Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH SẢN PHẨM SỮA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.42 KB, 36 trang )

đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành
sản phẩm sữa việt nam
i/điều kiện về cầu thị trờng trong nớc:
Cùng với sự chuyển biến chung của nền kinh tế cả nớc, năm 1986, từ khi đất
nớc thực hiện công cuộc đổi mới thị trờng sữa mới thực sự phát triển. Ngời mua
không chỉ dùng nhiều sữa hơn, mà cơ cấu, chủng loại sản phẩm sữa cũng đa dạng
phong phú hơn. Trớc đây sản phẩm sữa tiêu thụ phổ biến là sữa đặc có đờng và
sữâ bột cho đến nay cơ cấu sản phẩm đã tăng lên nhanh chóng thành nhiều nhóm
sản phẩm phong phú. Lợng sữa tiêu thụ tăng hàng năm:150 triệu lít năm 1991
(quy ra sữa tơi), 200 triệu lít năm 1993, năm 1997 tăng lên 275 triệu lít và năm
2000 khoảng 460 triệu lít. Trong đó, thị phần nội địa của sữa sản xuất trong nớc
tăng từ 57% trong năm 1991 lên 92% trong năm 1995. Còn cơ cấu sản phẩm hiện
nay có thể chia thành 8 nhóm sản phẩm cơ bản:
1.Nhóm sản phẩm sữa tơi thanh trùng.
2. Nhóm sản phẩm sữa tơi tiệt trùng.
3. Nhóm sản phẩm sữa đặc có đờng.
4. Nhóm sản phẩm sữa bột.
5. Nhóm sản phẩm bột dinh dỡng.
6. Nhóm sản phẩm sữa chua.
7. Nhóm sản phẩm các loại kem cao cấp.
8. Nhóm các sản phẩm khác từ sữa (nh bơ, phomát).
Hiện tại các sản phẩm sữa tiêu thụ trên thị trờng nội địa có thể phân biệt t-
ơng đối rõ nh sau:
*Sữa đặc chiếm lĩnh thị trờng nông thôn và miền núi, những đối tợng sử dụng
chủ yếu là chẻ nhỏ, ngời ốm, ngời già yếu; một phần dùng làm nguyên liệu trong
các nhà máy bánh kẹo.
*Sữa bột tiêu thụ chính tại khu vực thành thị, đối tợng chính là trẻ thơ, ngời
ốm và già yếu tại khu vực dân c này.
*Sữa tơi và sữa chua cho mọi lứa tuổi trong khu vực thành thị vầ công
nghiệp.
Nh phân tích ở chơng I, sữa nói chung là sản phẩm tiêu dùng thông thờng khi


thu nhập tăng sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng về loại hàng này, hiện nay hệ số co dãn
của loại hàng hoá này theo thu nhập của nhóm chuyên gia của tổ chức phát triển
liên hợp quốc giúp Việt Nam nghiên cứu năm ngành công nghiệp (công nghiệp
chế bién thực phẩm, công nghiệp dệt may, công nghiệp điện tử, công nghiệp ôtô
và công nghiệp cơ khí) thời kỳ 1990 - 1995 hệ số này là 1,42 (do xuất phát điểm
năm1990 của Việt Nam quá thấp, lợng tiêu thụ chỉ đạt 31 triệu lít). Thời kỳ 1996 -
2000 con số này là 0,75 và hiện nay con số này đạt khoảng 0,95 và tơng đối ổn
định, tất nhiên là sẽ không cao đợc nhiều nh thời kỳ 1990 - 1995, nhng cũng
không thấp nh thời kỳ 1996 - 2000 do chịu nhiều biến động kinh tế nh cuộc
khủng hoảng tài chính năm 1998.
Xét về sự thay đổi trong cơ cấu về chủng loại sản phẩm : Việt Nam là nớc
nghèo, có mức thu nhập bình quân đầu ngời thuộc loại thấp nhất thế giới, vì lẽ đó
trong nhiều năm qua ngời dân cha có điều kiện tiêu dùng sữa một cách rộng rãi.
Sau những năm đổi mới kinh tế tăng trởng đều và ở mức cao, thu nhập bình quân
đầu ngời khá hơn nhất là đối với khu vực thành thị và các khu tập trung công
nghiệp, nhu cầu tiêu dùng trong dân đã có mức tăng đột biến, thể hiện rõ nhất
trong giai đoạn 5 năm 1990 - 1995 và 1996 - 2000. Nh vậy là tăng trởng thu nhập
quốc dân có liên quan chặt chẽ đến mức tiêu dùng sữa của ngời dân.
Từ năm 1976, sản phẩm sữa chế biến của ngời dân chủ yếu là sữa bột và sữa
đặc có đờng, đối tợng tiêu thụ chủ yếu là trẻ em, ngời già, ngời ốm. Đến năm
1982, danh mục các sản phẩm chế biến từ sữa bắt đầu đợc mở rộng phuc vụ cho
nhiều đối tợng tiêu dùng. Trong cơ cấu thu nhập, khoảng các thu nhập cũng dẫn
đến đòi hỏi về hàng hoá là khác nhau. Ngời nông thôn có thu nhập thấp hơn
không những số lợng sữa tiêu thụ thấp hơn mà loại sản phẩm họ mua cũng khác,
chủ yếu là sữa đặc có đờng. Sản phẩm này giá rẻ, thuận tiện cho việc phân phối
bảo quản tiêu dùng ở nông thôn và vùng sâu vùng xa.
Trên thị trờng những ngời có thu nhập cao hơn, họ dùng nhiều sữa hơn và
những họ cũng đòi hỏi nhiều chủng loại để lựa chọn hơn. Những sản phẩm đợc a
chuộng chủ yếu là: sữa tơi tiệt trùng, sữa chua, các loại ken cao cấp và các sản
phẩm khác từ sữa nh bơ, phomat

Khoảng cách thu nhập đa tạo ra sự phong phú cho các chủng loại của sản
phẩm sữa để đáp ứng những mảng thị trờng khác nhau.
Thứ hai là tại sao phần lớn những sản phẩm có chất lợng tốt hơn hay sự đòi
hỏi cao từ phía ngời tiêu dùng chủ yếu tập trung ở các khu vực thành thị phát
triển. Phải nói rằng, một trong những lý do tác động đến sự phân chia chủng loại
sản phẩm đó là kiến thức ngời tiêu dùng, sự tiếp cận của các khách hàng này tới
sản phẩm này là thờng xuyên. Mức sống cao họ đò hỏi chất lợng nhiều hơn số l-
ợng, thông tin đại chúng đợc thờng xuyên cập nhập, thông thờng trong một ngày
đêm có ít nhất là 10 lần có mặt sản phẩm sữa đợc quảng cáo trên truyền hình, các
dịch vụ khách hàng giới thiệu sản phẩm của công ty đợc phát triển rộng rãi.
Đồng thời dân trí cao khiến những ngời tiêu dùng này chở nên khó tính hơn,
hiểu biết hơn trong việc lựa chọn sản phẩm cho bản thân. Nhất là đối với một số
loại sản phẩm đặc biệt đặc biệt từ sữa nh: sữa cho trẻ em, cho phụ nữ mang thai,
cho ngời ốm, ngời bị bệnh tiểu đờngSản phẩm không chỉ đến tay ngời tiêu dùng
thông qua các đại lý phân phối hay cơ sở bán lẻ mà nó còn xuất hiện rất nhiều
hình thức nh thông qua chuyên gia t vấn dinh dỡng, qua sự hớng dẫn của bác sĩ,
qua các hớng dẫn của giáo viên trong các nhà trẻ. Các sản phẩm loại này hiện nay
tăng rất mạnh về nhu cầu, không những thế giá của nó thuộc vào loại cao nhất
trong những sản phẩm chế biến từ sữa. Nó có khả năng đem lại lợi nhuận cao cho
các doanh nghiệp có thế mạnh trong hoạt động Marketing chăm sóc khách hàng
tốt. Điều này cũng phản ánh sự không thuận lợi cho các sản phẩm nội địa hiện
nay còn kém xa về các hoạt động này so với sản phẩm nhập khẩu của các nớc có
thơng hiệu nổi tiếng trên thế giới.
Tóm lại, thị trờng tiêu thụ sữa Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, nhu
cầu đang ban đầu đợc mở rộng nhanh chóng do có nhiều khách hàng mới tham
gia vào thị trờng. Điều này có tác động đến mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ
cạnh tranh trong ngành (ở đây là với sản phẩm nhập khẩu), nó đa đến nhiều cơ hội
cho phát triển ngành, giảm sứa ép cạnh tranh giữa các đối thủ. Do sự cạnh tranh
còn yếu, nên sự tăng mạnh về cầu cho phép các công ty nội địa tăng doanh số và
lợi nhuận mà không cần phải thôn tính thị trờng của đối thủ cạnh tranh ngay trong

nớc cũng nh đối thủ nhập khẩu. Các sản phẩm nội địa cũng nh nhập khẩu đều có
thể mở rộng hoạt động. Đây là khoảng cách cần thiết cho các công ty trong nớc
tận dụng nắm lấy thuận lợi của điều kiện thị trờng trong giâi đoạn này là sự cạnh
tranh tơng đối hoà dịu để chuẩn bị cho sự cạnh tranh quyết liệt sau này.
ii/đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa việt
nam:
Nếu nhận định tổng quát theo tình hình tiêu thụ trên thị trờng nội địa, thì
hiện nay sản phẩm sữa Việt Nam có những biểu hiện khả năng cạnh tranh rất cao,
dựa vào các chỉ tiêu về thị phần và tốc độ tăng thị phần của sản phẩm sữa nội địa.
Dựa theo số liệu của hai bảng dới đây, cho thấy sản phẩm nội địa nhanh
chóng chiếm lĩnh thị trờng từ 57% năm1991 cho đến nay đã chiếm lĩnh áp đảo
sản phẩm nhập khẩu là 92% thị trờng nội địa. Trong khi đó, sản phẩm nhập khẩu
ngày càng giảm từ 43% thị phần hiện nay chỉ còn chiếm có 3 - 5% thị phần nội
địa.
Bảng 2: Thị phần sữa năm 1991 trên thị trờng Việt Nam
(Đơn vị:%)
Nguồn gốc sản xuất của sản phẩm sữa Thị phần
Tổng 100%
Các sản phẩm sản xuất trong nớc 57%
Các sản phẩm nhập khẩu 43%
Bảng 3: Thị phần sữa hiện nay trên thị trờng Việt Nam (từ năm 1995 )
Đơn vị:%
Nguồn gốc sản xuất của sản phẩm sữa Thị phần
Tổng 100%
Công ty Vinamilk 70 - 75%
Dutch Lady, Nestle, các doanh nghiệp khác và các cơ sở
bán lẻ
Khoảng 22%
Các sản phẩm nhập khẩu 3 - 5%
(Nguồn của cả hai bảng: Theo đánh giá của Viện Quy hoạch và thiết kế nông

nghiệp)
Đồng thời, dựa vào bảng 3, cho thấy sản phẩm của Công ty Vinamilk là có
sức cạnh tranh cao nhất, thị phần của công ty này luôn chiếm đến 70 - 75% thị tr-
ờng tiêu thụ cả nớc. Tức là, nếu quan sát qua thị phần nh vậy ta có thể cho rằng
khả năng cạnh tranh cao nhất là thuộc về sản phẩm sữa của các công ty nội địa,
trong đó mạnh nhất là Vinamilk, còn sản phẩm nhập khẩu chỉ chiếm một số phân
đoạn thị trờng nhỏ hẹp, hay nói cách khác sức cạnh tranh của sản phẩm nhập
ngoại là rất thấp.
Bây giờ chúng ta xét đến thị phần theo nhóm sản phẩm để thấy đợc sản phẩm
nào chúng ta có thế mạnh nhất và sản phẩm nào chúng ta còn bị hạn chế trong
cạnh tranh trên thị trờng nội địa.
Bảng 4: Thị phần theo sản phẩm
Đơn vị:%
Thị phần
Sữa đặc có đờng Sữa bột Sữa tơi
Tổng 100% 100% 100%
Vinamilk 66-70% 40% 90 - 98%
Dutch Lady, Nestle và các
doanh nghiệp trong nớc khác
30 - 35% 35-40% 2 - 6%
Sản phẩm nhập khẩu <1% 20% 2 - 3%
(Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Viện Quy hoạch và thiết kế nông
nghiệp)
Theo số liệu trên thì Vinamilk gần nh độc quyền đối với sản phẩm sữa tơi,
chiếm phầm lớn thị phần của sản phẩm sữa đặc và sản phẩm sữa bột cũng chiếm
đến một nửa thị trờng. Tức là trong cơ cấu sản phẩm, sản phẩm nội địa cũng
chiếm thế áp đảo đối với mọi nhóm sản phẩm ngành sữa, trong đó có mạnh nhất
có lẽ là sản phẩm sữa tơi.
Nh vậy, nếu chỉ quan sát qua thị trờng tiêu thụ sữa mà đánh giá khả năng
cạnh tranh của sản phẩm sữa thì rõ ràng sản phẩm sữa nội địa hiện nay của Việt

Nam rất cao, nhất là đối với các sản phẩm sản xuất từ doanh nghiệp Nhà nớc. Vậy
điều đó có thể hiện đúng bản chất của sức cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa
Việt Nạm hay không. Để làm đợc thế, chúng ta phải sử dụng các tiêu chí phản ánh
khả năng cạnh tranh của nhóm sản phẩm này để đánh giá, đó là tiêu chí về giá và
chất lợng. Từ đó mới có kết luận chính xác là ngành sản phẩm sữa Việt Nam thực
sự có khả năng cạnh tranh thuần thuý và lâu dài hay không, hay là nó chỉ cạnh
tranh đợc nhờ sự thuận lợi không bền vững từ các yếu tố ngoài ngành khác, đặc
biệt là sự bảo hộ từ phía Chính phủ.
1.Khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm sữaViệt Nam:
Nhìn chung, trên thị trờng sữa hiện nay, giá sản phẩm sữa sản xuất trong nớc
luôn rẻ hơn giá sữa sản phẩm nhập khẩu cùng loại từ 50 - 60%.
Ta chia sản phẩm sữa ra làm ba nhóm sản phẩm gồm: sản phẩm sữa bột, sản
phẩm sữa đặc có đờng và sản phẩm sữa tơi để phân tích giá.
Sản phẩm sữa bột, bột dinh dỡng: Đối thủ cạnh tranh của chúng ta gồm có
Pháp, Hà Lan, Bỉ, Nhật Bản, Mỹ. Các sản phẩm nhập khẩu này đợc bán trên thị tr-
ờng với giá cao hơn giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nớc từ 50-100% tập
trung tiêu thụ chủ yếu ở các thành phố lớn nh Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải
Phòng,
Sản phẩm sữa đặc có đờng: Đối với sản phẩm sữa đặc có đờng nhập ngoại
đã giảm nhiều trong những năn gần đây vì khó cạnh tranh đợc với sản phẩm của
Vinamilk và Dutch Lady. Do giá sản phẩm này trong nớc luôn thấp hơn nhập khẩu
30%. Hiện nay sản phẩm này gần nh không nhập khẩu vào đợc Việt Nam.
Sản phẩm sữa tơi: Đối thủ cạnh tranh mặt hàng nay gồm có Pháp và New
Zealand, hiện nay giá một lít sữa tơi của sản phẩm nội địa khi bán cho ngời tiêu
dùng vào khoảng 11.000đ/lít, giá bán của hàng nhập khẩu vào khoảng 17.000đ/lít
Nếu xét về giá nh trên thì sản phẩm sữa trong nớc có khả năng cạnh tranh về
giá. Nhng thực ra, trong cơ cấu giá trên có đến 30% là thuế Chính phủ đánh vào
sản phẩm nhập khẩu. Nh vậy, nếu tính ra giá sản phẩm sữa bột, bột dinh dỡng
nhập khẩu sẽ cao hơn từ 20-60%, giá sản phẩm sữa tơi nhập khẩu sẽ cao hơn
khoảng 1.000 đ/lít, sản phẩm của chúng ta vẫn có thể có cạnh tranh về giá ngay cả

khi bỏ qua việc bảo hộ của Chính phủ, nhng sức cạnh tranh về giá là rất thấp, bấp
bênh và không ổn định nhất là khi giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu đang có xu
hớng tăng nh hiện nay. Liệu trong mối tơng quan với chất lợng chúng ta có thể
cạnh tranh đợc hay không.
2.Khả năng cạnh tranh về chất lợng của sản phẩm sữaViệt Nam:
Mặc dù với công nghệ sản xuất tơng đối hiện đại đủ khả năng để chế biến
các sản phẩm sữa đảm bảo chất lợng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Sản phẩm của Công
ty Sữa Việt Nam đợc các cơ qua chuyên trách về chuyên trách trong và ngoài nớc
xác nhận về chất lợng (Vinacontrol, Viện Kiểm tra Đo lờng chất lợng của áo ).
Tuy nhiên xét về tổng thể, Việt Nam vẫn cha xây dựng đợc bộ tiêu chuẩn hoàn
chỉnh cho các sản phẩm sữa từ sữa nguyên liệu nhập khẩu đến sữa thành phẩm.
Tức là, chất lợng sản phẩm nội địa đợc thả nổi, không đợc đảm bảo bởi bất kỳ một
tổ chức có uy tín nào, mà phụ thuộc vào cách làm của từng công ty. Hơn nữa sản
phẩm sữa trong nớc chủ yếu đơc sản xuất từ sữa bột nhập khẩu, mà để sản phẩm
chế biến từ nguồn sữa bột nhập đạt đợc chất lợng nh sản phẩm tạo ra từ nguồn sữa
tơi tại chỗ thì trong quá trình chế biến phải bổ xung thêm vi lợng vi lợng các
khoáng chất, vitamin, béo
Trong khi chúng ta so sánh với các đại gia sản xuất sữa trên thế giới, chất l-
ợng sản phẩm luôn đợc đảm bảo bởi các hiệp hội có uy tín trên thế giới. Từ trớc
đến nay đã luôn đợc ngời tiêu dùng tin cậy, ngay cả ngời tiêu dùng trong nớc, đối
với các sản phẩm nhập ngoại này giá rất cao ngay cả khi bị chịu thuế vẫn có ngời
tiêu dùng, nếu không bị hạn chế bởi thuế và hạn ngạch của Chính phủ thì sản
phẩm sữa trong nớc có khả năng sẽ bị đè bẹp ngay trên thị trờng nội địa.
Kết luận nhỏ: Từ phân tích trên ta đánh giá tổng quát về sức cạnh tranh
chung của toàn ngành nh sau: chúng ta có khả năng cạnh tranh về giá nhng là rất
thấp và không ổn định do không chủ động đợc nguồn nguyên liệu đầu vào, còn
khả năng cạnh tranh về chất lợng thì chúng ta không có. Tức là nhìn chung khả
năng cạnh tranh của sản phẩm sữa Việt Nam so với hàng nhập khẩu là rất thấp.
Do vậy chúng đi sâu vào phân tích khả năng cạnh tranh của từng nhóm ngành nhỏ
để có những nhận định chi tiết và chính xác hơn. Nếu không có khả năng cạnh

tranh chung để phát triển toàn ngành chúng ta có thể đi vào định hớng đầu t phát
triển vào những nhóm sản phẩm có năng lực cạnh tranh.
*Phân tích khả năng cạnh tranh theo từng nhóm sản phẩm trong
ngành sản phẩm sữa:
Kết hợp cả việc phân tích về giá và chất lợng teo nhóm sản phẩm, chúng ta
có xét những nhóm sản phẩm chủ yếu sau:
1.Sữa tơi thanh trùng: sản phẩm này chế biến từ sữa bò tơi đợc gia nhiệt
thanh trùng ở nhiệt độ 70
0
C, sau đó đóng gói bằng bao BBIST và đa ra thị trờng.
Đặc điểm của sản phẩm là luôn phải bảo quản lạnh.
Loại sản phẩm này hiện nay trên thị trờng chỉ có các công ty trong nớc, gần
nguồn nguyên liệu tại chỗ cung cấp. Nh đã nói ở trên sản phẩm từ sữa bò tơi giá
trị dinh dỡng cao, chỉ thanh trùng ở nhiệt độ 70
0
C nên rất chóng hỏng, hạn sử
dụng ngắn, phơng pháp chế biến đơn giản nhng bảo quản không thuận tiện. Tơng
tự nh điều kiện sản xuất, thị trờng tiêu thụ sản phẩm này cũng phải gần thị trờng
thì mới không làm tăng giá do chi phí bảo quản. Do vậy, không có mặt hàng này
nhập khẩu.
Trao đổi nhiệt
Hoà trộn Hoà trộn
Làm lạnh
Thùng chứa
Thanh trùng
Đồng hoá
Tiệt trùng UHT
Lưu 3 giây
Làm nguội
Rót & đóng gói Rót & đóng gói

Kho chứa
Lên men sữa chua
Giá sản phẩm này trên thị trờng đợc bán với giá khoảng 9.500 đồng/lít (gồm
cả chi phí bán hàng ) và cha kể thuế giá trị giá tăng. Nếu lấy giá nguyên liệu sữa
hiện nay trong nớc là 3.550 đồng/lít thì giá thành 1 lít sữa tơi đã qua chế biến là
8.176 đồng/lít. Tức là so với giá bán ở trên thì các cơ sở chế biến gần nh cha có lãi
ở loại sản phẩm này.
2.Sữa tơi tiệt trùng (UHT) và Sữa chua:
Hai loại sản phẩm này về cơ bản có thể biểu diễn lu trình công nghệ sản xuất
nh sau:
Hình 1: Lu trình công nghệ sản xuất sữa tơi tiệt trùng và sữa chua
dạng uống.
(Nguồn: Theo quy hoạch phát triểnngành công nghiệp sữa Việt Nam).
Nớc Bột sữa

Sữa tiệt trùng

Sữa chua dạng uống
Sữa tơi tiệt trùng (UHT) Sản phẩm đợc chế biến từ sữa bò tơi, gia nhiệt tiệt
trùng ở nhiệt độ cao 150
0
C trong thời gian từ 1-2 giây sau đó đóng bằng bao
BBIST. Đặc điểm của sản phẩm có thời hạn sử dụng lâu (có thể đợc 12 tháng)
trong điều kiện nhiệt độ bình thờng, thuận tiện khi vận chuyển phân phối và sử
dụng nên các nớc Châu á trong đó có Việt Nam rất a chuộng loại sản phẩm này.
Sản phẩm sữa tơi tiệt trùng nếu đợc sản xuất từ nguồn nguyên liệu sữa tơi tại chỗ
thì bỏ qua công đoạn hoà trộn
Sữa chua: sản phẩm đợc chế biến sữa bò (sữa bột hoặc sữa tơi) + dầu bơ + đ-
ờng đợc đồng hoá - thanh trùng - làm nguội - cấy men- ủ - làm lạnh - đóng hộp
PE. Sản phẩm đợc bảo quản ở nhiệt độ 5

0
C. Đặc điểm của sản phẩm có nhiều
chất bổ dỡng, kích thích tiêu hoá, thích hợp cho mọi tầng lớp ngời tiêu dùng tại
mọi thị trờng.
Hai loại sản phẩm này hiện nay là sản phẩm chủ lực của công ty Vinamilk,
Dutch Lady, hiện đợc tiêu thụ rộng rãi và rất đợc ngời tiêu dùng a chuộng. Canh
tranh với các doanh nghiệp trong nớc ở nhóm sản phẩm này có sản phẩm sữa tơi
tiệt trùng của Pháp và New Zealand. Các sản phẩm này có hơng vị thơm ngon hơn
sản phẩm của chúng ta, do đợc sản xuất từ sữa cha tác bơ tại bản địa, cũng vì vậy
nên có thành phần dinh dỡng tơng đối đầy đủ tơng tự nh sữa tơi nguyên chất. Giá
của các sản phẩm nhập khẩu này luôn có giá cao hơn sản phẩm trong nớc 50%.
Nên các sản phẩm cùng loại của chúng ta cạnh tranh đợc chủ yếu về giá. Song sản
phẩm nhập khẩu có mức giá cao nh vậy phần lớn là do thuế, thuế này đánh 30%
vào sản phẩm sữa nhập khẩu. Nói chung hiện nay, sản phẩm nhập khẩu hơn hẳn
chúng ta nếu xét về chất lợng sản phẩm, chúng hiện chỉ có khả năng cạnh tranh về
giá mà một phần lớn là dựa vào sự bảo hộ của Chính phủ. Nếu sản trong nớc chế
biến từ nguồn sữa bột nhập đạt đợc chất lợng nh sữa nhập khẩu thì trong quá trình
chế biến phải bổ xung thêm vi lợng các chất khoáng, vitamin, béoĐiều đó sẽ
làm giảm đáng kể lợi nhuận cho nhà sản xuất. Nếu Nhà nớc ban hành Tiêu chuẩn
chất lợng thống nhất cho sản phẩm sữa thì quá trình bổ xung thêm vi lợng các
chất khoáng, vitamin, béo trong chế biến từ nguyên liệu sữa bột mới đợc coi
trọng, điều này sẽ làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến làm tăng giá sản phẩm trong
nớc. Khi đó, sản phẩm của chúng ta chất lợng cao hơn sẽ không còn khả năng
cạnh tranh về giá nữa.
Trong tình trạng chất lợng nh hiện giờ khi không có thuế can thiệp, sản phẩm
nhập ngoại chỉ cao hơn của chúng ta gần 10%. Tức là nếu tính theo giá bán 1 lít
sản xuất trong nớc là 11.000 đồng/lít thì sản phẩm nhập khẩu là 12.000 đồng/lít,
với tơng quan chất lợng nh vậy liệu sản phẩm sản xuất trong nớc có còn chỗ đứng
ngay trên thị trờng nội địa hay không.
Xét trong cơ cấu giá thành của sản phẩm này, chi phí trong nớc chỉ chiếm có

24%, trong khi đó chi phí ngoại tệ chiếm đến 76%, thế nhng một điều thật ngạc
nhiên là không phải phần lớn chi phí ngoại tệ dùng để nhập khẩu nguyên liệu sữa
bột gầy mà là chi phí bao bì, chi phí này chiếm 62,5% trên tổng chi phí, tức là
nguyên liệu sữa nhập khẩu chỉ chiếm 13,5%. Vậy chúng ta phân tích xem nhóm
sản phẩm này của chúng ta có khả năng giảm giá hay tăng chất lợng hay không.
Nếu muốn giảm giá, thì giải pháp tốt nhất là phải có hớng giảm chi phí bao
bì xuống, tức là chuyển hớng tìm nhà cung cấp bao bì trong nớc. Đây là phơng h-
ớng khả quan, hiện đã có nhiều công ty tham gia vào lĩnh vực sản xuất này.
Nếu muốn nâng cao chất lợng, chúng ta có hai cách: sử dụng nguyên liệu sữa
tơi trong nớc hoặc sử dụng nguyên liệu sữa bột ngoại nhập. Sữa nhập khẩu chúng
ta sử dụng giao động trong khoảng 0,15-0,21 USD/kg, trong khi giá thu mua của
nông dân về đến nhà máy 1kg sữa với giá 3.550 đồng tơng đơng 0,23 USD. Nếu
sử dụng nguyên liệu sữa tơi tại chỗ trong nớc, sản phẩm sẽ có chất lợng cao nhng
sẽ làm tăng chi phí sản phẩm lên khoảng 0,02-0,08 USD, tức là giá mỗi lít sữa nội
địa tăng thêm khoảng 400-1.200 đồng/lít sữa trên thị trờng. Tơng đối bằng giá sản
phẩm nhập ngoại khi không có tác động của thuế.Còn nếu sử dụng nguyên liệu
nhập khẩu thì phải bổ xung thêm một số chất dinh dỡng, điều này làm giá thành
sản phẩm cao hơn cả việc sử dụng nguyên liệu trong nớc nhng lại chiếm phần lớn
vì hiện nay nguyên liệu trong nớc mới chỉ đáp ứng đợc 13% tổng nhu cầu nguyên
liệu sử dụng trong ngành.
Giải pháp trên là cần thiết trong điều kiện sắp tới khi Nhà nớc đã có các Tiêu
chuẩn kiểm định chất lợng không buông lỏng nh hiện nay.
Nh vậỵ, nếu kết hợp cả hai phơng pháp trên hoặc sản phẩm sản xuất bằng
nguồn nguyên liệu trong nớc đợc giảm bớt thuế và thì có thể cạnh tranh đợc về
giá so với sản phẩm nớc ngoài mà chất lợng vẫn đảm bảo. Vậy chúng ta có khả
năng phát triển nguồn nguyên liệu hay tự túc đợc về bao bì sản phẩm hay không,
nếu có thì mới có thể tiếp tục phát triển nhóm sản phẩm này.
3.Sữa đặc có đờng: Sản phẩm chế biến từ sữa bột (hoặc sữa bò tơi), trộn với
bơ (hoặc dầu thực vật) cùng với đờng kính và nớc đợc đồng hoá-thanh trùng-cô
đặc làm nguội-đóng trong hộp thiếc. Sản phẩm sữa đặc có đờng thuận tiện cho ng-

ời tiêu dùng ở nông thôn và vùng xa.
Riêng loại sản phẩm này cúng ta lại rất có khả năng cạnh tranh về giá, vì nhu
cầu nhóm sản phẩm này co dãn với giá rất lớn. Do chịu nhiều chí phí vận chuyển
và bảo quản, lợi nhuận đem lại sản phẩm này lại không cao nên các sản phẩm
nhập khẩu hiện nay không có mặt trên thị trờng.
4.Sữa bột: Sản phẩm đợc chế biến từ sữa bột + dầu bơ + dầu thực vật +
Maltodestrin + Lactore đợc đồng hoá - thanh trùng - cô đặc - sấy phun - tạo hạt,
trộn thêm đờng kính và các vitamin - đóng trong hộp thiếc. Sản phẩm sữa bột
thích hợp với các đối tợng nh trẻ em, ngời già, đợc tiêu thụ nhiều ở thành thị và
xuất khẩu.
Đối thủ cạnh tranh với chúng ta bao gồm các nớc bao gồm: Pháp, Hà Lan,
Bỉ, Đan Mạch, New Zealand, Nhật Bản, Mỹ.
Trong cơ cấu giá thành sản phẩm này chi phí nội địa chỉ chiếm 32% trên
tổng chi phí còn 68% là chi phí nguyên liệu vật t nhập khẩu. Trong đó khoảng
42% giá thành là chi phí nhập sữa bột gầy, tức là bao gói và các chất bổ sung chỉ
chiếm 26%. Phần chi phí nguyên liệu chiếm quá lớn trong cơ cấu chi phí sản
phẩm này nên việc chúng ta cạnh tranh là rất khó.
Vì sản phẩm này phục vụ cho nhóm khách hàng tơng đối khó tính, đòi hỏi
nhiều về thành phần dinh dỡng. Các sản phẩm nhập khẩu luôn có thế mạnh hơn
trong việc cạnh tranh nhóm sản phẩm này. Ngoài công nghệ sản xuất hiện đại mà
chúng ta không thể theo kịp, phải nói rằng các sản phẩm nhập khẩu này đều đợc
các tổ chức có uy tín trên thế giới đánh giá cao và công nhận về chất lợng. Mặc dù
giá sản phẩm nhập khẩu này cao hơn rất nhiều so với giá sản phẩm tơng tự trong
nớc nhng vẫn đợc ngời mua sử dụng. Nếu không bị hạn chế bởi thuế và hạn ngạch
thì sản phẩm này sẽ áp đảo các sản phẩm nội địa, nhất là những doanh nghiệp
không có tên tuổi trên thị trờng quốc tế Bên cạnh đó cũng phải nói rằng, khả năng
cạnh tranh cao
5.Bột dinh dỡng: Sản phẩm chế biến từ bột sữa + sữa đậu nành + dầu thực
vật + bột ngũ cốc + đờng kính + các loại vitamin sau đó trộn đều và thực hiên
đồng hoá - thanh trùng - sấy phun - tạo hạt - làm nguội - đóng hộp. Sản phẩm ăn

liền, tiện lợi cho việc nuôi dỡng trẻ em.
Sản phẩm bộ ngũ cốc dinh dỡng này mặc dù mới đợc sản xuất nhng lại tỏ ra
có hiệu quả cao, đặc biệt là sản phẩm của Nestle, Vinamilk, giá cả hợp lý một
phần là do bao bì sản phẩm đã đợc nội địa hoá (vì dễ sản xuất hơn các loại bao bì
cho sản phẩm sữa nớc, hơn nữa bao bì cho sản phẩm xuất khẩu thờng phải dùng
hộp thiếc, bảo quản qua nhiều lớp bao gói, trong khi sản phẩm này trong nớc đang
đợc tiến hành sử dụng hộp bìa sản xuất trong nớc kết hợp với lớp bao gói bằng
giấy thiếc kinh tế hơn nhiều ). Về chất lợng, do thành phần dinh dỡng trong loại
sản phẩm này tơng đối thuận lợi vì có khả năng nội địa hoá cao nên thành phần
dinh dỡng của sản phẩm nhập khẩu cũng chỉ tơng tự nh sản phẩm trong nớc, lại
thêm các loại chi phí bảo quản, vận chuyển, bao gói làm giá sản phẩm nhập khẩu
càng tăng cao. Tức là, đối với loại sản phẩm này sản phẩm nội địa có khả năng
cạnh tranh cao về giá.
iii/Các nhân tố chủ yếu tác động tới khả năng cạnh
tranh của sản phẩm sữa Việt Nam:
1.Nguồn nguyên liệu:
Nguyên liệu chính dùng cho công nghiệp chế biến sữa và các sản phẩm từ
sữa là sữa bò, ngoài ra còn cần các phụ liệu khác nh bao gói sản phẩm, đờng RE,
mứt quả
Trong đó sữa bò là loại nguyên liệu chủ yếu nhất của ngành sữa Việt Nam.
Nguồn nguyên liệu sữa hiện nay của ngành gồm nguồn nguyên liệu nhập khẩu và
nguồn nguyên liệu có đợc từ đàn bò sữa chăn nuôi trong nớc.
1.1.Nguồn nguyên liệu nhập khẩu:
Hiện nay nguồn nguyên liệu sản xuất trong nớc chỉ đạt khoảng 13% trong
tổng nhu cầu về nguyên liệu của ngành. Nhu cầu nguyên liệu nhập khẩu sử dụng
dới dạng chính là bột sữa gầy. Nếu tính cả nhu cầu về các dạng sữa khác nh sữa
bột các loại, sữa đặc có đờng, sữa tơi tiệt trùng, pho mát, bơ, kem,thì nhu cầu
trong nớc đợc đáp ứng bởi 90% là sản phẩm nhập khẩu. Do vậy mà hàng năm,
chúng ta phải mất một nguồn ngoại tệ lớn để nhập khẩu sữa.
Bảng 5:Tổng giá trị nhập khẩu các loại sữa qua cảng TP. Hồ Chí Minh

Đơn vị: USD
Năm Giá trị nhập khẩu
1996 58.480.656
1997 51.241.495
1998 86.374.797
1999 86.400.000
2000 100.000.000
(Nguồn: Thống kê tổng giá trị nhập khẩu các loại sữa qua cảng TP. Hồ Chí
Minh ).
Trong tổng giá trị các loại sữa nhập khẩu trên, thành phần sữa tiêu dùng nh
sữa bột tiêu dùng, sữa đặc có đờng, sữa tiệt trùng, phomát, bơ, kem,chỉ chiếm
2%-3% thị trờng tiêu dùng. Tức là phần lớn ngoại tệ dùng để mua nguyên liệu cho
sản xuất trong nớc, còn phần dành cho mua sữa tiêu dùng trực tiếp là rất ít.
Phần nguyên liệu này đợc nhập khẩu từ nhiều nguồn sữa bột trên thế giới nh
Pháp, Hà Lan, Đan Mạch, New Zealand, Ôxtrâylia,phần lớn nhập qua cảng
thành phố Hồ Chí Minh.

×