Tải bản đầy đủ (.docx) (130 trang)

Chính sách thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.85 KB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KIỀU THỊ QUỲNH THƠ

CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KIỀU THỊ QUỲNH THƠ

CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số

: 8340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Lê Thị Việt Nga


Hà Nội, năm 2020


3

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn “Chính sách thu hút đầu tư vào các
khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” là kết quả nghiên cứu độc lập
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Việt Nga. Các tài liệu tham
khảo, các số liệu thống kê được sử dụng đúng quy định và chỉ phục vụ cho
mục đích nghiên cứu đề tài.
Kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác ngoài nghiên cứu của tác giả.
Tác giả xin cam đoan những vấn đề nêu trên là hoàn toàn đúng sự thật.
Tác giả

Kiều Thị Quỳnh Thơ


4

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành, sâu sắc đến
toàn thể Ban giám hiệu, quý thầy cô của Trường Đại học Thương Mại đã
nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu vừa qua.
Đặc biệt tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Lê Thị Việt
Nga, người hướng dẫn khoa học của luận văn, đã tận tình hướng dẫn và giúp
đỡ tôi góp ý, tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh,

các đơn vị chức năng thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hà Tĩnh… đã tạo
mọi điều kiện tốt nhất có thể và giúp đỡ tôi trong việc cung cấp số liệu, báo
cáo, thống kê và trả lời các câu hỏi khảo sát. Đồng thời, trao đổi thẳng thắn
cũng như phản biện và làm rõ hơn về những quan điểm khác nhau trong chính
sách và thực tế chính sách thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh.
Cảm ơn gia đình đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chương trình học
và dành nhiều thời gian để tôi có thể thực hiện hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa, tôi chân thành cảm ơn và biết ơn sâu sắc.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2020
Tác giả

Kiều Thị Quỳnh Thơ


5

MỤC LỤC


6

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11
12

Nội dung
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Đầu tư nước ngoài
Đô la Mỹ
Khu công nghiệp
Kinh tế - xã hội
Quản lý nhà nước
Khu kinh tế
Ủy ban nhân dân
Giải phóng mặt bằng
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Thu nhập doanh nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp

Viết tắt
CNH - HĐH
FDI
USD
KCN
KT-XH
QLNN
KKT
UBND

GPMB
CNH - HĐH
TNDN
GDNN


7

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, phát
triển các khu công nghiệp là một phương thức thu hút các nguồn lực để đầu tư
phát triển kinh tế. Đây là một trong những động lực để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động,
góp phần thúc đẩy đô thị hóa, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, tài nguyên và sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là điều kiện để chuyển biến cơ bản về mọi mặt
đời sống xã hội theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH - HĐH).
Được sự quan tâm, giúp đỡ của Trung uơng, Quốc hội, Chính phủ, các
Bộ ngành Trung ương, trong suốt quá trình xúc tiến kêu gọi đầu tư, Hà Tĩnh
đã vận dụng các chủ trương, chính sách để áp dụng đúng quy trình, mặt khác
được sự chia sẻ của các nhà đầu tư nên các dự án khi có chủ trương đầu tư
đều được đáp ứng mọi thủ tục đầy đủ, nhanh chóng.
Trong năm 2018, Hà Tĩnh đã quyết định chủ trương đầu tư 108 dự án
với tổng nguồn vốn đăng ký đạt 6.920,2 tỷ đồng. Trong đó, cấp tỉnh quyết

định đầu tư 68 dự án với tổng vốn đăng ký 6.820 tỷ đồng (60 dự án trong
nước vốn đầu tư 4.598 tỷ đồng, 08 dự án nước ngoài vốn đầu tư 96,6 triệu
USD); cấp huyện quyết định đầu tư 40 dự án vốn đầu tư 100,2 tỷ đồng. Năm
2020, Hà Tĩnh sẽ tiếp tục tổ chức hoạt động, chương trình xúc tiến đầu tư để
thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đầu tư vào địa
phương. Mục tiêu mà Hà Tĩnh đang hướng tới là trở thành trung tâm công
nghiệp, thương mại - dịch vụ của khu vực Bắc Trung Bộ.
Tuy nhiên, Hà Tĩnh vẫn tồn tại nhiều hạn chế, khó khăn vướng mắc về
phía chính quyền tỉnh Hà Tĩnh bao gồm việc thu hút vốn đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng, đầu tư sản xuất tại các khu công nghiệp (KCN), công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng, thực hiện chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư, xây


9

dựng, phát triển các ngành phụ trợ cho các doanh nghiệp KCN. Thực trạng
đầu tư chủ yếu công nghiệp thô, giá trị kinh tế mang lại chưa tướng xứng với
nguồn lực hiện có, đòi hỏi chính quyền tỉnh Hà Tĩnh phải có các chính sách
mới, cụ thể và cấp bách trong thu hút, đầu tư, quản lý vốn vào các khu công
nghiệp trên địa bàn.
Từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài “Chính sách thu hút đầu tư
vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài luận văn
thạc sĩ kinh tế.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thu hút đầu tư nói chung và thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp
nói riêng là một vấn đề mang tính chiến lược đã được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm thể hiện qua đường lối, chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã
hội (KT- XH). Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập vấn đề này, trong đó
đáng chú ý một số công trình như:
- Ngô Sỹ Bích (2015), “Bài học thu hút thành công Dự án đầu tư của

Samsung vào khu công nghiệp Bắc Ninh và những bất cập trong công tác
quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu kinh tế”, Cổng thông tin Điện
tử tỉnh Bắc Ninh. Qua thực tế tỉnh Bắc Ninh, tác giả nhận thấy, về thể chế các
văn bản luật điều chỉnh về KCN còn có một số nội dung chồng chéo, các
chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào KCN hiện nay thiếu nhất
quán; ưu đãi đối với các doanh nghiệp trong KCN có xu hướng thu hẹp, hiệu
quả hạn chế, các thủ tục hành chính liên quan đến chuyển nhượng cổ phần,
góp vốn đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập...
Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến những khó khăn vướng mắc trong hoạt
động của doanh nghiệp KCN trong một số lĩnh vực liên quan như: quy hoạch
xây dựng, môi trường, thanh tra, lao động...
- Nguyễn Trường Giang (2016), “Thực thi hiệu quả chính sách thu hút
đầu tư vào các khu công nghiệp”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam. Đã nêu


10

lên những nỗ lực của tỉnh Vĩnh Phúc trong việc thực hiện nhiều giải pháp
đồng bộ nhằm cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào các KCN.
Theo tác giả, những năm gần đây, thu hút đầu tư vào Vĩnh Phúc đã thực hiện
một cách có chọn lọc, tập trung chủ yếu vào các dự án công nghệ hiện đại,
thân thiện với môi trường, đảm bảo đúng định hướng phát triển, làm thay đổi
diện mạo các KCN mới thành lập, góp phần hiệu quả vào sự gia tăng tỷ trọng
của các ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Bằng 4 nhóm giải
pháp QLNN về chính sách và thực thi chính sách hỗ trợ phát triển KCN, quản
lý và thực hiện hiệu quả quy hoạch, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư và cải cách thủ
tục hành chính, với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của chính quyền tỉnh, tác
giả khẳng định QLNN sẽ làm tốt vai trò kiến tạo giúp các KCN tỉnh Vĩnh
Phúc sớm trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn, tin cậy, góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tiến bộ.

- Võ Thị Vân Khánh (2016), Tăng cường thu hút FDI vào các khu công
nghiệp theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện
Tài chính, Hà Nội. Luận án đã làm rõ các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), đưa ra hệ thống các tiêu chí đánh giá thu hút FDI, các nhân tố
ảnh hưởng đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân và bài học rút ra trong thu
hút và quản lý FDI thông qua khảo sát, đánh giá thực trạng các hoạt động
này tại Hà Nội. Trên cơ sở, phân tích khách quan và xác thực nguyên nhân
của các hạn chế, yếu kém trong QLNN đối với các KCN của chính quyền Thủ
đô trên một số lĩnh vực, Luận án đã đưa ra một số giải pháp căn cơ và chính
sách ưu đãi đặc thù nhằm thu hút đầu tư FDI vào các KCN, đồng thời đề xuất
những hướng phát triển nhằm vừa đáp ứng yêu cầu thu hút đầu tư FDI vừa
thúc đẩy sự gia tăng kết nối giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước theo
các mục tiêu, chiến lược phát triển của Thủ đô. Tác giả cũng khuyến nghị


11

Thành phố nên tập trung chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính, tăng
cường phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút đầu
tư.
- Phạm Văn Năm (2017), “Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào khu công
nghiệp, khu kinh tế”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam. Theo tác giả, các
dự án đầu tư hạ tầng và thứ cấp tại các KCN, khu kinh tế (KKT) tỉnh Quảng
Bình đang được đẩy mạnh xây dựng để sớm đi vào hoạt động. Có được kết
quả đó là do tỉnh đã có nhiều giải pháp quyết liệt như: đổi mới hình thức
quảng bá, đẩy mạnh đầu tư hạ tầng kỹ thuật các KCN, KKT; triển khai hiệu
quả các hoạt động xúc tiến đầu tư; tăng cường chăm sóc và bảo vệ môi
trường các KCN, KKT; chú trọng công tác cải cách hành chính. Để làm tốt
hơn công tác này, theo tác giả, Quảng Bình cần tăng cường quản lý quy

hoạch xây dựng; đẩy mạnh thi công các dự án chuyển tiếp từ những năm
trước; tập trung quảng bá, thu hút đầu tư vào các KCN, KKT; quản lý có hiệu
quả các công trình hạ tầng kỹ thuật trong các KKT, KCN; thực hiện tốt các
nhiệm vụ QLNN trong các KKT, KCN. Đây là những kinh nghiệm QLNN tốt,
cách làm hay cần được phát huy.
- Trần Xuân Dưỡng (2017), “Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư”, Tạp
chí Khu công nghiệp Việt Nam. Đã khái quát những thành công, hiệu quả tích
cực trong các hoạt động xúc tiến và thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút đầu tư
nước ngoài tại các KCN tỉnh Hà Nam. Theo nghiên cứu, kinh nghiệm đem lại
thành công là sự vào cuộc quyết liệt, đổi mới và linh hoạt trong việc tổ chức
các hoạt động xúc tiến đầu tư của chính quyền tỉnh thông qua các Hội nghị
xúc tiến đầu tư vào tỉnh, tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư nước ngoài tại
Nhật Bản, Hàn Quốc và sự chủ động tích cực của các doanh nghiệp kinh
doanh hạ tầng KCN. Tỉnh đã thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao
chất lượng dịch vụ trong KCN như: rút ngắn thời gian hoàn thành các thủ tục
hành chính so với quy định, tạo điều kiện thuận lợi, công khai, minh bạch thủ


12

tục hành chính cho nhà đầu tư; có biện pháp xử lý đối với các dự án chậm
triển khai, kém hiệu quả. Việc thực hiện tốt công tác QLNN đối với các dự án
đầu tư vào KCN đã góp phần thúc đẩy hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, cải thiện các chỉ tiêu kinh tế. Theo tác giả, nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý đầu tư, đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các KCN, tỉnh
Hà Nam cần quan tâm, đẩy nhanh tiến độ giải phòng mặt bằng, có phướng
án đầu tư đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật kết nối các KCN; thực hiện hiệu
quả các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, đồng hành cùng
doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ môi trường của
KCN... đưa Hà Nam trở thành môi trường lý tưởng thu hút các nhà đầu tư,

tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong KCN hoạt động lành mạnh, hiệu
quả.
- Hồng Lâm, Trịnh Bình (2016), “Phát triển khu công nghiệp, cách làm
của Bình Dương”, Tạp chí Công nghiệp và Tiêu dùng. Cho thấy cách làm
sáng tạo của Bình Dương nhằm phát triển bền vững các KCN là đề cao tính
hiệu quả trong vận dụng các chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần
và linh hoạt trong huy động nguồn lực tham gia đầu tư, phát triển kết cấu hạ
tầng KCN. Chính quyền tỉnh xác định các KCN là một đòn bẩy giúp Bình
Dương phát triển kinh tế - yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm an sinh xã
hội... Nghiên cứu khẳng định, trong thời gian tới, để phát triển bền vững các
KCN của tỉnh, Bình Dương cần ưu tiên thu hút các ngành công nghiệp có
công nghệ hiện đại, tiên tiến nhằm nâng cao sức cạnh tranh thông qua chất
lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Cùng với đó, tỉnh cần quan tâm đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường của doanh nghiệp. Những bài học kinh nghiệm trong quản
lý và phát triển bền vững các KCN rút ra từ thực tiễn một tỉnh công nghiệp
phát triển năng động như Bình Dương sẽ rất bổ ích cho tác giả trong đề xuất


13

các giải pháp thu hút đầu tư đối với KCN tỉnh Hà Tĩnh.
Qua tổng quan nghiên cứu cho thấy, hầu hết các đề tài chưa nêu lên
được các chính sách về đất đai trong phát triển các khu công nghiệp; các ưu
đãi về thuế, tài chính cho các doanh nghiệp vào các khu công nghiệp, đặc biệt
là các khu công nghiệp mới, có tính đặc thù; chưa làm rõ công tác quy hoạch
phát triển các khu công nghiệp, khả năng liên kết vùng, miền tạo sự đồng nhất
trong thu hút đầu tư; các công trình nghiên cứu không nhấn mạnh việc cải
cách các thủ tục hành chính và sự tham gia của chính quyền cũng như nguồn
lực lao động địa phương trong thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp.

Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về chính sách thu hút
đầu tư vào các khu công nghiệp một cách có hệ thống và dưới góc độ khoa
học kinh tế đối với một tỉnh có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đặc thù,
nhu cầu thu hút đầu tư lớn với tốc độ nhanh như Hà Tĩnh. Vì vậy, việc nghiên
cứu thực trạng và đưa ra những giải pháp đồng bộ nhằm đẩy mạnh thu hút đầu
tư vào các khu công nghiệp ở Hà Tĩnh hiện nay là vấn đề rất cần thiết, tác giả
có thể khẳng định đề tài luận văn của tác giả có tính mới và không trùng lặp
với bất kỳ công trình nào đã công bố cho đến thời điểm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của chính sách thu hút đầu
tư vào các khu công nghiệp nhằm đề xuất những giải pháp tăng cường thu hút
đầu tư vào các khu công nghiệp ở Hà Tĩnh.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, chính sách đầu tư,
khu công nghiệp, chính sách thu hút đầu tư vào khu công nghiệp.


14

- Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách thu hút đầu tư vào các khu
công nghiệp ở Hà Tĩnh trong những năm qua.
- Xây dựng phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm
đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Hà Tĩnh trong những năm
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách thu hút vốn đầu tư vào
các khu công nghiệp.

* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài được thực hiện tại địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Phạm vi thời gian: Thực trạng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2014-2018. Các giải pháp đề xuất áp
dụng đến năm 2025.
- Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách thu hút
vốn các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh do Ban Quản
lý Khu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh quản lý, không bao gồm các cụm công nghiệp
nhỏ do chính quyền huyện, thành phố quyết định thành lập.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những quan điểm chỉ đạo, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển các khu công nghiệp.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, kết hợp các phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích,
tổng hợp, kết hợp lôgic - lịch sử, tổng kết thực tiễn. Đồng thời đề tài có kế
thừa và sử dụng có chọn lọc những đề xuất và các số liệu trong một số công
trình nghiên cứu của các tác giả khác.


15

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lực,
luận văn gồm 03 chương, cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách thu hút đầu tư vào khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh
Chương 2. Thực trạng chính sách thu hút đầu tư vào các khu công

nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư vào
các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.


16

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ
VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1.1. Khái quát về các khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
Ngày nay, khu công nghiệp xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Mặc dù thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó
lại bao hàm nhiều loại hình, nhiều mô hình tổ chức và tính chất hoạt động
khác nhau. Một số nước KCN được hiểu là các công viên công nghiệp
(Industrial Parks). Có những KCN được gọi là cụm công nghiệp (Industrial
Clusters). Những KCN hoạt động chuyên về sản xuất hàng xuất khẩu với quy
chế miễn thuế nhập khẩu được gọi là khu chế xuất (KCX) (Export Processing
Zones). Khu công nghiệp cũng có thể là khu công nghệ cao (Hight tech
centres) hoặc khu công nghệ cao là một bộ phận của KCN.
Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định
về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế nêu rõ:
- Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này. Khu
công nghiệp gồm nhiều loại hình khác nhau, bao gồm: Khu chế xuất, khu
công nghiệp hỗ trợ, khu công nghiệp sinh thái (sau đây gọi chung là Khu công
nghiệp, trừ trường hợp có quy định riêng đối với từng loại hình).
+ Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, được

thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đôi với khu công nghiệp
quy định tại Nghị định này. Khu chế xuất được ngăn cách với khu vực bên
ngoài theo các quy định áp dụng đối với khu phi thuế quan quy định tại pháp
luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
+ Khu công nghiệp hỗ trợ là khu công nghiệp chuyên sản xuất các sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ, thực hiện dịch vụ cho sản xuất các sản phẩm công


17

nghiệp hỗ trợ. Tỷ lệ diện tích đất cho các dự án đầu tư vào ngành nghề công
nghiệp hỗ trợ thuê, thuê lại tối thiểu đạt 60% diện tích đất công nghiệp có thể
cho thuê của khu công nghiệp;
+ Khu công nghiệp sinh thái là khu công nghiệp, trong đó có các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất sạch hơn và sử
dụng hiệu quả tài nguyên, có sự liên kết, hợp tác trong sản xuất để thực hiện
hoạt động cộng sinh công nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, môi
trường, xã hội của các doanh nghiệp.
- Khu kinh tế là khu vực có ranh giới địa lý xác định, gồm nhiều khu
chức năng, được thành lập để thực hiện các mục tiêu thu hút đầu tư, phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ quốc phòng, an ninh.
Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 của Quốc hội quy định:
- Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
- Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Như vậy, KCN là một thuật ngữ để chỉ một vùng lãnh thổ quốc gia được
xác định ranh giới địa lý rõ ràng. Trong đó các doanh nghiệp công nghiệp tập
trung đầu tư, hoạt động, phát triển do có kết cấu hạ tầng tốt, có môi trường kinh
doanh tốt (ưu đãi của Nhà nước về đất đai, tài chính) và có thị trường tốt (thị

trường đầu vào, đầu ra và dịch vụ). Đây là kết quả của quá trình tích tụ, tập
trung, chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ, là hình thức tổ chức
sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của quá trình CNH - HĐH nền kinh
tế.
Nhìn chung, các tiêu chí để hình thành một khu công nghiệp bao gồm:
- Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp nghiệp có đủ cơ sở
pháp lý, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp.
- Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân
cư sinh sống, xây dựng theo quy hoạch tổng thể đã được Chính phủ phê


18

duyệt.
- Thứ ba, KCN phải do Chính phủ hoặc do Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Khi muốn hình thành KCN đã có trong quy hoạch tổng thể thì
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên
cứu khả thi thành lập KCN và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định
thành lập.
- Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản
xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
Với khái niệm như vậy, KCN của Việt Nam được hiểu là khu công
nghiệp tập trung, không có dân cư sinh sống nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề
hạ tầng và ô nhiễm môi trường, có phân biệt với các vùng công nghiệp (bao
gồm nhiều KCN), với các đặc khu kinh tế (có bộ máy quản lý hành chính độc
lập). Theo quan niệm của Việt Nam, các KCX (chuyên sản xuất hàng hoá xuất
khẩu và dịch vụ cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu), khu công nghệ cao (tập
trung các doanh nghiệp có công nghệ cao hoặc doanh nghiệp dịch vụ cho các

doanh nghiệp có công nghệ cao) chỉ là hình thái đặc thù của KCN tập trung.
1.1.2. Vai trò, đặc điểm các khu công nghiệp
1.1.2.1. Vai trò của các khu công nghiệp
Trải qua một thời gian xây dựng và phát triển, các KCN nước ta từng
bước khẳng đinh vị trí, tầm quan trọng, trở thành một động lực to lớn trong
tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH - HĐH) và hội nhập kinh tế
quốc tế. Vai trò của KCN thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, KCN tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư. Giống như
các nước đang phát triển khác, Việt Nam rất cần vốn, kỹ thuật, thị trường và
kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp công nghiệp. Song, môi trường kinh doanh
tổng thể của đất nước chưa đáp ứng yêu cầu của đầu tư nước ngoài như điều
kiện kết cấu hạ tầng, lao động có tay nghề cao, chất lượng quản lý hành chính.
Nếu chờ đầu tư để cải thiện môi trường chung thì vừa lâu vừa không khả thi vì


19

nguồn lực trong nước cũng như khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đang ở
mức thấp. Chính vì thế, việc xây dựng các KCN là con đường thu hút đầu tư
nhanh nhất. Bởi vì, trong những ranh giới xác định của KCN, nhà nước có thể
tập trung nguồn lực của mình nhằm tạo ra kết cấu hạ tầng hiện đại, tạo điều
kiện giảm bớt chi phí, rủi ro ban đầu cho nhà đầu tư, từ đó khuyến khích họ bỏ
vốn đầu tư vào KCN. Nhà nước có thể thi hành những hệ thống ưu đãi có chọn
lựa khác nhau để thu hút các nhà đầu tư trong khi chưa cải cách ngay được hệ
chính sách chung.
Xây dựng các KCN tập trung không những thu hút đầu tư mới mà còn
có điều kiện để di dời các cơ sở công nghiệp xây dựng ở các vị trí không thích
hợp. Nhiều doanh nghiệp công nghiệp được xây dựng trước đây do không
được quy hoạch dài hạn, nên khi có nhu cầu đẩy mạnh phát triển công nghiệp
thì các doanh nghiệp này không có địa bàn mở rộng quy mô. Có những doanh

nghiệp còn bố trí xen lẫn với khu dân cư, khu hành chính, trường học... gây ra
tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị. Việc đưa những doanh nghiệp công
nghiệp này vào các KCN vừa tạo điều kiện mở rộng đầu tư vừa đảm bảo sự
phát triển bền vững của nền kinh tế. Xây dựng các KCN cũng chính là chủ
trương huy động nguồn vốn trong nước và nước ngoài vào phát triển kết cấu
hạ tầng hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực. Việc cho phép thực
thi đa dạng các mô hình kinh doanh hạ tầng KCN (doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp nhà nước), Việt Nam
muốn tận dụng mối quan hệ quốc tế của chủ đầu tư nước ngoài trong việc kêu
gọi đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn từ ngân sách để thúc đẩy quá trình CNH - HĐH đất nước.
Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính sách ưu đãi cùng với
cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản, thuận tiện hơn so
với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tư nhanh chóng triển khai dự án, tránh bỏ
lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp


20

tìm mọi cách tối thiểu hóa chi phí để đạt được giá thành rẻ nhất. KCN là địa
bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện được điều đó. KCN được xây dựng tập
trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống, gần cảng, giao thông thuận lợi
cho xe trọng tải lớn ra vào, mạng lưới điện để cho nhà đầu tư có thể xây dựng
và vận hành các nhà máy. KCN còn được trang bị kết cấu hạ tầng đầy đủ nên
khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư sản xuất sẽ giảm được rất nhiều chi phí như
chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá cao, chi phí xây dựng hệ thống
đường dây tải điện, đuờng giao thông vận tải vào nhà máy, thiết lập hệ thống
thông tin liên lạc... Việc bố trí các nhà máy theo chiều dọc (sản phẩm của nhà
máy này là nguyên liệu của nhà máy khác) và tập trung vào một khu vục nên
các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu vào và đầu ra với chi phí thấp nhất.

Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều kiện thuận lợi để đạt mục tiêu lợi
nhuận hơn bên ngoài KCN nên KCN hấp dẫn nhà đầu tư hơn.
Thứ hai, KCN góp phần hạn chế ô nhiễm môi truờng trong quá trình
phát triển công nghiệp. Những cơ sở công nghiệp ở thành phố và khu vục dân
cư không có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường sẽ được di dời vào KCN,
đồng thời hạn chế xây dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân
cư. KCN tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động
bất lợi của sản xuất công nghiệp (như tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...). Mặt khác,
với sự tập trung của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm
xác định, Ban quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của
các doanh nghiệp để có giải pháp thích hợp. Đồng thời, về phía mình các
doanh nghiệp công nghiệp cũng có điều kiện phòng chống ô nhiễm môi
truờng với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải của nhau, do có sụ liên kết
xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của Nhà nước. Hơn nữa, KCN được sử
dụng các biện pháp triệt để trong việc xử lý môi trường ngay từ khâu quy
hoạch. Trong KCN, các doanh nghiệp buộc phải có hệ thống xử lý chất thải


21

cục bộ đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống chung. Từng KCN phải có
nhà máy xử lý nước thải tập trung và được đầu tư xây dựng song song với
việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy, việc bảo vệ môi trường
trong toàn khu vục KCN được thực hiện tốt hơn các cơ sở công nghiệp nằm
rải rác ở nhiều khu vục khác nhau.
Thứ ba, KCN góp phần giải quyết việc làm cho nguời lao động. Các
KCN là nơi thu hút được nhiều lao động hoạt động trong các doanh nghiệp và
trong các lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ cho KCN. Nếu căn cứ theo số
lao động bình quân thấp nhất và trung bình ở các KCN và tuỳ theo tính chất
ngành nghề, số lượng dự án đầu tư thu hút vào trong KCN thì bình quân mỗi

KCN với diện tích khoảng 100-150 ha khi đã lấp đầy toàn bộ diện tích sẽ cần
số lượng lao động từ 15.000-18.000 nguời làm việc trong các nhà máy, xí
nghiệp.
Thứ tư, KCN tạo điều kiện cho việc tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng
có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến. Hình thành các
KCN sẽ tạo ra những tiền đề cho phép tiếp nhận những thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại nhất của thế giới để vận dụng vào sản xuất những sản
phẩm có chất luợng. Tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ trong
các KCN có một sự thuận lợi hơn hẳn với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh phân tán, rải rác ở các khu vục dân cư, khu vực xanh, khu vực văn hoá.
Bởi vì trong KCN, các nhà đầu tư được huởng một số quy chế ưu đãi nhất
định và đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài. Muốn nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ áp dụng
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, tạo điều kiện cho
việc tiếp nhận, chuyển giao và đưa những công nghệ tiên tiến vào nước tiếp
nhận đầu tư. Qua con đuờng này, nước ta có thể tiếp nhận được các thành tựu
khoa học công nghệ của nhân loại một cách nhanh nhất, vận dụng chúng
thành công nhất vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.


22

Thứ năm, KCN góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
huớng hiện đại. KCN được sử dụng như một công cụ để điều chỉnh cơ cấu
kinh tế vùng, khai thác vùng có giá trị kinh tế cao đồng thời tạo điều kiện cho
các vùng khó khăn hơn xây dụng được cơ sở công nghiệp của mình. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ cần cải tạo
các KCN hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất, xây dựng mới một
số KCN phân bố trên các vùng.
KCN phát triển kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành công

nghiệp, những vùng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả thấp sẽ được
chuyển sang xây dựng KCN để sản xuất công nghiệp có hiệu quả cao hơn
nhiều. Sự phát triển của các KCN góp phần to lớn vào sự hình thành các khu
đô thị mới với hàng loạt các ngành dịch vụ phát triển như thông tin liên lạc,
ngân hàng, bảo hiểm, vận tải và thương mại. Từ đó, cơ cấu GDP của nền kinh
tế quốc dân có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp. Đây là
xu hướng phù hợp với quá trình CNH - HĐH đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Ngoài những vai trò cơ bản trên KCN còn góp phần to lớn trong việc
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần tạo ra cơ chế quản lý và
mô hình quản lý mới, tạo tiền đề trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vục và
quốc tế, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế và ổn định
thị trường ngoại hối...
Đánh giá về vai trò của KCN, nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã
nói: Phát triển KCN là một giải pháp quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho đầu
tư kinh doanh, tiết kiệm nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh quốc
phòng. Chúng ta cần đa dạng hoá các loại hình KCN, không chỉ quan tâm các
KCN lớn và tương đối lớn ở đô thị và ven đô thị mà còn phải chú trọng các


23

KCN quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn để thúc đẩy công nghiệp hoá nông
nghiệp nông thôn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Đi đôi với
việc tích cực xây dựng các KCN theo quy hoạch, cần đặc biệt chú trọng thu
hút đầu tư vào những KCN đã được hình thành, thuờng xuyên rút kinh
nghiệm để không ngừng nâng cao sức hấp dẫn và phát huy hiệu quả đầu tư
của các doanh nghiệp.[2]

1.1.2.2. Đặc điểm của các khu công nghiệp
- Về không gian:
Khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lý xác định, phân biệt với
các vùng lãnh thổ khác và thường không có dân cư sinh sống.
Các khu công nghiệp đều được xác định ranh giới cụ thể bằng hệ thống
hàng rào khu công nghiệp, phân biệt với các vùng còn lại thuộc lãnh thổ quốc
gia. Mọi hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh bên trong hàng rào đó, không
chỉ được điều chỉnh bởi quy định của pháp luật hiện hành mà còn phải tuân
thủ chế pháp lý riêng và được hưởng rất nhiều ưu đãi. Toàn bộ hạ tầng kỹ
thuật khu công nghiệp này được xây dựng phục vụ cho hoạt động sản xuất
công nghiệp và kinh doanh phục vụ công nghiệp, không phục vụ mục đích
sống dân cư, kể cả người Việt Nam, người nước ngoài làm việc trong khu
công nghiệp.
- Về chức năng hoạt động:
Khu công nghiệp là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
này là sản xuất công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
Trong khu công nghiệp, không có các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho loại hình sản xuất này.
- Về thành lập:
Khu công nghiệp không phải là khu vực được thành lập tự phát mà
được thành lập theo quy định của Chính phủ, trên cơ sở quy hoạch đã được
phê duyệt. Để phát triển các khu công nghiệp, Nhà nước phải thiết lập môi


24

trường đầu tư thuận lợi, bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ,
hệ thống cơ chế chính sách toàn diện, đồng bộ. Chính vì vậy, Nhà nước phải

xây dựng quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, thẩm định kỹ trước khi
thành lập và triển khai xây dựng chúng.
- Về đầu tư cho sản xuất:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong khu công nghiệp, có khu
vực hoặc doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa xuất khẩu (được gọi là khu
chế xuất, doanh nghiệp chế xuất).
Phụ thuộc vào quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được
phê duyệt và dự án đầu tư, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, trong
phạm vi khu công nghiệp có thể thành lập khu vực riêng, bao gồm: các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và các dịch
vụ thu ngoại tệ hoặc cũng có thể chỉ thành lập doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu (doanh nghiệp chế xuất).
1.2. Chính sách thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm về thu hút đầu tư và chính sách thu hút đầu tư vào các
khu công nghiệp
a. Khái niệm thu hút đầu tư
* Đầu tư
Trên giác độ nền kinh tế “đầu tư được hiểu là sự hy sinh giá trị hiện tại
gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế”.[4]
Theo quan điểm tái sản xuất mở rộng, “đầu tư là quá trình chuyển hóa
vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực sản xuất, tạo ra những
yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất”.[18]
Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 giải thích: “Đầu tư là
việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình
thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này và
pháp luật có liên quan”.[11]
Như vậy, đứng trên những giác độ khác nhau, có những khái niệm khác
nhau về đầu tư. Trong luận văn này, đầu tư được hiểu là quá trình bỏ vốn



25

(tiền, nguyên liệu, nhân lực, công nghệ...) vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
* Thu hút đầu tư
Thu hút đầu tư là việc Chính phủ và các cơ quan ở địa phương sử dụng
hệ thống các biện pháp, chính sách nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư từ trong và
ngoài nước đưa nguồn vốn và những tài sản hợp pháp như máy móc, công
nghệ… vào quốc gia hoặc địa phương để tổ chức thực hiện hoạt động tìm kiếm
lợi nhuận hoặc lợi ích lớn hơn so với đầu tư tại quốc gia, địa phương xuất phát
của họ.
Thu hút vốn đầu tư là hoạt động nhằm khai thác, huy động các nguồn
vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Thu hút vốn
đầu tư bao gồm tổng hợp các cơ chế, chính sách, thông qua các điều kiện về
hành lang pháp lý, kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội, các nguồn tài nguyên,
môi trường… để thu hút các nhà đầu tư vốn, khoa học công nghệ… để sản
xuất, kinh doanh nhằm đạt được một mục tiêu nhất định.
Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp là hoạt động của chính quyền cùng
phối hợp thực hiện để có được nhiều hơn các dự án đầu tư bên ngoài vào khu
công nghiệp.
b. Chính sách thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp
* Chính sách
Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ
thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và
tình hình thực tế mà đề ra”.[19]
Theo tác giải Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp biện pháp
được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra,
trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ
hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến
lược phát triển của một hệ thống xã hội”. Theo tác giả thì khái niệm “hệ thống

xã hội” được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một
khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường.[7]


×