lý với tổ chức, cá nhân thu gom, vận chuyển CTNH: Hiện nay,
việc thu gom, vận chuyển CTNH chỉ được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân
có Giấy phép xử lý chất thải nguy hại. Để được cấp giấy phép này, đơn vị
phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường được Bộ Tài nguyên và môi
trường phê duyệt đối với dự án đầu tư cơ sở xử lý chất thải nguy hại. Đồng
thời, địa điểm của cơ sở phải nằm trong quy hoạch có nội dung về quản lý, xử

lý chất thải do cơ quan có thẩm quyền cấp tỉnh trở lên phê duyệt.
Cụ thể: Chủ nguồn thải CTNH phải tổ chức phân loại, thu gom, lưu giữ
và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; trường hợp chủ nguồn thải
CTNH không có khả năng xử lý CTNH đạt quy định kỹ thuật môi trường phải
chuyển giao cho cơ sở có cấp giấy phép xử lý CTNH (Điều 91, Luật Bảo vệ
Môi trường 2014)
Ngoài ra, để đi vào hoạt động, hệ thống, thiết bị xử lý, lưu chứa phải
đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, đội ngũ nhân sự đáp ứng yêu cầu: ít nhất 02 người
quản lý phải có chuyên môn; ít nhất 01 người quản lý có chuyên môn/01 trạm
trung chuyển. Quá trình hoạt động phải đảm bảo có phương án bảo vệ môi
trường, kế hoạch kiểm soát ô nhiễm và phục hồi môi trường.
Về quản lý với chủ xử lý CTNH: Chủ xử lý CTNH trước hết phải có
Giấy phép xử lý CTNH đồng thời ký hợp đồng thu gom, vận chuyển, xử lý
CTNH với các chủ nguồn thải CTNH. Hiện nay, quy định tại Nghị định số

18


×