Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.15 KB, 25 trang )

HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.1.1 Công ty cổ phần.
1.1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của công ty cổ phần.
Khái niệm: Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được
chia thành nhiều phần bằng nhau goị là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm
về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác (trừ trường hợp cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần của
cổ đông sáng lập có qui định riêng). Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân ; Số
lượng cổ đông tối thiểu của công ty là 3 và không hạn chế số lượng tối đa.
1.1.1.2 Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần.
Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc
(Tổng giám đốc). Với Công ty cổ phần có trên 11 cổ đông thì có thêm Ban kiểm
soát.
a. Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là
cơ quan quyết định cao nhất của Công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông có các
quyền chính sau:
+ Quyết định loại và số cổ phần được quyền chào bán của từng loại.
Quyết định mức cổ tức hàng năm.
+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên
Ban kiểm soát.
+ Quyết định tổ chức lại và giải thể Công ty cổ phần.
+ Quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ Công ty cổ phần.
+ Thông qua báo cáo tài chính hàng năm.
+ Quyết định mua lại hơn 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại.
b. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý Công ty cổ phần, có toàn quyền
nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi
của công ty (trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông).


Hội đồng quản trị có các quyền và nghĩa vụ chính sau:
+ Quyết định chiến lược phát triển của công ty.
+ Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của
từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác.
+ Quyết định phương án đầu tư.
+ Quyết định giải pháp phát triển thị trường; thông qua hợp đồng mua
bán, vay, cho vay và các hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng
giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty.
+ Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc (Tổng giám đốc) và cán
bộ quản lý quan trọng khác của công ty.
+ Quyết định cơ cấu tổ chức, qui chế quản lý nội bộ công ty, quyết định
thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua
cổ phần của doanh nghiệp khác.
+ Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Đại hội đồng cổ đông.
+ ...
- Hội đồng quản trị gồm không quá 11 thành viên, Hội đồng quản trị bầu
Chủ tịch Hội đồng quản trong số các thành viên của mình. Chủ tịch Hội đồng
quản trị có thể kiêm Giám đốc (Tổng giám đốc) theo điều lệ của công ty.
d. Giám đốc (Tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động hàng ngày
của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các
quyền và nhiệm vụ được giao.
1.1.1.3 Cổ phần, cổ phiếu, cổ tức.
a. Cổ phần: Công ty cổ phần có cổ phần phổ thông và có thể có cổ phần
ưu đãi. Người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông. Công ty cổ phần có thể có các loại
cổ phần ưu đãi sau:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết.
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức.
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại.
+ Cổ phần ưu đãi khác theo điều lệ công ty.
Chỉ có cổ đông sáng lập mới được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu

quyết. Cổ phần ưu đãi biểu quyết này chỉ có hiệu lực trong vòng 3 năm kể từ
ngày Công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, sau thời
hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết chuyển thành cổ phần phổ thông.
b. Cổ phiếu: là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu
một hoặc một số cổ phầncủa công ty. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi
tên.
c. Cổ tức: Công ty cổ phần trả cổ tức cho cổ đông khi công ty kinh doanh
có lãi, hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo qui
định của Pháp luật. Mức cổ tức trả đối với từng cổ phần do Hội đồng quản trị
xác định.
1.1.2 Phương thức huy động vốn của CTCP.
Vốn là sự biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được sử dụng đầu tư vào
quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra lợi nhuận, làm tăng thêm
giá trị cho chủ sở hữu doanh nghiệp.
1.1.2.1 Huy động vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần.
a. Vốn góp ban đầu: Khi Công ty cổ phần được thành lập thì chủ công ty
phải có một số vốn ban đầu do thành viên sáng lập góp. Vốn ban đầu thường
được dùng để xây dựng trụ sở, mua sắm trang thiết bị ban đầu, trang trải các
chi phí cho hoạt động thành lập công ty. Các thành viên sáng lập cùng ký biên
bản góp vốn để làm cơ sở thành lập CTCP. Trên cơ sở biên bản góp vốn, các
thành viên sáng lập lập hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm: đơn đăng ký kinh
doanh (có nêu rõ số cổ phần mà cổ đông sáng lập đăng ký mua), điều lệ công ty
(có nêu rõ số cổ phần mà cổ đông sáng lập cam kết mua), danh sách cổ đông
sáng lập (có nêu rõ số lượng cổ phần, loại cổ phần, loại tài sản, số lượng tài
sản).
Theo điều 58, Luật doanh nghiệp, trong 3 năm đầu kể từ ngày công ty
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng
nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông đựoc quyền chào bán; cổ phần

phổ thông của cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cho người không phải là
cổ đông nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, theo thời gian, vốn ban đầu sẽ
chiếm tỷ trọng rất nhỏ bé trong tổng số vốn chủ sở hữu của Công ty cổ phần. Đó
chính là nguyên tắc: tư bản ban đầu chỉ là giọt nước trong dòng sông tích luỹ.
b. Vốn từ lợi nhuận không chia: Trong quá trình hoạt động kinh doanh,
nếu làm ăn có lãi thì công ty có thể sử dụng một phần lợi nhuận để tái đầu tư,
mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguồn tài chính này rất quan trọng vì nó làm
giảm chi phí dùng để vay vốn, giảm bớt sự phụ thuộc vè vốn vào các yéu tố bên
ngoài. Tuy nhiên, việc để lại lợi nhuận không chia dùng tái đầu tư cũng làm
giảm cổ tức năm đó và giảm tính hấp dẫn (thị giá) của cổ phiếu trong ngắn hạn.
c. Phát hành cổ phiếu mới: Đây là chứng khoán quan trọng nhất được trao
đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán. Lượng cổ phiếu tối đa mà Công ty cổ
phần được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép. Công ty cổ phần
chỉ có thể phát hành cổ phiếu mới trong giới hạn vốn cổ phiếu đựoc cấp phép đã
nêu.
Phát hành cổ phiếu ưu đãi: Cổ phiếu ưu đãi thường chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng số cổ phiếu đựoc phát hành.
1.1.2.2 Huy động vốn vay của công ty cổ phần.
1.1.2.2.1 Vốn tín dụng ngân hàng.
Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không
chỉ đối với Công ty cổ phần mà còn với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong
hoạt động của mình, Công ty cổ phần luôn phải sử dụng nguồn vốn vay ngân
hàng phục vụ nhu cầu tài chính thường xuyên và cho các dự án đầu tư mở rộng
sản xuất kinh doanh.
Vốn vay ngân hàng có thể là dài hạn (thường từ 3 năm trở lên), trung hạn
(từ 1 đến 3 năm), hoặc ngắn hạn (dưới 1 năm) ; có thể là vay nội tệ, vay ngoại
tệ... Vay ngân hàng có điều kiện tín dụng và qui trình chặt chẽ.
Điều kiện tín dụng: Công ty cổ phần muốn vay được của ngân hàng
thương mại phải đáp ứng được những yêu cầu an toàn tín dụng của ngân hàng.

Thông thường Công ty cổ phần phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông
tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng sẽ tự phân tích tình hình tài
chính CTCP đi vay, thẩm định tính khả thi của phương án sử dụng vốn vay. Từ
đó, ngânnhàng mới đưa ra quyết định cho vay vốn, Công ty cổ phần phụ thuộc
hoàn toàn vào sự phân tích chủ quan của ngân hàng.
Điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi Công ty cổ phần có nhu cầu vay vốn
ngân hàng, ngân hàng thường yêu cầu Công ty cổ phần phải có các đảm bảo tiền
vay là thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Chính vì vậy, nhiều khi Công ty cổ phần
không thể đáp ứng được yêu cầu này và sẽ không vay được tiền.
Sự kiểm soát của ngân hàng: Công ty cổ phần chịu sự kiểm soát của ngân
hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay ngân hàng, thông qua sự kiểm
soát đó, ngân hàng đảm bảo tiền của mình sử dụng đúng mục đích, sử dụng có
hiệu quả. Trong một số trường hợp, Công ty cổ phần có thể mất đi quyền tự chủ
trong kinh doanh của mình, ngân hàng có thể tham gia quá sâu vào việc ra các
quyết định trong hoạt động của công ty.
1.1.2.2.2 Vốn từ tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại hình thành một cách tự nhiên trong quá trình quá
trình hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần, nó tồn tại dưới hình thức mua
bán chịu, mua bán trả chậm, mua bán trả góp. Đối với Công ty cổ phần, nguồn
vốn tín dụng thương mại là một phương thức huy động rẻ tiền, tiện dụng và rất
linh hoạt trong kinh doanh. Tín dụng thương mại góp phần củng cố thêm quan
hệ giữa các bạn hàng, ít phải chịu sự kiểm soát. Tuy nhiên, tín dụng thương mại
lại tiềm ẩn rất nhiều yếu tố rủi ro, có thể gây vỡ nợ dây chuyền.
1.1.2.2.3 Phát hành trái phiếu Công ty.
Trái phiếu công ty là giấy vay nợ trung-dài hạn. Trái phiếu công ty có
nhiều loại, mỗi loại trái phiếu công ty lại có chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, tính
hấp dẫn khác nhau. Trái phiếu công ty có nhiều hình thức khác nhau.
Trái phiếu có lãi suất cố định: Đây là loại phổ biến nhất trong các loại trái
phiếu công ty. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi
trong kỳ hạn của nó.

Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Lãi suất trái phiếu phụ thuộc vào một số
nguồn lãi suất quan trọng khác, chẳng hạn như lãi suất của Ngân hàng trung
ương, lãi suất cơ bản.
Với loại trái phiếu này, cả Công ty cổ phần và người nắm giữ trái phiếu
đều không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này làm
công ty mất nhiều công sức quản lý trái phiếu và khó khăn hơn trong việc lập kế
hoạch tài chính.
Trái phiếu có thể thu hồi: Công ty cổ phần có thể mua lại trái phiếu vào
một thời gian nào đó. Công ty phải qui định rõ về thời hạn và giá cả khi công ty
chuộc lại trái phiếu, thông thường công ty qui định thời gian tối thiểu mà trái
phiếu không bị thu hồi.
Với loại trái phiếu này, công ty sử dụng chúng để điều chỉnh cơ cấu vốn.
Công ty có thể mua lại trái phiếu để làm giảm vốn vay, hoặc thay nguồn tài
chính do phát hành trái phiếu bằng nguồn tài chính khác thông qua mua lại các
trái phiếu đó.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi: Là những trái phiếu kèm theo những điều
kiện có thể chuyển đổi được. Trái phiếu này cho phép người sở hữu có thể mua
cổ phiếu thường với số lượng, giá cả và thời gian xác định và nó cũng cho phép
người sở hữu trái phiếu có thể chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường.
Để huy động vốn trên thị trường tài chính bằng trái phiếu, Công ty cổ
phần phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lãi suất của trái phiếu, kỳ hạn của trái phiếu,
mệnh giá của trái phiếu, uy tín của công ty phát hành, các yếu tố khuyến khích
kèm theo ...
Lãi suất của trái phiếu: Người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao
còn công ty phát hành phải xác định mức lãi suất trong tương quan so sánh với
lãi suất trên thị trường vốn. Trên thị trường vốn có trái phiếu của các công ty,
trái phiếu của Chính phủ là đối tượng cạnh tranh với trái phiếu của công ty phát
hành. Do trái phiếu Chính phủ có độ rủi ro thấp nên thường có lãi suất thấp hơn
lãi suất của trái phiếu công ty.

Kỳ hạn của trái phiếu: Đây là yếu tố quan trọng không chỉ với công ty
phát hành mà cả với người đầu tư. Để xác định kỳ hạn hợp lý, công ty căn cứ
vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư.
Mệnh giá của trái phiếu: Mệnh giá của trái phiếu phụ thuộc vào sức mua
của dân chúng. Với mệnh giá hợp lý, nhiều người đầu tư có thể mua được trái
phiếu và tăng tính thanh khoản của trái phiếu.
Uy tín của công ty: Không phải công ty nào cũng có thể phát hành trái
phiếu, chỉ các công ty có uy tín, vững mạnh mới có thể thu hút người đầu tư .
Uy tín của công ty phát hành chính là sự biểu hiện độ rủi ro của trái phiếu. Với
các công ty lớn, đã hoạt động lâu năm thì độ rủi ro của trái phiếu của công ty
được coi là nhỏ hơn so với các công ty qui mô nhỏ, thời gian hoạt động trên thị
trường ngắn hơn.
Các yếu tố khuyến khích: Công ty có thể đưa thêm các yếu tố khuyến
khích kèm theo trái phiếu để hấp dẫn người đầu tư mà không cần nâng quá cao
mức lãi suất. Ví dự như: trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu, thời hạn
thanh toán nhiều lần trong năm, trả lãi trước, các chính sách chăm sóc khách
hàng, khuyến mại tặng quà ...
1.2 HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN.
1.2.1 Thị trường chứng khoán.
a. Khái niệm.
Vốn là yếu tố quan trọng, là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Mặt
khác, trong nền kinh tế thị trường luôn suất hiện cung cầu về vốn. Đối với bất
kỳ một nền kinh tế nào muốn phát triển ổn định và bền vững thì phải có đủ vốn
đầu tư, tức là phải có kênh dẫn vốn hữu hiệu từ cung về vốn đến cầu về vốn. Hệ
thống các ngân hàng thương mại là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, nhưng
vốn qua kênh này chủ yếu là vốn ngắn và trung hạn theo hình thức gián tiếp.
Trong khi đó, nhu cầu phát triển của các Công ty cổ phần lại chủ yếu là vốn
trung, dài hạn. Người đầu tư cũng có xu hướng đầu tư trực tiếp không qua ngân
hàng. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán (một bộ phận của thị trường vốn)

đã ra đời để đưa vốn trực tiếp từ nguồn cung vốn đến nguồn cầu vốn.
Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra các hoạt động mua bán
chứng khoán vốn và các chứng khoán nợ trung, dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu, và
một số loại giấy tờ có giá trị khác).
Xét về mặt hình thức, TTCK là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi các loại
chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Xét về bản chất: TTCKlà nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết
kiệm, là nơi mà cả chủ thể cung và cầu về vốn đều tham gia vào thị trường một
cách trực tiếp.
b. Đặc điểm của thị trường chứng khoán.
TTCK là thị trường của các công cụ tài trợ trực tiếp, trong đó người cung
và người cầu về vốn trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có các trung
gian tài chính.
TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở đó giá cả được hình
thành trên cơ sở cạnh tranh tự do, dựa trên quan hệ cung cầu và phản ánh các
thông tin có liên quan đến chứng khoán.
TTCK là thị trường liên tục. Sau khi các chứng khoán được phát hành
trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua bán nhiều lần trên thị trường thứ cấp,
đảm bảo cho người đầu tư có thể chuyển các chứng khoán thành tiền bất cứ lúc
nào.
TTCK tạo khả năng lựa chọn phong phú cho người đầu tư, đồng thời
mang lại cho những người cần vố sang tiên cơ hội huy động vốn với lãi suất
thấp hơn lãi suất huy động qua trung gian tài chính.
TTCK là kênh bổ sung vốn quan trọng cho nền kinh tế, tạo điều kiện huy
động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
c. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Do tính hấp dẫn riêng có của mình, TTCK thu hút đông đảo các tổ chức,
cá nhân đầu tư tham gia. Căn cứ vào mục đích tham gia TTCK, có thể chia chủ
thể tham gia TTCK thành các nhóm sau:
* Nhà phát hành.

Nhà phát hành là những người phát hành chứng khoán để huy động vốn
trên thị trường sơ cấp. Họ là người cung cấp hàng hoá cho thị trường. Công ty
cổ phần khi phát hành chứng khoán là người cung cấp hàng hoá chính cho
TTCK.
Nhà phát hành có thể là: Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh
nghiệp, tổ chức tài chính.
* Nhà đầu tư: Gồm nhà đầu tư các nhân và các nhà đầu tư có tổ chức.
Nhà đầu tư các nhân: là những cá nhân có vốn nhàn rỗi, tham gia mua
bán chứng khoán trên thị trường với mục đích kiếm lời.
Nhà đầu tư có tổ chức: Là các tổ chức chuyên mua bán chứng khoán cho
khách hàng và cho chính mình. Các tổ chức này là các công ty bảo hiểm, các
quĩ đầu tư.
* Các tổ chức kinh doanh trên Thị trường chứng khoán.
Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán là những tổ chức
được phép thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: môi giới
chứng khoán, bảo lãnh, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán,
quản lý quĩ đầu tư chứng khoán và nghiệp vụ tự doanh.
Công ty chứng khoán: Các doanh nghiệp được phép hoạt động kinh
doanh chứng khoán thường phải là các công ty Trách nhiệm hữu hạn hoặc Công
ty cổ phần. Công ty chứng khoán có thể được cấp phép thực hiện một hoặc một
số hoặc toàn bộ các các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Ngân hàng thương mại: Hoạt động của các ngân hàng thương mại trong
lĩnh vực kinh doanh chứng khoán được qui định khác nhau ở các nước khác
nhau.
Công ty quản lý quĩ đầu tư chứng khoán: Ngân hàng thương mại, công ty
bảo hiểm, công ty tài chính là đối tương phù hợp nhất để tổ chức, quản lý các
quĩ đầu tư tập thể.
Công ty tư vấn đầu tư chứng khoán: Là những công ty chỉ chuyên kinh
doanh hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư để hưởng dịch vụ phí.
Công ty môi giới chứng khoán: Với những quốc gia có qui định khác biệt

về hoạt động môi giới và tự doanh chứng khoán thì hoạt động môi giới chứng
khoán sẽ do công ty này đảm nhận.
* Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán.
Cơ quan quản lý nhà nước đối với TTCK: ở Việt Nam, Uỷ ban chứng
khoán nhà nước đảm nhiệm việc tổ chức, xây dựng, quản lý, giám sát TTCK.
Cơ quản tổ chức hoạt động của TTCK: Sở Giao dịch chứng khoán.
Các tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
Ngoài các tổ chức kể trên, còn có các tổ chức khác như: tổ chức kiểm
toán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, công ty dịch vụ máy tính chứng
khoán, công ty đánh giá hệ số tín nhiệm ...
d. Hàng hoá của thị trường chứng khoán.

×