Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT TẠI CỤC THUẾ TỈNH TRÀ VINH NĂM 2003 – 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.32 KB, 27 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT TẠI
CỤC THUẾ TỈNH TRÀ VINH NĂM 2003 – 2005
I. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỰC TẾ TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT
TẠI CỤC THUẾ TỈNH TRÀ VINH NĂM 2003 – 2005:
1. Phân tích Công tác quản lý đối tượng nộp thuế:
Theo quy định của Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thuế thì các đối tượng nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ sẽ do Cục Thuế trực tiếp quản lý thu thuế, còn đối
với các đối tượng là hộ kinh doanh cá thể nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp
sẽ do các Chi Cục Thuế trực tiếp quản lý thu thuế. Để thực hiện tốt công tác chỉ đạo
quản lý thu hộ cá thể, Tổng Cục Thuế quy định phòng dự toán và tổng hơp giúp Cục
Trưởng tổng hợp số liệu quản lý hộ cá thể của các huyện, thị.
Bảng 4: TỔNG HỢP ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ GTGT QUA 3 NĂM 2003 – 2005
Ở CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
Đơn vị tính: Doanh nghiệp
SỐ
TT
THÀNH
PHẦN KINH
TẾ
DOANH NGHIỆP
CHÊNH LỆCH
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2004/2003
Năm
2005/2004


Số % Số %
I DNNN TW 22 23 30
1 4,55 7 30,43
II DNNN Tỉnh 24 30 39
6 25,00 9 30,00
III DN NQD 357 536 705
179 50,14 169 31,53
1 DN tư nhân 253 366 493
113 44,66 127 34,70
2 Cty.TNHH 53 97 123
44 83,02 26 26,80
3 Cty cổ phần 4 20 32
16 400,00 12 60,00
4 HTX,Quỹ TD 47 53 57
6 12,77 4 7,55
IV Hộ cá thể 7.195 7.228 7.125 33 0,46 -103 -1,43
(Nguồn:Phòng dự toán và tổng hợp)
Qua bảng 4 ta thấy các đối tượng nộp thuế ở mọi thành phần kinh tế qua ba năm
đều tăng, riêng chỉ có thành phần kinh tế hộ kinh doanh cá thể là có số hộ tăng, giảm
qua các năm không đều nhau. Cụ thể từng thành phần kinh tế như sau:
1.1. Thành phần kinh tế DNNN TW: Số lượng các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế này tăng qua các năm cụ thể là: năm 2003 Cục Thuế quản lý 22 đối tượng
nộp thuế, sang 2004 tăng lên 1 đối tượng tương đương tăng 4,55% so với năm 2003,
đến năm 2005 tăng lên 7 đối tượng tương đương tăng 30,43% so với năm 2004.
Nguyên nhân của sự gia tăng này là do đơn vị này mở thêm chi nhánh ở các Huyện, Thị
xã .
1.2. Thành phần kinh tế DNNN địa phương: số lượng doanh nghiệp ở thành
phần kinh tế này tăng tương đối đều qua các năm: năm 2003 Cục Thuế quản lý thu thuế
đối với 24 đối tượng, sang năm 2004 là 30 đối tượng tăng 6 đối tượng tương đương
tăng 25% so với năm 2003, đến năm 2005 tăng lên 9 đối tuợng tương đương tăng 30%

so với năm 2004. Nguyên nhân của sự gia tăng này cũng là do các đơn vị này mở thêm
chi nhánh ỏ các Huyện, Thị xã ( cụ thể là mở thêm chi nhánh Công ty thủy sản ở huyện
Duyên Hải và Công ty Trà bắc….) cộng thêm việc thành lập một số doanh nghiệp theo
quyết định của UBND tỉnh.
Nhìn chung vì đây là thành phần kinh tế DNNN nên số doanh nghiệp nộp thuế tại
Cục Thuế rất phù hợp số đăng ký tại Sở kế hoạch đầu tư. Các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế này đều chấp hành đăng ký thuế để cấp mã số thuế đúng theo quy định.
Tất cả các doanh nghiệp các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh đều được Cục Thuế
quản lý chặt chẽ.
1.3. Thành phần kinh tế DNNQD: hàng năm số lượng doanh nghiệp này tặng
lên rất cao, cụ thể là: năm 2003 chỉ có 357 doanh nghiệp, sang năm 2004 lên đến 536
doanh nghiệp tăng về số tuyệt đối là 179 doanh nghiệp tương đương tăng 50,14% so
với năm 2003, qua năm 2005 tăng thêm 169 doanh nghiệp tương đương tăng 31,53% s
với năm 2004. Trong đó số tăng nhiều là doanh nghiệp tư nhân (một phần do một số hộ
kinh doanh ở các ngành nghề hoạt động kinh doanh thuận lợi nên chuyển lên thành lập
doanh nghiệp tư nhân), riêng công ty TNHH và công công ty cổ phần cũng có xu hướng
tăng lên. Theo thống kê của phòng dự toán và tổng hợp thì năm 1999 chỉ có 5 công ty
TNHH, chưa có công ty cổ phần thì đến năm 2005 đã có đến 123 công ty TNHH và 32
công ty cổ phần.
Riêng hợp tác xã và quỹ tín dụng cũng có xu hướng tăng: năm 2003 Cục Thuế
quản lý 32 hợp tác xã, 15 quỹ tín dụng, sang năm 2004 tăng lên 38 hợp tác xã (tăng
12,77% so với năm 2003), đến năm 2005 có đến 41 hợp tác xã và 16 quỹ tín dụng (tăng
7,57% so với 2004).
Nhìn chung sự gia tăng của các DNNQD qua các năm là do hiện nay kinh tế đất
nước ngày một phát triển, tình hình chính trị của đất nước ổn định, cơ sở hạ tầng và đời
sống nhân dân ngày một nâng cao, luật doanh nghiệp được sửa đổi ngày một thông
thoáng, cộng thêm nhiều chính sách ưu đãi của tỉnh nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp bỏ vốn đầu tư kinh doanh…. tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu
tư kinh doanh, phát triển ngày càng nhiều. Số lượng doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế DNNQD được Cục thuế quản lý chặt chẽ phù hợp với số doanh nghiệp đăng ký

tại Sở kế hoạch và đầu tư.
1.4. Thành phần kinh tế hộ kinh doanh cá thể:
Để thấy rõ hơn số hộ kinh doanh cá thể do các Chi Cục Thuế quản lý qua các năm, ta
lập bảng sau:
Bảng 5: TỔNG HỢP ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ GTGT KHU VƯC HỘ KINH
DOANH CÁ THỂ THEO ĐỊA BÀN HUYỆN, THỊ XÃ
Đơn vị tính: Hộ
Số
T
T
Địa Bàn
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
CHÊNH LỆCH
Năm
2004/2003
Năm
2005/2004
Số % Số %
1 Thị Xã Trà Vinh
1.863 1.939 1.996 76 4,08 57 2,94
2 Trà Cú
880 918 897 38 4,32 -21 -2,29
3 Cầu Ngang
595 568 723 -27 -4,54 155 27,29
4 Châu Thành

629 620 581 -9 -1,43 -39 -6,29
5 Duyên Hải
607 567 584 -40 -6,59 17 3,00
6 Tiểu Cần
775 896 912 121 15,61 16 1,79
7 Cầu Kè
742 643 630 -99 -13,34 -13 -2,02
8 Càng Long
1.104 1.076 1.602 -28 -2,55 526 48,88
Tổng cộng
7.195 7.228 7.125 33 0,46 -103 -1,43
(Nguồn: Phòng dự toán và tổng hợp)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy số hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh có xu
hướng tăng, giảm không ổn định và không đồng đều giữa các huyện, thị qua các năm.
Tuy năm 2004 số hộ có tăng lên 33 hộ tương đương tăng 0,46% so với năm 2003,
nhưng sang năm 2005 chỉ còn 7.125 hộ giảm 103 hộ tương đương giảm 1,43% so với
năm 2004, so với 2003 vẫn giảm gần 1%. Các huyện có số hộ tương đối giảm qua các
năm là: Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Cầu Kè, các huyện, thị còn lại có số hộ
tương đối tăng qua các năm. Nguyên nhân của sự tăng, giảm của các hộ là do một số hộ
được thành lập mới và một số hộ kinh doanh thuận lợi chuyển lên thành lập doanh
nghiệp, cũng như một số hộ kinh doanh (làm ăn) thua lỗ dẫn đến việc giải thể, phá
sản….
Theo thống kê của phòng dự toán và tổng hợp thì hàng năm số hộ mà các Chi
Cục quản lý thu thuế GTGT chỉ đạt khoảng 73% so với số hộ đã lập môn bài, còn so
với hộ đã được cấp mã số thuế thì chỉ đạt khoảng 64%. Nguyên nhân là do:
Số hộ đã lập môn bài nhưng có thu nhập thấp (dưới mức lương tối thiểu của
cán bộ công chức Nhà nước 290.000 đồng/ tháng năm 2003 và lên 350.000 đồng/ tháng
năm 2005) thuộc diện đối tượng không chịu thuế GTGT nên không lập bộ thu thuế
GTGT.
Số hộ lập bộ môn bài thấp hơn số hộ đã cấp mã số thuế và cấp đăng ký kinh

doanh là do cùng một hộ nhưng có nhiều giấy phép kinh doanh và nhiều mã số thuế (mã
số thuế cấp trùng); số hộ đã nghỉ kinh doanh qua các năm nhưng cơ quan dăng ký kinh
doanh không xóa danh sách làm chênh lệch rất lớn so với hộ đã quản lý thuế GTGT.
Một nguyên nhân quan trong khác là số hộ kinh doanh vãng lai, kinh doanh
thời vụ, sáng, tối có đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký cấp mã số thuế, cơ quan
thuế chỉ thu được thuế môn bài còn thuế GTGT thu được phản ánh lên bộ phụ không
đưa vào bộ chính thuế
Như vậy công tác quản lý đối tượng nộp thuế GTGT ở Cục Thuế tỉnh Trà Vinh
được thực hiện khá tốt, nhất là ở thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh, riêng
khu vực kinh tế hộ cá thể còn dấu hiệu bỏ sót hộ, do đó cần tăng cường các biện pháp
hơn nữa nhằm chống thất thu về hộ.
2. Phân tích công tác kiểm tra tờ khai thuế GTGT:
Theo quy định của luật thuế GTGT thì các đối tượng nộp thuế GTGT theo kê
khai từ số liệu trên sổ sách kế toán phải nộp tờ khai thuế GTGT hàng tháng chậm nhất
là không quá ngày 10 của tháng sau. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng đối tượng nộp thuế
nộp chậm tờ khai dẫn đến cơ quan thuế phải ấn định số thuế phải nộp. Tình hình kiểm
tra tờ khai thuế từ năm 2003 – 2005 tại Cục Thuế như sau:
2.1. Đối với thành phần kinh tế DNNN:
Khi thuế GTGT được áp dụng (năm 1999) thì tình hình kê khai thuế GTGT của
các DNNN đạt rất thấp so với thuế doanh thu 1998. Nhưng sau một số lần sửa đổi, đặc
biệt là lần sửa đổi bổ sung luật thuế GTGT năm 2003 và sự huớng dẫn, tuyên truyền
giáo dục về luật thuế thì tình hình kê khai thuế GTGT có nhiều tiến bộ cả về chấp hành
thời hạn nộp tờ khai và chất lượng của số liệu phản ánh trên tờ khai càng phù hợp với
tình hình kinh doanh của các đơn vị nộp thuế.
Ngoài ra DNNN cũng là thành phần kinh tế mà có số thuế kê khai âm cao nhất so
với các thành phần kinh tế khác, tập trung chủ yếu là các công ty thương mại có hàng
xuất khẩu (điển hình là: Công ty thủy sản, Công ty thương mại xuất nhập khẩu, Công ty
trà bắc). Do đó đòi hỏi Cục Thuế đặc biệt chú trọng đến những Công ty này để tạo điều
kiện cho việc thu nộp thuế và hoàn thuế được thuận lợi hơn.
2.2. Đối với thành phần kinh tế DNNQD:

Tình hình kê khai thuế GTGT qua 3 năm 2003 – 2005 của các DNNQN cũng chỉ
đạt khoảng 90% số doanh nghiệp phải kê khai. Chất lượng kê khai có nâng lên so với
các năm trước đây, song vẫn còn tình trạng khai dấu doanh số hoặc châm kê khai doanh
số, nhất là các ngành kinh doanh vàng bạc, xăng dầu, đối với các doanh nghiệp kinh
doanh ngành xay xát lương thực thường dấu doanh số gia công; đối với ngành kinh
doanh xe gắn máy thì thường ra hóa đơn thấp hơn giá thanh toán; một số doanh nghiệp
kinh doanh vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp chỉ kê khai doanh số bán chịu khi
được thu tiền, chỉ có các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủy sản là kê khai sát
đúng với tình hình kinh doanh.
(Nguồn: Bảng tổng kết thu ngân sách Nhà nước năm 2005 tại Cục Thuế tỉnh Trà Vinh)
2.3. Đối với khu vực hộ kinh doanh cá thể:
Theo quy định thì các hộ cá thể kinh doanh có quy mô tương đối lớn phải thực
hiện sổ sách kế toán để nộp thuế theo kê khai hàng tháng, cụ thể là những hộ có môn
bài bậc 1 và bậc 2 phải nộp thuế theo kê khai. Tuy nhiên tình hình kê khai thuế của các
hộ trên địa bàn huyện, thị xã còn gặp nhiều bất cập về chất lượng tờ khai cũng như về
công tác quản lý hộ kê khai: Có hộ kinh doanh phát triển đi lên, thực hiện kê khai thuế
GTGT hàng tháng nhưng số kê khai lại thấp hơn số mức thuế khoán trước đây và thấp
hơn hộ kinh doanh cùng ngành nghề nộp thuế khoán ổn định hàng tháng, việc kê khai
khống, kê khai dấu doanh số diễn ra thường xuyên.
3. Phân tích tình hình quản lý và thực hiện số sách, hóa đơn chứng từ:
Về phía Cục Thuế:
Đã tổ chức thực hiện tốt việc niêm yết công khai thủ tục mua bán hóa đơn tại cơ
quan thuế đúng theo chỉ đạo của Tổng Cục Thuế.
Thực hiện tốt công tác cấp phát, quản lý hóa đơn, ấn chỉ đúng theo quy trình quy
định của Tổng Cục Thuế; đồng thời hàng năm đều triển khai thực hiện công tác kiểm kê
hóa đơn của các đối tượng nộp thuế, các đơn vị sử dụng hóa đơn đúng theo định kỳ quy
định. Ngoài ra còn thực hiện kiểm kê đột xuất theo chỉ đạo của Tổng Cục Thuế.
Về phía đối tượng nộp thuế:
Đối với các DNNN nhìn chung đều thực hiện chế độ kế toán doanh nghiệp, tuy
nhiên việc chấp hành nguyên tắc về chế độ kế toán ở một số doanh nghiệp còn chưa

nghiêm cụ thể là việc hạch toán các khoản chi phí và bảng kê chứng từ đầu vào chưa sát
với thực tế kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ cá thể, việc sử dụng hóa đơn
bước đầu đa số các doanh nghiệp và hộ còn nhiều lung túng, song qua một thời gian sử
dụng đã quen dần và thực hiện cơ bản tốt chế độ hóa đơn, nhưng cũng gặp không ít
trường hợp vi phạm, chủ yếu là vi phạm về chế độ báo cáo hóa đơn chứng từ chưa đúng
theo quy định như: số liệu ghi trên hoá đơn GTGT giữa các liên không đồng nhất, thiếu
các dữ liệu cần thiết, ghi không rõ ràng như tên hàng hoá, tên khách hàng, mã số thuế
người mua, người bán.....Điều này đòi hỏi Cục Thuế phải kiểm tra, hướng dẫn đối
tượng nộp thuế chặt chẽ hơn nữa để tránh xảy ra những trưòng hợp vi phạm không
đáng kể.
Thể hiện qua biểu đồ sau:
0
50.000
100.000
150.000
Triệu
đồng
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
KH
TH
Hình 1: BIỂU ĐỒ THỰC HIỆN THU THUẾ GTGT SO VỚI KẾ HOẠCH
1.1. Đối với DNNN TW:
Số thuế GTGT thu từ DNNN TW hàng năm đều tăng cao hơn so với kế hoạch.
Tuy nhiên riêng năm 2005 mặc dù đã thành lập thêm 7 doanh nghiệp nhưng số nộp lại

giảm đi 14,24% so với kế hoạch nguyên nhân là do việc thay đổi cách phân bố thuế của
Bưu điện theo doanh thu nên đã làm giảm số thuế GTGT phải nộp tại tỉnh lúc đầu so
với dự toán, nhưng so với cùng kỳ năm 2004 vẫn tăng về số tuyệt đối là 1.607 triệu
tương đương tăng 8,7%. Điều đó chứng tỏ rằng số thu thuế GTGT từ Bưu điện hàng
năm chiếm phần rất lớn trong tổng số thu thuế GTGT từ DNNN TW. Ngoài ra còn có 2
đơn vị có số thuế GTGT nộp lớn đó là: Điện lực Trà Vinh, Công ty mía đường , số
doanh nghiệp còn lại có số nộp không đáng kể.
1.2. Đối với DNNN Tỉnh (địa phương):
Tuy số thu thuế GTGT đều tăng qua các năm nhưng số này đạt rất thấp, chỉ có
năm 2003 là thu được 5.944 triệu vượt kế hoạch 1,69% do năm này có một số hoạt
động khá tốt như Công ty cấp thoát nước, Công ty xây lắp láng, Công ty tư vấn xây
dựng tổng hợp, đặc biệt là Công ty xây dựng cơ bản trúng thầu nhiều công trình trọng
điểm của tỉnh. Hai năm 2004 và 2005 không hoàn thành kế hoạch giao, nhưng số thu
thuế GTGT ở năm 2005 so với cùng kỳ 2004 vẫn tăng 1.480 triệu tương đương tăng
31,36%. Điều này cần phải xem xét lại việc giao kế hoạch sao cho phù hợp với tiến độ
phát triển của thành phần kinh tế này, trong khi những năm tới có xu hướng là các
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này sẽ giảm do việc sáp nhập, cổ phần hóa để
giúp các doanh nghiệp này làm ăn hiệu quả hơn.
Trong số 15 doanh nghiệp trọng điểm có kế hoạch thu hàng năm thì có 6 doanh
nghiệp luôn hoàn thành kế hoạch là: Công ty xây lắp láng, công ty phát triển điện nông
thôn, Công ty tư vấn xây dựng tổng hợp, Công ty sách và thiết bị trường học, Công ty
du lịch, Công ty khai thác công trình thủy lợi. Các doanh nghiệp còn lại có số thu luôn
thấp hơn mức kế hoạch giao như là: Công ty dược và vật tư tế, Công ty Giống và Dịch
vụ kĩ thuật nông nghiệp, Công ty khai thác và dịch vụ thủy sản, Công ty thủy sản cửu
long, đặc biệt là công ty chế biến dừa chỉ hoàn thành được thuế môn bài. ( nguồn:
Phòng dự toán và tổng hợp)
1.3. Công ty xổ số kiến thiết:
Xổ số kiến thiết là nguồn thu có tính chất và đặc thù riêng trong khu vực kinh tế
quốc doanh. Do mới thành lập từ năm 1992 trên cơ sở tách ra từ Công ty xổ số kiến
thiết cửu long, chính vì vậy gặp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh vừa phải

tìm kiếm thị trường, vừa phải mở rộng mạng lưới đại lý, vừa phải củng cố tổ chức đi
vào hoạt động. Song từ năm 1992 đến nay doanh số phát hành, doanh thu tiêu thụ
không ngừng tăng lên qua các năm, tuy số thuế thu từ hoạt động này có năm không
hoàn thành kế hoạch giao ( cụ thể năm 2004 chỉ đạt 87,78% so với kế hoạch) nhưng số
nộp vẫn tăng qua các năm. Đây là đơn vị có số thuế GTGT nộp vào Ngân sách nhà
nước cao nhất trong tổng số thuế GTGT thu từ các thành phần kinh tế. Tuy nhiên đây là
hoạt động dịch vụ mang tính giải trí, nếu quá đặt nặng nguồn thu từ hoạt động này sẽ
không có cơ sở vững chắc so với nguồn thu từ hoạt động sản xuất và các dịch vụ khác.
1.4. Đối với DNNQD:
Số thu từ thuế GTGT từ năm 2003 – 2005 đều hoàn thành vượt múc kế hoạch
giao,cụ thể năm 2003 đạt 21.148 triệu tăng 37,06% so với kế hoạch, năm 2004 tiếp tục
tăng 53,82% so với kế hoạch, so với cùng kỳ 2003 tăng 12.924 triệu tương đương tăng
61,11%, sang năm 2005 tăng 35,75% so với kế hoạch, so với cùng kỳ 2004 tăng
49,13% . Số thu từ thành phần kinh tế DNNQD chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp
kinh doanh mặt hàng thủy sản, chế biến lương thực. Mặc dù trong những năm qua các
doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, nhất là giá cả của một
số nguyên liệu đầu vào tăng cao, dịch bệnh tôm, dịch cúm gia cầm tái phát… nhưng với
sự nổ lực phấn đấu của các doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất kinh doanh và
chấp hành nghĩa vụ nộp thuế nên số thuế GTGT thu từ các doanh nghiệp này trong 3
năm qua đạt khá cao.
Ngoài ra đạt được kết quả như nêu trên là do tình hình kinh doanh mặt hàng xe
gắn máy, điện tử, kinh doanh lúa gạo có bước phát triển khá, và việc mua sắm và tiêu
dùng của người dân trong 3 năm trở lại đây có xu hướng tăng cao. Bên cạnh đó còn do
mức độ giao kế hoạch quá thấp so với thực tế kinh doanh của các doanh nghiệp, vì vậy
cần phải xem xét lại nhằm đảm bảo mức kế hoạch phù hợp với thực tế hơn.
1.5. Hộ kinh doanh cá thể:
So với các thành phần kinh tế khác thì khu vực kinh doanh hộ cá thể có mức
hoàn thành kế hoạch rất thấp, thậm chí có năm không hoàn thành kế hoạch ( năm 2003
đạt 91,91% so kế hoạch), năm hoàn thành mức kế hoạch thu thuế GTGT cao nhất là
năm 2004 ( tăng hơn so với kế hoạch đề ra là 11,03%) và được xem là năm hoàn thành

kế hoạch thu thuế GTGT cao nhất từ năm 1992 đến nay.
Tuy nhiên số thu từ khu vực này thường không ổn định, song việc xét giao kế
hoạch đối với khu vực này hàng năm là rất khó do đây là khu vực do các Chi Cục Thuế
huyện, thị xã quản lý và đặc biệt là đa số cá hộ kinh doanh nhỏ lẻ, do đó việc thành lập,
giải thể, nghỉ kinh doanh là chuyện xảy ra thường xuyên, làm cho các Chi Cục Thuế rất
khó khăn trong việc quản lý vì vậy việc bỏ soát hộ trong quản lý thu thuế là khó tránh
khỏi, gây nên khó xác định chính xác được kế hoạch thu cho khu vực này.
2. Phân tích kết quả thu thuế GTGT theo địa bàn Huyện, Thị xã:
Để thấy rõ được số thuế GTGT thu theo địa bàn huyện, thị xã ở các hộ kinh
doanh cá thể do các Chi Cục Thuế trực thuộc quản lý ta lập bảng sau:

×