Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Xây Dựng Giai Cấp Công Nhân Tỉnh Vĩnh Long Trong Thời Kỳ Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hóa Hiện Đại Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

-----o0o-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN TỈNH VĨNH LONG
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN
ĐẠI HÓA – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giáo viên hướng dẫn:
Th.s: LÊ DUY SƠN

Sinh viên thực hiện:
Họ và tên: Nguyễn Thành Lâm

Chuyên ngành: SP GDCD
MSSV: 6075703

Cần Thơ, 04/2011


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian qua, được sự dìu dắt của thầy cô khoa Khoa học Chính trị tôi đã
tích góp được nhiều kiến thức bổ ích, tích cực rèn luyện nhân phẩm đạo đức trong mọi
hoạt động, bản thân đã từng bước trưởng thành và chắc chắn đây sẽ là hành trang quý
báu cho sự nghiệp của tôi sau này.
Tôi chân thành cảm ơn Lãnh đạo Khoa Khoa học Chính trị Trường Đại học Cần
Thơ. Tôi xin được gửi lời cảm ơn trân trọng và sâu sắc nhất đến thầy TS. GVC Lê Duy


Sơn người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài này. Bên cạnh đó tôi còn gửi lời cảm ơn đến thư viện Trường Đại học
Cần Thơ, thư viện tỉnh Cần Thơ, Liên đoàn lao động Vĩnh Long, thư viện Khoa khoa
học Chính trị, cùng thập thể lớp Sư phạm Giáo dục công dân Khóa 33 đã giúp tôi tìm
tài liệu để hoàn thành luận văn này.
Dù có nhiều cố gắng, xong luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót và
hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ và những ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy cô giáo và các bạn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn và chúc thầy cô trong Khoa Khoa học Chính trị luôn
thành công trong công việc, được vui vẽ, hạnh phúc trong cuộc sống.
Cần Thơ, ngày 29 tháng 10 năm 2010
Sinh viên

Nguyễn Thành Lâm


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ..................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn...................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn .................................................................... 3
5. Kết cấu luận văn ........................................................................................................ 3
B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ....... 4

1.2. Sự hình thành, đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam. ........................................................................................................................ 10
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH VĨNH LONG
2.1. Điều kện kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến đội ngũ công nhân tỉnh
Vĩnh Long…………………………………………………………………................ 2
2.2. Thực trạng đội ngũ công nhân Vĩnh Long trong giai đoạn hiện nay ................ 24
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH VĨNH LONG
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
3.1. Phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm
hình thành đội ngũ công nhân hiện đại ........................................................................... 39
3.2. Nâng cao trình độ học vấn, tay nghề và tác phong công nghiệp cho công
nhân ................................................................................................................................... 44
3.3. Giải quyết có hiệu quả các chính sách xã hội nhằm nâng cao đời sống và
giải quyết việc làm cho công nhân. ................................................................................. 52


3.4. Đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Đảng và tổ chức chính trị - xã hội trong
giai cấp công nhân ............................................................................................................ 60
C. KẾT LUẬN................................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 71


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong giai đoạn hiện nay, nhân dân ta đang tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân
dân lao động là chủ đất nước, mọi người được sống ấm no, hạnh phúc. Sự nghiệp đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan

trọng trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, trong đó lực lượng công nhân
là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng xã hội mới, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vĩnh Long là tỉnh với nền kinh tế chính là nông nghiệp, số lượng đội ngũ công
nhân nhỏ bé nhưng sớm được sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân Vĩnh Long đã
vượt qua những khó khăn gian khổ, kiên cường đấu tranh anh dũng góp phần cùng giai
cấp công nhân cả nước làm nên những thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
và địa phương, Vĩnh long cũng là một trong những đầu mối giao thông quan trọng của
vùng, hoà nhập vào công cuộc đổi mới của đất nước, cùng với cả nước, tỉnh Vĩnh Long đã
đạt được những thành tựu to lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đội ngũ công
nhân tỉnh Vĩnh Long là một bộ phận quan trọng, giữ vai trò nồng cốt, đi đầu trong sự
nghiệp đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở địa phương. Trong sự đổi
mới, đội ngũ công nhân tỉnh Vĩnh Long không ngừng lớn mạnh về số lượng và tỏ rõ sự
vững vàng về chính trị, ý thức được vai trò sứ mệnh lịch sử của mình, đã tiếp cận được
với công nghệ mới, nhạy cảm và ngày càng thích nghi với cơ chế mới, một bộ phận lớn
công nhân đã đảm đương được một số công việc có trình độ kỹ thuật cao, vượt mọi khó
khăn để học tập, rèn luyện nâng cao trình độ về nhiều mặt.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, đội ngũ công nhân tỉnh Vĩnh
Long cũng còn nhiều mặt hạn chế đó là: trình độ văn hoá và nghề nghiệp nhìn chung còn
thấp, chưa có tác phong công nghiệp, thậm chí có những lúc, những nơi đội ngũ công
nhân đó chưa thực sự được coi trọng đúng với tầm vóc của nó.


Trước yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi đội
ngũ công nhân của tỉnh Vĩnh Long phải có sự trưởng thành vượt bậc, phấn đấu khắc phục
những mặt yếu kém để đáp ứng được đòi hỏi khách quan của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Do đó, xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Vĩnh Long là việc làm có tính cấp bách, là một tất yếu,
như Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã chỉ rõ
“Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Mục đích: Phân tích tình hình đội ngũ công nhân tỉnh Vĩnh Long thời gian qua, từ
đó đề xuất những giải pháp nhằm góp phần xây dựng đội ngũ công nhân Vĩnh Long trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện những nhiệm
vụ cụ thể sau:
Một là, khái quát một số lý luận chung về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, coi đó là tiền đề là cơ sở lý luận cho việc xây dựng đội ngũ công
nhân tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hai là, làm rõ thực trạng của đội ngũ công nhân tỉnh Vĩnh Long.
Ba là, đề xuất những giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng, phát triển đội ngũ
công nhân Vĩnh Long trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu giai cấp công nhân tỉnh Vĩnh Long
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Trong quá trình tìm hểu, nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng và kết hợp các phương
pháp như: Phương pháp lôgic và lịch sử, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp,
phương pháp điều tra xã hội học để làm sáng tỏ mục đích, nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. Kết cấu luận văn:
2


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3
chương, 8 tiết.


3


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
GIAI CẤP CÔNG NHÂN.

1.1. Khái niệm giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân.
Để hiểu rõ vai trò giai cấp công nhân Việt Nam, trước hết cần phải hiểu rõ giai cấp
công nhân là gì. Vấn đề này được chính Mác đã nên rõ: “Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản
thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm
gì về mặt lịch sử” [5, tr150].
Cũng như các sự vật, hiện tượng xã hội, giai cấp công nhân là con đẻ của mọi hoàn
cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự tiến triển của lịch sử, giai cấp công nhân cũng luôn
luôn phát triển với những biều hiện và đặc trưng mới. C. Mác và Ph. Ăngghen đã dùng
nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về người công nhân trong quá trình phát triển lịch sử
của giai cấp công nhân như: “giai cấp công nhân”, “giai cấp vô sản”, ‘giai cấp lao động”,
“giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp công nhân hiện đại”, “giai cấp công nhân công
xưởng, nhà máy”, “giai cấp công nhân đại cơ khí” và nhiều thuật ngữ khác nữa. Ngoài ra
trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các ông còn sử dụng một số hình thức diễn đạt khác
như: “lao động làm thuê”, “giai cấp xã hội hoàn toàn không có của”, “giai cấp công nhân
làm thuê thế kỷ XIX”… Những thuật ngữ có nội dung hẹp để chỉ các loại công nhân trong
các ngành nghề khác nhau là: công nhân nông nghiệp, công nhân công nghiệp, công nhân
cơ khí… Những thuật ngữ để chỉ người công nhân ở các giai đoạn phát triển khác nhau
của công nghiệp là: công nhân thủ công, công nhân trường thủ công, công nhân hiện đại.
Sự khác nhau căn bản là sự khác nhau giữa những công nhân thực sự đừng máy
móc công tác (thuộc về những người này có một số công nhân trong coi máy móc phát

động, nghĩa là cho nó ăn than, dầu) và những người giúp việc (hầu hết là trẻ em) cho
những công nhân cơ khí đó. Bên cạnh những loại thợ chính đó còn có những người, với
số lượng không đáng kể, làm công việc kiểm tra toàn bộ máy móc và thường xuyên sửa
chữa máy móc như kỹ sư, thợ máy, thợ mộc… Đó là công nhân cao cấp, một phần thì có
4


tri thức khoa học, một phần thì có tính chất thủ công, đứng ngoài giới công nhân công
xưởng và chỉ được kết hợp với những công nhân này thôi. Sự phân công lao động đó có
tính chất thuần túy kỹ thuật [3, tr 602]
C. Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên vận dụng chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật vào nghiên cứu lịch sử phát triển của xã
hội loài người nói chung, của phương thức sản xuất tư bản và giai cấp công nhân nói
riêng. Khi nghiên cứu sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã chỉ rõ nguồn gốc ra đời của giai cấp công nhân: giai cấp công nhân là do
cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra và phát triển cùng với sự phát triển của nền đại
công nghiệp. Về sự phát triển của giai cấp trong xã hội, theo C. Mác và Ph. Ăngghen thì
trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản chỉ có giai cấp vô sản là giai
cấp thật sự cách mạng, tất cả “các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản là là sản phẩm của bản thân nền công
nghiệp”[4, tr.610].
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, bản chất tiên phong, cách mạng của giai cấp vô sản
không phải là do giai cấp này nghèo khổ mà có, mà do cuộc cách mạng công nghiệp sinh
ra, phát triển cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và được nền đại công nghiệp
rèn luyện. Giai cấp vô sản có lợi ích đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản: là giai
cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, đại diện cho tính chất xã hội hoá sâu sắc của
lực lượng sản xuất.
Trong tác phẩm; “Góp phần phê phán triết học pháp quyền” của Hêghen – Mác
nói rằng: “ở Đức, giai cấp vô sản chỉ mới bắt đầu hình thành nhờ sự phát triển của công
nghiệp. Như vậy, giai cấp vô sản ra đời gắn liền với công nghiệp, nó là sản phẩm của

công nghiệp. Về mặt xã hội, giai cấp vô sản được sinh ra và đang hình thành nên trong
qua trình tan rã của xã hội; do sự giải thể của các đẳng cấp trong xã hội, trước hết là
đẳng cấp trung gian. Xu hướng phát triển của giai cấp vô sản là đi tới chỗ xoá bỏ nó với
tư cách là một giai cấp” [5 , tr 35].
Trong tác phẩm: “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh”, Ăngghen đã khẳng định
rằng, nước Anh là nơi điển hình của sự phát triển của giai cấp vô sản.

5


Giai cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh. Lịch
sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nữa sau thế kỷ XVIII, và công nghiệp nhỏ làm nảy
sinh ra giai cấp tư sản, công nghiệp lớn làm nảy sinh ra giai cấp công nhân. Công nhân
công nghiệp là hạt nhân của phong trào công nhân. Họ là những người nhận thức được rõ
ràng nhất những lợi ích của bản thân mình “Vì trình độ văn hoá của các loại công nhân
liên quan trực tiếp với mối quan hệ của họ với công nghiệp.” [6, tr 252].
Đến tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, Mác và Ăngghen đã trình bày
khái niệm “Giai cấp vô sản” tương đối đầy đủ trên các phương diện khác nhau như: là
giai cấp ra đời gắn liền với đại công nghiệp, là sản phẩm chính của nền đại công nghiệp.
Giai cấp được tuyển mộ trong tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội. Là giai cấp, không có tư
liệu sản xuất, đối lập với giai cấp tư sản, làm thuê cho nhà tư bản, tạo ra giá trị thặng dư
cho nhà tư bản, bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề, có tinh thần quốc tế vô sản, đoàn kết,
có tính tổ chức kỷ luật cao. Là giai cấp, không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng
cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp.
Tất cả những diễn đạt nêu trên về khái niệm giai cấp công nhân của các nhà kinh
điển được đặt trong hoàn cảnh lịch sử từ nữa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, trên cơ
sở đó C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa vào hai tiêu chí để phân định giai cấp công nhân với
các giai tầng xã hội khác:
Thứ nhất, về phương thức lao động, cách thức sản xuất: giai cấp công nhân là
những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản

xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá, quốc tế hoá cao. Đây
cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công trung
cổ hay người thợ trong công trường thủ công. C. Mác viết: “Trong công trường thủ công
và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong các công
xưởng thì người công nhân phải phục tùng máy móc”. Đối với C. Mác và Ăngghen, giai
cấp công nhân là tập đoàn người, bao gồm những công nhân công xưởng, là sản phẩm của
nền đại công nghiệp và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp: “các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai
cấp vô sản là là sản phẩm của bản thân nền công nghiệp” [4, tr.610], “ Công nhân cũng
là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy…. Công nhân Anh là đứa con
6


đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại…”. Là sản phẩm của đại công nghiệp, nên giai
cấp công nhân là hiện thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, đại biểu cho phương
thức sản xuất tiên tiến, do đó nó có những phẩm chất riêng mà không giai tầng nào có
được. Đó là, tính tiên tiến, hiện đại; ý thức tổ chức kỹ luật cao, tác phong công nghiệp,
tinh thần khoa học và thái độ cách mạng triệt để; tinh thần quốc tế cao cả và trong sáng…
Thứ hai, Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Giai cấp công nhân –
giai cấp những người làm thuê thế kỷ XIX, do không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao
động, làm thuê cho nhà tư bản và bị tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Chính vì vậy, C. Mác
và Ăngghen đã gọi giai cấp công nhân là: giai cấp vô sản. Và, cũng vì điều này mà khiến
cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: “Giai cấp tư sản,
tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại, tức là giai cấp
chỉ có thể kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng
thêm tư bản cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải bán mình để kiếm ăn
từng bữa một, là một hàng hoá, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào
khác, Vì thế, họ phải chịu hết mọi sự mai rũi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị
trường..”
Căn cứ vào hai tiêu chí trên, trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng

sản, Ph.Ăngghen đã dưa ra định nghĩa về giai cấp vô sản: “Giai cấp vô sản là một giai
cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải
sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau
khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống của họ đều phục thuộc vào số cầu về lao động, tức là
vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của
cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp của
những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX…” [4,tr.605,456].
Phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen, trong thời đại mới – thời đại đế
quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, đặc biệt trong chủ nghĩa xã hội hiện thực, trên cơ sở
quan niệm đúng và mới về giai cấp công nhân. V.I.Lênin đã bổ sung thêm những thuộc
tính mới của giai cấp công nhân. Theo V.I.Lênin, sự phân chia giai cấp phải dựa vào địa
vị vào sự khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu
sản xuất, sự khác nhau trong quan hệ đối với quản lý sản xuất và khác nhau trong phân
7


phối sản phẩm. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, V.I.Lênin đã dưa ra định nghĩa nổi
tiếng về giai cấp, làm tiêu chuẩn để phân chia cơ cấu giai cấp – xã hội, trên cơ sở đó có sự
nhận thức đúng về giai cấp công nhân: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn
gồn những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường những quan hệ này được pháp luật
quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chúc lao
động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có
thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chổ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”.
Trên cơ sở quan niệm mới về giai cấp, V.I.Lênin đã khẳng định: sau khi cách mạng
vô sản thành công, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, địa vị kinh tế - xã
hội của giai cấp công nhân đã hoàn toàn thay đổi, từ thân phận nô lệ làm thuê trở thành
giai cấp thống trị về chính trị, thông qua đảng tiên phong của mình lãnh đạo toàn xã hội

cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Giai cấp công nhân không còn là giai cấp vô sản
theo đúng nghĩa đen của nó. Theo V.I.Lênin, giai cấp công nhân là giai cấp thống trị về
chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự
nghiệp sáng tạo ra xã hội mới. Giờ đây, khi lịch sử đã thay đổi, để hiểu đúng quan niệm
của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân, đòi hỏi chúng ta cần có thái độ khách
quan và phương pháp khoa học để tiếp cận khái niệm này.
Ngày nay, chủ nghĩa xã hội cũng như chủ nghĩa tư bản có những biến đổi sâu sắc,
làm cho giai cấp công nhân trong quá trình vận động, có những bước phát triển rất quan
trọng và có thêm những đặc trưng mới.
Hiện nay, ở các nước xã hội chủ nghĩa, hoặc ở các nước đang trên con đường phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm
quyền và làm chủ sở hữu đích thực các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, thì khái niệm
giai cấp vô sản theo đúng nghĩa đen của nó từ đó cũng hoàn toàn không còn nữa. Tuy
nhiên, giai cấp công nhân ở các nước này vẫn là một bộ phận của giai cấp vô sản (giai cấp
công nhân) toàn thế giới. Giai cấp có sứ mệnh xoá bỏ tình cảnh vô sản, nô lệ của mình và

8


trở thành giai cấp có địa vị làm chủ để tiến tới thủ tiêu chính mình với tư cách là một giai
cấp. Đây là xu thế không gì cưỡng nổi.
Và do đó, các nước tư bản chủ nghĩa cũng như các nước đang phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa hiện nay, trên thực tế cũng không còn giai cấp vô sản như quan
niệm ở thế kỷ XIX nữa, cả về tài sản, mức sống, điều kiện sống, ở trình độ học vấn và
trình độ văn hoá nói chung. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, giai cấp công
nhân có xu hướng “trí thức hoá” và xu hướng tiếp thu số lượng ngày càng lớn đội ngũ trí
thức vào hàng ngũ công nhân để hình thành nên đội ngũ công nhân trí thức.
1.1.2. Khái niệm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Trước những bất công xã hội, trước tình trạng bị áp bức bóc lột, và đời sống khốn
cùng của nhân dân lao động trong xã hội đương thời, các nhà không tưởng đã ước mơ một

xã hội không áp bức bóc lột và bất công, trong đó mọi người điều được sống bình đẳng,
hạnh phúc trong tình anh em giữa con người với con người đó là xã hội cộng sản. Nhưng
những bức tranh về xã hội tương lai mà họ đã khắc họa là không tưởng. Bởi lẽ, lúc ấy họ
không thấy được những điều kiện vật chất và những lực lượng sản xuất đảm bảo cho xã
hội như vậy ra đời.
Chủ nghĩa Mác với hai phát hiện vĩ đại là quan niệm duy vật về lịch sử và học
thuyết giá trị thặng dư đã chững minh một cách khoa học rằng, với sự ra đời phát triển
của chủ nghĩa tư bản, những điều kiện vật chất đó và lực lượng xã hội được tạo ra. Đó là
nền sản xuất đại công nghiệp bảo đảm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển đến một
trình độ hết sức cao khiến cho xã hội loài người có thể và tất yếu chuyển lên xã hội cộng
sản văn minh. Gắn liền với điều kiện vật chất ấy, một lực lượng xã hội cũng đã hình thành
và phát triển, có sứ mệnh xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa để tiến lên xã hội cộng sản, đó chính là giai cấp công nhân.
Học thuyết của C.Mác và Ăngghen về sứ mệnh của giai cấp công nhân là luận
chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp đó, về những mục
tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết ấy
chứng minh rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều
kiện kinh tế xã hội khách quan, nghĩa là do sự vận động nội tại của những mâu thuẫn cơ
bản trong lòng xã hội tư bản, do yêu cầu của sự phát triển sản xuất chứ không phải do ý
9


muốn chủ quan của giai cấp công nhân. C.Mác và Ăngghen viết: “sự phát triển của đại
công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản
phẩm của nó bị sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết giai cấp tư sản sinh ra những
người đào nguyệt chôn chính mình. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai
cấp vô sản là điều tất yếu như nhau” [4, tr.393].
Giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có khả
năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến cách mạng từ
hình tahí kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải

phóng nhân loại khỏi áp bức bất công và mọi hình thức bốc lột. Nói cách khác, nội dung
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ
người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, toàn thể nhân
loại khỏi mọi áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng chủ nghĩa xã hội văn minh.
Ph.Ăngghen đã viết: “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân hiện đại” [4, tr.393].
Nội dung về vai trò của giai cấp công nhân, đây là nội dung cơ bản và thiết thực
nhất, phức tạp và lâu dài nhất, không thể thực hiện một cách nóng vội giản đơn. Vì xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là quá trình cách mạng phấn đấu lâu dài, liên
tục để từng bước hình thành xã hội hoàn toàn mới về chất như: chế độ tư hữu vè tư liệu
sản xuất, chế độ thực sự là giai cấp công nhân lao động, chế độ có sự phát triển cao nhất
về kinh tế, chính trị , văn hoá, xã hội, con người… là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh. Giai cấp công nhân là hạt nhân đoàn kết dân tộc, đoàn kết
và hợp tác quốc tế cùng phát triển, đồng thời luôn đấu tranh chống mọi thế lực cản trở sự
nghiệp cách mạng xã hôi chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
1.2. Giai cấp công nhân Việt Nam.
1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành giai cấp công nhân Việt Nam.
Cuối thế kỉ XIX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân
Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch khai thác thuộc địa bóc lột sức người sức của ở Việt
Nam.
Công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất được thực dân Pháp bắt đầu từ năm
1897 đến 1913. Trong khoảng thời gian này chúng tập trung một số ngành chủ yếu như
10


đường sắt, hầm mỏ, một số xí nghiệp và đồn điền. Từ đó hình thành khối công nhân của
một số ngành: đường sắt gần 1 vạn (1912), hầm mỏ: 1,65 vạn (1911) trong đó 50% là
công nhân mỏ than. Khối lượng công nhân nhà máy riêng ở Bắc Kỳ là 2,2 vạn (năm
1909) và một số khối lượng công nhân đồn điền không ổn định. Đến trước chiến tranh thế
giới thứ nhất tổng số công nhân nước ta mới chỉ có 10 vạn người.

Như vậy, do sự đầu tư vốn và công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn
tới kết quả khách quan là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chủ yếu là phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa của thực dân Pháp đã ra đời ở Việt Nam.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, thực dân Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa lần thứ hai nhằm tăng cường khai thác, vơ vét, bóc lột nhân dân thuộc địa (để bù
đáp vào những tổn thất chiến tranh, chỉ riêng thời gian từ năm 1924 đến năm 1929 số vốn
của tư bản tư nhân Pháp để vào Đông Dương đã tăng từ 3 đến 4 tỷ Frăng vàng. Sự đầu tư
của thực dân Pháp đã thúc đẩy một số ngành công nghiệp phát triển, nhất là các ngành
khai khoáng, giao thông vận tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt… Công nghiệp phát
triển, dân số ở các thành phố các khu công nghiệp tăng lên: Hà Nội năm 1918 có 7 vạn
người, năm 1928 tăng lên 13 vạn người; Hải Phòng năm1893 có 1,5 vạn người đến năm
1928 có 10 vạn người; Nam Định 1911 có gần 1 vạn người đến năm 1928 có 3,8 vạn
người. Cùng với sự đầu tư của thực dân Pháp số lượng công nhân cũng tăng lên nhiều,
công nhân các mỏ và đồn điền nhiều nơi tập trung hàng vạn người, ở các thành phố nhiều
xí nghiệp đã có trên 1.000 công nhân như xi măng (Hải Phòng), dệt (Nam Định), khu mỏ
Hòn Gai – Đông Triều.
Đến cuối năm 1929, tổng số công nhân làm trong các doanh nghiệp tư bản thực
dân Pháp là hơn 22 vạn người, chiếm 1,2% dân số, trong đó có 5,3 thợ mỏ, 8,6 vạn công
nhân các ngành công thương nghiệp, 8,1 vạn công nhân các đồn điền trồng cây công
nghiệp. Đó là chưa kể đến các loại công nhân lẻ tẻ, những người làm ở xí nghiệp thủ công
lớn nhỏ, những loại thợ may, thợ cạo, thợ giặt, bồi bếp, khuân vác ở Hải cảng.
Tóm lại, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất và trưởng thành nhanh chóng qua đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dận
Pháp.
1.2.2. Những đặc điểm và sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam.
11


Vận dụng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nói chung để tìm hiểu về giai
cấp công nhân Việt Nam và sứ mệnh lịch sử của nó là một điều có ý nghĩa thực tiễn to

lớn.
Về đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam.
Do đặc điểm hình thành của mình, giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc
điểm riêng. Những đặc điểm ấy quy định những mặt mạnh và những hạn chế của giai cấp
công nhân Việt Nam, đồng thời cũng cắt nghĩa vì sao giai cấp công nhân nước ta tuy còn
tương đối non trẻ, chưa phát triển về số lượng, trình độ nghề nghiệp và một số mặt về chất
lượng còn hạn chế, nhưng vẫn giữ vị trí lãnh đạo trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam, mà giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời, lao động chủ yếu trong bốn ngành được biểu hiện như sau:
hầm mỏ, đồn điền, giao thông và công nghiệp thành phố, giai cấp công nhân đã ra đời
trước giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân
Pháp, là một chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy phát triển một nền công
nghiệp ở nước thuộc địa, chính vì vậy mà giai cấp công nhân phát triển chậm, số lượng rất
ít, chỉ chiếm khoảng 12% dân số. Mặc dù giai cấp công nhân Việt Nam có số lượng rất ít,
trình độ nghề nghiệp chưa cao, còn mang nhiều tàn dư của tâm lí và tập quán nông thôn,
giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chống vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách
mạng nước ta. Bởi vì, ngoài những đặc điểm chung của công nhân thế giới, giai cấp công
nhân Việt Nam do những điều kiện cụ thể của đất nước nên có những đặc điểm riêng đó
là:
Nước Việt Nam trước đây là một nước thuộc địa nữa phong kiến, đặc biệt là
thuộc địa của tư bản Pháp là bọn tư bản chỉ vơ vét của cải nước ta đưa về “mẫu quốc” chứ
không mở mang kinh doanh ngay ở thuộc địa. Phần lớn quặng sắt, thiết, than… của nước
ta khai thác được chúng điều đưa về Pháp, ngoài ra thực dân Pháp còn bắt dân ta trồng
cao su để lấy nhựa đưa về Pháp làm các thứ hàng rồi đem sang bán đắt cho ta. Do chính
sách khai thác bóc lột thuộc địa thậm tệ như vậy nên nước ta xơ xác, dân nghèo khổ, cho
nên nông nghiệp lạc hậu, còn công nghiệp thì thực dân Pháp chỉ mở mang một số ngành
rất cần thiết để phụ vụ cho việc bóc lột của chúng, như ngành đường sắt và một số xưởng
12



sữa chửa máy móc, một số nhà máy điện nhỏ… với việc khai thác của thực dân Pháp làm
cho nền sản xuất lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, đa số dân cư là nông dân. Song do
giai cấp công nhân Việt Nam ra đời vào lúc phong trào cộng sản và phong trào công nhân
quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, được ảnh hưởng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga
và cách mạng Trung Quốc, không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội, hữu khuynh trong
quan hệ quốc tế II và được tác động tích cực của quốc tế công sản nên giai cấp công nhân
Việt Nam dễ tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, sớm biết gắn liền vấn đề dân tộc với chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Giai cấp công nhân Việt Nam từ khi có chính Đảng của mình cho
đến nay vẫn giữ được truyền thống cách mạng thống nhất về tư tưởng và tổ chức trong
phạm vi toàn quốc.
Giai cấp công nhân Việt Nam sinh trưởng trong lòng một dân tộc có truyền thống
đấu tranh chống ngoại xâm. Cũng như nông dân, giai cấp công nhân có hai mối thù sâu
sắc đối với đế quốc, thực dân: mối thù dân tộc do bị áp bức và mối thù giai cấp do bị bóc
lột nặng nề. Vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam có tinh thần triệt để cách mạng.
Nét điển hình nhất và cũng là yếu tố rất cơ bản tạo nên sức mạnh của giai cấp công
nhân Việt Nam, nhân sức mạnh của nó lên là ở chổ, từ khi ra đời đến nay, giai cấp công
nhân có mối quan hệ gắn bó mật thiết với dân tộc, số phận, lợi ích của nó ngay từ đầu đã
gắn bó với số phận và lợi ích dân tộc, ý thức giai cấp và ý thức dân tộc hoà quyện vào
nhau, lòng yêu nước quyện chặt với yêu Chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp giải phóng giai cấp
công nhân gắn bó hữu cơ với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân thống nhất với lợi ích cơ bản của dân tộc. Vì thế, ngày từ đầu giai cấp công
nhân việt Nam đã là đại biểu cho lợi ích của dân tộc. Và do vậy, vai trò lãnh đạo của nó
đã được cả dân tộc thừa nhận.
Giai cấp công nhân Việt Nam, do nguồn gốc xuất thân của nó đã sẵn có mối liên
hệ tự nhiên, máu thịt với giai cấp nông dân, với tầng lớp trí thức và nhân dân lao động.
Đó là cơ sở tình cảm, là yếu tố thuận lợi để xây dựng khối liên minh công – nông – trí
thức và khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là điều kiện thuận lợi, là cơ sở xã hội vững chắc
đảm bảo cho vị trí lãnh đạo trong sự nghiệp cách mạng giành, giữ chính quyền và xây
dựng xã hội mới.


13


Ra đời tuy có muộn so với giai cấp công nhân các nước công nghiệp phát triển, số
lượng lúc đầu còn nhỏ bé, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm tỏ ra là một đội
ngũ kiên cường trong quá trình đấu tranh cách mạng vì độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội. Do đó, nó chẵng những tập hợp lôi cuốn được cả dân tộc theo mình, mà còn tạo ra
được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân loại tiến bộ, của các lực lượng chống
đế quốc, thực dân, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, trong
nước và quốc tế tạo ra sức mạnh tổng hợp nhân lên sức mạnh của giai cấp và dân tộc
trong quá trình đấu tranh cách mạng. Và do vậy, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
được hình thành thực tế trong lịch sử, được quần chúng nhân dân thừa nhận, chứ không
phải là sự gán ghép chủ quan của mình.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế, do
vậy, nó mang những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân quốc tế và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân Việt Nam có lãnh tụ sáng suốt, vĩ đại
vừa là lãnh tụ của giai cấp, vừa là lãnh tụ của dân tộc – Hồ Chí Minh – vạch đường chỉ
lối, giáo dục, rèn luyện. Người là hiện thân và đại biểu tập trung được ý trí, tình cảm và trí
tuệ của dân tộc. Người đã sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa vào nước ta. Người
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua chính đảng của mình, giai cấp công nhân
bước lên đài vũ trang chính trị giành quyền lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong
khi nhiều cương lĩnh của các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác bị phá sản. Ngay từ đầu,
chính đảng của giai cấp công nhân đã biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đề ra cương lĩnh cứu nước đúng đắn cho dân tộc, chỉ rõ
con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc – con đường kết hợp độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội. Do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam đã đóng được vai trò tiên
phong, giành được chính quyền là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng việt Nam trong
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Hơn 70 năm qua trên thực tế Đảng Cộng sản Việt Nam đã độc quyền lãnh đạo cách mạng

nước ta.
Lịch sử Việt Nam cũng đã chứng minh rằng, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời
chưa được bao lâu ngay cả khi nó chưa có Đảng mà đã tổ chức một cách tự phát nhiều
cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và được nhân dân ủng hộ như: Cuộc bãi công
14


của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (1922) mà Nguyễn Ái Quốc coi đó mới chỉ là “do bản
năng tự vệ” của người của công nhân “không được giáo dục và tổ chức” nhưng đã là “dấu
hiệu…của thời đại” [14,tr144]. Năm 1927, có gần chục cuộc bãi công với hàng trăm
người tham gia. Năm 1928 – 1929, có nhiều cuộc bãi công khác với hàng chục nghìn
người tham gia trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của công nhân xi măng (Hải
Phòng), sợi (Nam Định), xe lửa Trường Thi (Vinh)… Những cuộc đấu tranh này không
chỉ giới hạn trong công nhân mà còn tác động sâu sắc đến các tầng lớp khác, đặc biệt là
giai cấp nông dân, các tầng lớp nhân dân lao động, thanh niên, sinh viên làm cho bọn
thống trị thực dân phải khiếp sợ.
Tuy nhiên, do được sinh ra và lớn lên ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nền đại
công nghiệp chưa phát triển, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn ở mức thấp,
công nhân nhiều đời còn ít… Nên giai cấp công nhân Việt Nam cũng còn những mặt hạn
chế nhất định như: tính tổ chức, kỷ luật chưa cao; tư tưởng, tam lý, tác phong và thói quen
của người sản xuất nhỏ còn khá nặng nề; biểu hiện rõ nhất là tính tự do, tuỳ tiện, sự manh
mún, tản mạn, tư tưởng cục bộ, tác phong gia trưởng… Điều đó thể hiện với những mức
độ khác nhau trong mỗi người công nhân. Và, trong chừng mực nhất định, thể hiện cả
trong hoạt động và các tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân. Những hạn chế
của Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo quản lý kinh tế, xã hội, văn hoá; một số biểu hiện
tiêu cực trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta hiện nay, ở một phương diện nào đấy có thể
lý giải từ nguyên nhân sâu xa của nó, đó là những hạn chế của giai cấp công nhân Việt
Nam – một trong những cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta. Những hạn chế,
yếu kém ấy của giai cấp công nhân Việt Nam một phần là do điều kiện kinh tế - xã hội mà
giai cấp công nhân việt Nam ra đời, cũng như trong quá trình tồn tại và phát triển của nó

quy định.
Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Là một bộ phận của công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam có những
đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân thế giới và sứ mệnh lịch sử của công nhân thế
giới. Giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị giành quyền lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa Mác –
Lênin vào nước ta, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong khi nhiều cương lĩnh của
15


giai cấp và tầng lớp yêu nước khác bị phá sản thì Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên
phong của công nhân ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta. Đảng
đã đem lại yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước
ta có bước phát triển nhảy vọt về chất.
Ngay từ đầu, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh
cụ thể của nước ta. Và do vậy, trong cuộc đấu tranh trường kỳ và gian khổ chống giặc
ngoại xâm giành độc lập tự do. Giai công nhân đã xác lập được lãnh đạo vì thực hiện
được khối liên minh công nông đưa nước ta vượt qua muôn ngàn khó khăn đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
Thực tế lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó, thông qua đội tiên phong của mình,
giai cấp công nhân Việt Nam đã đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân đấu tranh
đập tan chế độ thực dân phong kiến giành được chính quyền và bảo vệ vững chắc chính
quyền đó. Trải qua cuộc đấu tranh trường kỳ 30 năm, với thắng lợi của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, giai cấp công nhân việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất Tổ quốc và đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ khó khăn phức tạp
nhất.
Hơn 70 năm qua, giai cấp công nhân và chính đảng của nó đã giành được quyền
độc tôn lãnh đạo cách mạng Việt Nam được quần chúng nhân dân thừa nhận và cả dân tộc

suy tôn. Đây là một thực tế, mục tiêu chính trị của cách mạng Việt Nam không thay đổi.
Vì vậy vai trò lãnh đạo xã hội của giai cấp công nhân Việt Nam không thay đổi. Trong
giai đoạn hiện nay, trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì cơ cấu
công nhân Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Những người lao động công nghiệp và dịch vụ mà lao động của họ có tính chất
công nghiệp.
- Những kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu, áp dụng những thành tựu của cách
mạng khoa học – công nghệ vào sản xuất trực tiếp, tham gia vào quá trình sản xuất và tái
sản xuất của cải vật chất.

16


Đó là những người lao động trong các khu vực, thành phần và đơn vị kinh tế thuộc
các loại hình sở hữu: xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân, hợp tác
liên doanh với nước ngoài, xí nghiệp cổ phần, tiểu công nghiệp khu vực tập thể, các
doanh nghiệp tư nhân, lao động hợp tác ở các doanh nghiệp nước ngoài… Hiện nay, lực
lượng công nhân lao động trong các ngành, các thành phần kinh tế cả nước có khoảng 12
triệu người, chiếm khoảng 14% lao động cả nước, họ hình thành một giai cấp công nhân
thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định phương hướng phát
triển chủ yếu của nền kinh tế, giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều
nhất và ngân sách Nhà nước. Hàng năm họ đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội
bảo đảm trên 60 % ngân sách Nhà nước. Thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam giai cấp
công nhân được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang
lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng và Nhà
nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công – nông - trí thức, nền tảng của khối
đại đoàn kết dân tộc. Lợi ích của giai cấp công nhân gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặc dù, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay do đặc điểm của sự hình thành, do

sinh sống trong điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển… nên vẫn còn mang trong mình
những hạn chế nhất định. Những điều đó không là lí do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam. Bởi vì, những hạn chế, nhược điểm này không thuộc bản
chất của giai cấp công nhân, nó vẫn có đủ khả năng, điều kiện để đảm nhận và hoàn thành
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Thứ nhất, trong các giai cấp ở Việt Nam, giai cấp công nhân vẫn là lực lực sản
xuất xã hội tiên tiến nhất. Điều này được thể hiện trên tất cả các phương diện như: vai trò
của công nhân trong sản xuất, năng suất lao động, khả năng sáng tạo, trình độ chính trị,
văn hoá, khoa học kỹ thuật… Những phẩm chất cách mạng ấy của giai cấp công nhân
Việt Nam do lao động sản xuất công nghiệp, do được thử thách, tôi luyện trong đấu tranh
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước mà có. Giai cấp công nhân Việt
Nam đã và đang thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình trong sự nghiệp công nghiệp
17


hoá, hiện đại hoá đất nước không chỉ thông qua đường lối tiên phong, mà còn thông qua
hoạt động thực tiễn hàng ngày mà có.
Trong giai đoạn cách mạng mới, sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, công
nghệ, giáo dục và đào tạo của nền kinh tế và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ
càng tạo ra những khả năng, điều kiện để nâng cao chất lượng giai cấp công nhân trên
mọi phương diện. Do đó hơn ai hết, giai cấp công nhân sẽ ngày càng trở thành một lực
lượng xã hội tiên tiến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ hai, vai trò tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam gắn liền với
vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà giai cấp công
nhân là người nắm giữ, quản lý, vận hành.
Đại hội VIII của Đảng ta khẳng định, chúng ta chủ trương xây dựng và phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó thành
phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành
nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế nhiều thành phần, mà chúng ta xây dựng

không phải theo định hướng tư bản chủ nghĩa, mà là định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự
quản lý của nhà nước, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kinh tế nhà nước sẽ
được củng cố và phát triển trong những ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu, có vai trò
chi phối và hỗ trợ các thành phàn kinh tế khác. Công nghiệp ngày càng phát triển, từng
bước công nghiệp hoá nền kinh tế theo hướng hiện đại vươn lên trình độ tiên tiến của thế
giới. Tỷ trọng của công nghiệp của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế - xã hội ngày càng
tăng và vai trò của nó ngày càng lớn.
Như vậy, cùng với sự không ngừng tăng lên về vị trị, vai trò, tỷ trọng của các
thành phần kinh tế nhà nước nói chung và công nghiệp nhà nước nói riêng thì số lượng và
chất lượng của giai cấp công nhân sẽ tăng lên thì vị trí, vai trò của nó ngày càng tăng
thêm.
Thứ ba, giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ, quan hệ máu thịt với
giai cấp nông dân; khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức ngày càng được củng cố, tăng cường. Đó là cơ sở xã hội vững chắc bảo đảm
cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
18


Như chúng ta đã biết, giai cấp công nhân Việt Nam không phải là sản phẩm trực
tiếp của nền đại công nghiệp nước ta, mà là sản phẩm trực tiếp của nền đại công nghiệp
du nhập từ chính quốc vào Việt Nam, cho nên giai cấp công nhân có mối quan hệ máu thịt
với giai cấp nông dân Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời cũng như trong suốt quá trình
phát triển của nó và ngay cả hiện nay phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân, hầu hết
công nhân có bố hoặc mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em… điều là nông dân. Chính vì vậy
có mối quan hệ giữa công nhân với giai cấp nông dân rất chặt chẽ, gần gũi. Đó là mối
quan hệ máu thịt không thể tách rời.
Mối quan hệ mật thiết vốn có giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức ngày càng được củng cố và phát triển trong quá trình đấu tranh chống
giặc ngoại xâm chống thiên tai, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức nước ta vốn gắn bó khắng khít đó là vì chung cảnh ngộ trước đây. Vì đa
số trí thức là con em công – nông; được đào tạo dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên
cũng có nhiều trí thức xuất thân từ giai cấp khác nhưng trong quá trình cách mạng đã tự
nguyện đứng về lập trường của giai cấp công nhân.
Mối quan hệ công – nông – trí thức sẽ được củng cố phát triển và ngày càng chặt
chẽ hơn, gần gũi hơn bằng những chính sách kinh tế xã hội đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta, nhất là chính sách đối với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Thắng lợi của
đường lối đổi mới hiện nay và những chính sách kinh tế - xã hội đã được thông qua Đại
hội VII và Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, chắc chắn sẽ tăng thêm mối quan
hệ mật thiết giữa giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản Việt Nam với giai cấp nông dân,
tầng lớp trí thức và quần chúng lao động. Đó là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết
định, đảm bảo cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam được củng cố, giữ
vững và tăng cường.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, tuy nhiên giai cấp công nhân
nước ta mới ra đời, còn nhỏ bé, nhưng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo trong suốt quá trình
cách mạng hơn 70 năm qua. Bởi nó có một yếu tố quan trọng đảm bảo sự lãnh đạo vững
chắc đó là: giai cấp công nhân Việt Nam và chính đảng của nó có mối quan hệ chặt chẽ
với giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong cơ cấu dân cư của nước ta, và xây
19


dựng được khối liên minh công – nông trí thức vững mạnh. Đây là một ưu thế của Đảng
Cộng sản Việt Nam, không phải giai cấp công nhân và Đảng Công sản ở bắt cứ nước nào
cũng có mối quan hệ mật thiết này.
Thứ tư, giai cấp công nhân có đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam dày dạn
kinh nghiệm, có bản lĩnh chính trị vững vàng, được thử thách, tôi luyện và trưởng thành
trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ cũng như trước những bước ngoặt
của thời đại, của sự nghiệp cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam qua thực tiễn đã tích luỹ được nhiều bài học kinh

nghiệm. Những bài học đó là vốn quý có thể vận dụng được trong giai đoạn cách mạng
mới. Trên cơ sở những bài học ấy và với bản lĩnh chính trị vững vàng, sự vận dụng độc
lập, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh mới của
nước ta, góp phần làm phong phú, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin sáng tạo lý luận và
đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi
đến thắng lợi. Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân
Việt Nam có thể giữ vững được vai trò lãnh đạo và làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Do có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn đứng trên lập trường của giai cấp công
nhân, lại hiểu biết sâu sắc truyền thống, đặc điểm lịch sử, văn hoá, xã hội của dân tộc và
con người Việt Nam, biết kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa
văn hoá dân tộc và của nhân loại nên Đảng Cộng sản Việt Nam đã nắm vững được thực
chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta luôn luôn định ra đường
lối chiến lược và những định hướng chính trị đúng đắn; xác nhận đúng mục tiêu, nhiệm
vụ cụ thể và những sách lược đúng cho từng giai đoạn cách mạng. Vì thế, Đảng đã làm
cho chủ nghĩa Mác – Lênin từ chổ là học thuyết cách mạng thành sức mạnh vật chất của
hàng triệu quần chúng, làm nên những chiến công vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc và những thành tựu rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới.
Điều này cắt nghĩa vì sao giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn, số lượng ít,
sinh trưởng trong một nước công nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển đa số dân
cư là nông dân, nhưng chính đảng của nó lại giành và giữ được vai trò lãnh đạo cách
mạng Việt Nam hơn 70 năm qua. Điều này cũng giúp chúng ta lí giải được vì sao trong
20


cuộc khủng hoảng sâu sắc và nghiêm trọng nhất của xã hội chủ nghĩa hiện thực, khi mà
các Đảng Cộng sản và công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị
mất quyền lãnh đạo xã hội, nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
được khẳng định, được đông đảo quần chúng nhân dân thừa nhận suy tôn trong sự nghiệp
xây dựng xã hội mới.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Giai cấp công nhân Việt Nam đang đi đầu trong việc
xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của công nhân nước ta, vai trò không thể thay
thế được của nó trong sự nghiệp “lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng một xã hội
mới, trong đó nhân dân lao động làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh. Xoá bỏ áp bức
bất công, mọi người điều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”
[8,tr.33].
Trong khi tiếp tục khẳng định sứ mệnh lịch sử, vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay Đảng ta cũng nhận rõ những hạn
chế của giai cấp công nhân và đề cao vấn đề tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, để phòng những biểu hiện xa rời bản chất giai cấp công nhân của tổ chức Đảng và
đảng viên. Đảng ta đặt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng ta
không ngừng chú trọng xây dựng giai cấp công nhân về mọi mặt.
Tóm lại, giai cấp công nhân việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân thế
giới, có sứ mệnh lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính sách cộng sản trên toàn thế
giới. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam được thể hiện trong đường lối
chiến lược của Đảng và sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Tách rời Đảng với giai
cấp, với dân tộc và nhân dân thì không thể thực hiện được và không bao giờ có thể thực
hiện được lịch sử của giai cấp công nhân.

21


×