Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

VẬN DỤNG TIẾN TRÌNH CÔNG tác xã hội cá NHÂN TRONG VIỆC hỗ TRỢ CHO NGƯỜI PHỤ nữ bị bạo HÀNH GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.88 KB, 17 trang )

VẬN DỤNG LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VĂN HỌC
CỦA WOLFGANG ISER ĐỂ TIẾP CẬN TIỂU THUYẾT
MỘT GÁNH XIẾC QUA CỦA PATRICK MODIANO

Những năm 60 của thế kỉ XX, Mỹ học tiếp nhận ra đời như
một lý thuyết có thể giải quyết những khó khăn của lí luận văn
học đồng thời mở ra sự chuyển hướng trung tâm văn học. Quan
niệm tác giả trung tâm hay xu hướng chỉ khép kín trong phạm vi
văn bản đã bị Mỹ học tiếp nhận “giải thiêng” bằng cách trao vị trí
trung tâm cho người đọc. Hướng nghiên cứu này đã phát triển
trên phạm vi toàn thế giới, ảnh hưởng đến toàn bộ nền lí luận phê
bình trong thập niên 70, 80.
Trường phái Konstanz với hai đại diện nổi bật là Hans
Robert Jauss và Wolfgang Iser thống nhất trong hướng nghiên cứu
độc giả trung tâm luận, coi hoạt động đọc như quá trình giao lưu
giữa tác giả, văn bản và người đọc. Song “nếu như chúng ta nói
Hans Robert Jauss nghiên cứu sự tiếp nhận vĩ mô thì Wolfgang
Iser nghiên cứu sự tiếp nhận vi mô” (3,tr562), trong khi Jauss tập
trung tiếp cận lịch sử hiệu quả của văn học và lịch sử tiếp nhận,
kinh nghiệm thẩm mĩ và khẳng định lịch sử tiếp nhận là lịch sử
kinh nghiệm thẩm mĩ thì Iser lại chú trọng nghiên cứu hành động
đọc.


Trong bài tiểu luận, người viết sẽ áp dụng lý thuyết tiếp
nhận văn học của Iser để tiếp cận tiểu thuyết “Một gánh xiếc qua”
của Patrick Modiano, cũng có nghĩa là tiếp nhận văn bản này từ lý
thuyết hành động đọc.
Ở bài viết “The Reading Process: A Phenomenological
Approach” (Quá trình đọc: Hiện tượng luận), W. Iser đã đề xuất
quan điểm: “Văn bản văn chương có hai cực có thể gọi là cực


nghệ thuật và cực thẩm mỹ. Cực nghệ thuật thuộc về văn bản của
nhà văn còn cực thẩm mỹ là sự hiện thực hóa bởi người đọc. Sự
phân cực này dẫn đến việc văn bản tác phẩm không hoàn toàn
đồng nhất với văn bản hay sự hiện thực hóa văn bản, mà nằm ở
điểm lưng chừng giữa hai cực”. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi văn
bản tác phẩm là sản phẩm của sự tiếp xúc giữa văn bản và người
đọc. Tầm quan trọng được chia đều cho cả hai, cả nhà văn lẫn bạn
đọc đều có vai trò như nhau trong việc kiến tạo tác phẩm.
Trên cơ sở đó, lý thuyết tiếp nhận của W. Iser được triển
khai trên hai hệ thống: kết cấu vẫy gọi và hành động đọc. Đây
cũng là tên hai công trình tiêu biểu của ông. Kết cấu vẫy gọi được
Iser chia thành ba phương diện, thứ nhất là “khoảng trống”
(gaps), thứ hai là “tính phủ định” và cuối cùng là “người đọc tiềm
ẩn” (implied reader) còn hành động đọc trải qua ba bước. Trong
quá trình tiếp nhận tiểu thuyết “Một gánh xiếc qua”, người viết sẽ
đồng thời làm rõ những nét chung nhất về nội hàm các thuật ngữ
này.


Kết cấu vẫy gọi
Khoảng trống
Dẫn quan điểm của Laurence Sterne (1713 – 1768) trong
cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông “Tristram Shandy”: “Sự
tôn trọng chân thành nhất bạn có thể mang đến cho cách cắt nghĩa
của độc giả là giảm bớt những điều rõ ràng và trao cho người đọc
không gian để tưởng tượng”, từ đó Iser dẫn đến vấn đề khoảng
trống (gaps) trong văn bản. Đó là những gì nhà văn ẩn đi hoặc
không nhắc đến song lại được chỉ dẫn từ những hiện diện trên văn
bản. Nó tạo cơ hội cho người đọc đến với văn bản tác phẩm một
cách chủ động để kiến tạo thành những tác phẩm khác nhau.

Đồng thời “khoảng trống” cũng mở ra không gian mời gọi người
đọc, giúp anh ta phát huy trí tưởng tượng, liên tưởng, cũng có thể
cả sự kết nối liên văn bản, từ đó kích thích việc đọc chủ động ở
độc giả.
“Khoảng trống” có thể tồn tại ở mọi cấp độ kết cấu văn bản,
song trong phạm vi dung lượng có hạn của một bài tiểu luận,
người viết sẽ chỉ tiếp cận một vài “khoảng trống” trong văn bản
khảo sát ở cấp độ kết cấu thời gian và không gian nghệ thuật.
Kết cấu tiểu thuyết “Một gánh xiếc qua” được tổ chức khá
phức tạp với khung thời gian phi tuyến tính. Nó mở ra không gian
để người đọc thâm nhập vào bề sâu cấu trúc văn bản nhằm phát
hiện cảm quan chi phối nghệ thuật trần thuật của Patrick Modiano


ở văn bản, từ đó tạo điều kiện khám quá những cấp độ kết cấu
nhỏ hơn.
Tiểu thuyết mở đầu bằng câu văn tương đối sáng rõ: “Tôi
mười tám tuổi và người đàn ông tôi đã quên mặt gõ máy chữ lại
các câu trả lời tôi dùng để trình bày thông tin về nhân thân, địa
chỉ và danh hiệu sinh viên bịa ra” (4,tr7). Câu văn đơn giản, xác
định điểm nhìn của nhân vật. Nếu như là bạn đọc tiếng Pháp, tiếp
xúc với văn bản ở ngôn ngữ gốc, người đọc có thể phát hiện ra
rằng, cũng giống như quy ước của một số ngôn ngữ Châu Âu về
hình thức kể chuyện, hai thì của động từ được Patrick Modiano sử
dụng thường xuyên là l’imparfait (quá khứ chưa hoàn thành) và
passé composé (quá khứ kép). Dấu hiệu ấy có thể dẫn đến kết
luận cả câu chuyện là dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” – cũng là
Jean, thời điểm mười tám tuổi thuộc về quá khứ. Tuy nhiên nếu
tiếp xúc qua văn bản dịch, độc giả vẫn có thể nhận ra được tính
chất hồi tưởng nhờ những dấu hiệu rải rác ở tác phẩm nhằm xác

định thời gian như các cụm từ chỉ xuất thời gian “ba mươi năm
sau”, “mười năm sau đó”.
Tiếp tục dựa vào các dấu hiệu thời gian chính xác và ước
chừng, bạn đọc tiếp tục xác định được thời điểm Jean gặp Gisèle
là năm 1963 nhờ lời hồi tưởng của Jean ở gần cuối truyện, khi cậu
quay trở lại quán cà phê gần Rạp Xiếc Mùa Đông “mười năm sau
đó” và lúc ấy được định vị là “khoảng năm 1973” (4,tr125). Đây
là tâm của những vòng tròn quá khứ được gợi ra trong suốt chiều


dài câu chuyện. Từ đó, thời gian trong Một gánh xiếc qua về cơ
bản được chia thành ba lớp lớn.
Lớp thứ nhất là thời gian niên thiếu. Khoảng thời gian này
được tái hiện thông qua suy tưởng, hồi cố. Những mốc thời gian
quan trọng là năm mười bốn tuổi và năm mười lăm tuổi.
Lớp thứ hai là thời thanh niên, được cô đặc trong sáu ngày
gặp Gisèle, năm Jean mười tám tuổi. Đây là lớp thời gian chiếm
dung lượng lớn trong tác phẩm, nếu không nói là chất liệu chính
trong cả cuốn tiểu thuyết.
Lớp thời gian thứ ba là khi trưởng thành, được chia thành
hai bậc, một là khi Jean hai mươi tám tuổi – tức mười năm sau và
bậc còn lại là ba mươi năm sau.
Nhìn chung có thể sơ đồ hóa ba lớp thời gian trong tiểu
thuyết như sau

T h ờ i

n i ê n

T h ờ i

T u ổ i

t h i ế u

t h a n h

n i ê n

t r ư ở n g

t h à n h


Quá trình bóc tách kết cấu thời gian của tác phẩm được ẩn
sau bề mặt câu chữ giúp người đọc nhận ra tính chất trần thuật
quán xuyến tác phẩm. Thao tác nhận diện kết cấu hồi cố có thể
giúp độc giả đặt ra giả thiết về ám ảnh quá khứ đến nhân vật cũng
như đặc trưng “quy hồi” ở nghệ thuật trần thuật của P. Modiano.
Ngoài ra ở tầng kết cấu không gian, “khoảng trống” tiềm ẩn
dưới bề mặt những tiểu không gian, địa chỉ, nơi chốn còn buộc
người đọc phải phát huy tri thức nền để làm rõ ẩn ý của nhà văn.
Trong toàn bộ tác phẩm, không gian Paris những năm 1960 đã
được chuyển hóa thành không gian nghệ thuật của tác phẩm.
Nhân vật liên tục di chuyển từ tả ngạn sông Seine sang hữu ngạn
sông, song mỗi lần dịch chuyển lại mang đến cảm giác khác biệt.
Hữu ngạn luôn tiềm ẩn nguy hiểm. Vụ mất tích của người đàn
ông cưỡi ngựa hay cuộc gặp gỡ với Guélin – tay nhà văn – mật
thám đều diễn ra bên bờ phải. Jean và Gisèle phải ra khỏi vùng an
toàn tả ngạn để bước vào cuộc phiêu lưu. Sang hữu ngạn, họ đồng
thời phải đối diện với hiểm nguy, bất trắc, đối diện với những đổ

vỡ, mất mát. Sang bờ phải, sức đề kháng của cả hai đều suy giảm.
Ngoài ra kỷ niệm về bố mẹ của Jean đa phần đều gắn với hữu
ngạn. Khu rừng Boulogne nơi cậu thường xuyên đi dạo cùng bố,
số 73 Haussmann – văn phòng trước đây của ông, hay khu nhà hát
phía Pigalle – nơi mẹ cậu biểu diễn, đều nằm phía hữu ngạn. Mỗi
lần đến gặp mẹ, Jean đều phải băng qua sông. Ngay cả Grabley –
người cộng sự thân cận với cha Jean, lãnh trách nhiệm chăm sóc


cậu, cũng gắn chặt với bờ phải. Những mối quan hệ, những nơi
chốn ông lui tới, tất thảy đều nằm bên hữu ngạn. Câu hỏi được đặt
ra, đó là tại sao lại có sự khác biệt trong cảm quan tả ngạn – hữu
ngạn như vậy, tại sao tả ngạn lại an toàn, vững tâm còn hữu ngạn
lại toàn gắn với những đổ vỡ và hiểm nguy. Dấu bỏ ngỏ ấy buộc
người đọc phải truy ngược về lịch sử Paris để lí giải “khoảng
trống” đang “vẫy gọi” sự đọc. Và với những bằng cứ sử học cũng
như quá khứ của nhà văn, người đọc bắt đầu làm sáng tỏ “điểm
chưa xác định” (Roman Ingarden) ấy. Cảm quan này có thể lý giải
bắt nguồn từ ấn tượng về lịch sử đô thành Paris. Trong thời kỳ
Chiếm đóng, ranh giới sông Seine cũng chia đôi Paris, hữu ngạn
là vùng hoạt động của những kẻ bắt tay với Đức quốc xã, trong
khi tả ngạn là vùng kháng chiến. Patrick Modiano được sinh ra và
lớn lên bên bờ trái sông Seine và trọn vẹn gửi gắm tuổi thơ ở đây.
Có lẽ ấn tượng về dấu vết của quá khứ nơi hai bờ sông Seine đã
để lại ám ảnh vô thức trong tâm trí cậu bé P. Modiano thời niên
thiếu. Để vượt qua bên bờ sông Seine sang phía hữu ngạn, P.
Modiano đã phải “cố át đi nỗi sợ” bởi “bước qua hữu ngạn, tôi
luôn có cảm giác đang bước vào một không gian tự do song cũng
tiềm ẩn những cuộc phiêu lưu mạo hiểm” và “ít nhất là trong trí
tưởng tượng của một đứa trẻ mười bốn tuổi, tôi không thể đến

hữu ngạn”. Cảm giác bất an như kẻ phạm tội khi bước đến bờ
phải bởi những đồn cảnh sát cùng các trạm kiểm soát đầy rẫy bên
tả đã trở thành rào cản với cả Modiano, và tất yếu phản chiếu vào


nhân vật của ông. Quá trình truy vấn để lấp đầy “khoảng trống”
tạo điều kiện cho người đọc thâm nhập vào tầng sâu văn bản để
phát hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
“Tính phủ định”
Gắn liền với “khoảng trống”, Iser cũng đưa ra khái niệm
“tính phủ định”. Nó được hiểu như “khoảng trống” về nội dung tư
tưởng của tác phẩm. “Tính phủ định” một mặt thỏa mãn sự chờ
đợi của người đọc, mặt khác lại phá vỡ nhận thức ban đầu của họ,
nó tồn tại trong văn bản như đặc tính “gây hấn”, thách thức mọi
kiến giải, quan niệm của độc giả.
Tiểu thuyết “Một gánh xiếc qua” cũng không vượt khỏi sự
ảnh hưởng bởi quy luật “phủ định” trong tiếp nhận. Cuốn sách
được xuất bản lần đầu ở Việt Nam vào năm 2018. Trước đó các
cuốn tiểu thuyết của Patrick Modiano đã được ra mắt bạn đọc Việt
Nam lần lượt là “Những đại lộ ngoại vi” (xuất bản năm 1997),
“Phố những cửa hiệu u tối” (xuất bản năm 2014), “Ở quán cà phê
của tuổi trẻ lạc lối” (xuất bản năm 2014) và “Quảng trường Ngôi
Sao” (xuất bản năm 2018). Ngoài ra Patrick Modiano còn được
giới thiệu ở công trình “Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỉ XXI”
(Phùng Văn Tửu, 1998) hay được Đặng Anh Đào trích dịch một
đoạn tiểu thuyết mang tính tự thuật “Livre Famille” (Sổ gia đình)
ở cuốn sách “Lịch sử văn học Pháp: Tuyển tác phẩm thế kỷ XX”.
Những tác phẩm và công trình nghiên cứu ấy cũng như quyết định
của Uỷ ban Hội đồng Nobel Thụy Điển trao tặng giải Nobel Văn



học cho Patrick Modiano vì đã “nghệ thuật ký ức đã giúp mô tả
những phận người khó nhận thức nhất và phơi bày cuộc sống trong
thời Đức quốc xã chiếm đóng” đã gắn chặt Modiano với cái nhãn
nhà văn của ký ức và thời kì Chiếm đóng. Bạn đọc Việt Nam vì
vậy khi tiếp nhận “Một gánh xiếc qua” đã không tránh được “tầm
đón nhận” về Patrick Modiano gắn với các chủ đề ký ức, lãng quên,
căn cước và đặc biệt là thế chiến thứ hai và thân phận Do Thái. Tại
thời điểm “Một gánh xiếc qua” ra đời ở Pháp vào năm 1992, độc
giả Pháp cũng không tránh khỏi những tiền đề hiểu biết ấy. Trong
quá trình tiếp xúc với văn bản, tầm đón nhận của độc giả vừa được
định hướng trước và làm thỏa mãn vừa đồng thời bị phủ định, phá
vỡ. Cảm thức về quá khứ, ám ảnh hư vô và khao khát truy tìm căn
cước – những vấn đề làm nên phong cách P. Modiano vẫn được bảo
lưu trong tác phẩm, tuy nhiên quan niệm mặc định Patrick Modiano
là nhà văn của thời kì Chiếm đóng đã bị phá vỡ. Thân phận Do
Thái hay thời kì Đức quốc xã tròng xiềng xích và rẩy máu lên Paris
đã không còn là dòng chủ lưu trong “Một gánh xiếc qua”. Nếu vẫn
áp quan niệm đó vào quá trình đọc văn bản, người đọc có thể bị
đánh lạc hướng và đi quá xa so với thực tế văn bản.
Tiếp xúc với văn bản, người đọc hồi hộp theo dõi và không
ngừng phỏng đoán về sự phát triển của nhân vật song đôi khi diễn
biến lại hoàn toàn có thể khiến chúng ta bất ngờ. Văn bản tác phẩm
như khiêu khích mọi giả thiết và sự đón chờ của độc giả. Vào lần
đầu Jean và Gisèle gặp gỡ, độc giả không thể ngờ đến mối quan hệ


chóng vánh của hai người. Trong sáu ngày ngắn ngủi, mối quan hệ
ấy đã phát triển đến độ khăng khít, họ vừa là tình nhân, vừa là
“đồng phạm” dính líu đến những phi vụ mờ ám, lại cùng liên minh

để chống lại xã hội bên ngoài.
Hay ngay lúc độc giả tưởng như cả hai đã có thể bắt đầu
cuộc sống mới thì mạch truyện lại hoàn toàn đi theo hướng trái
ngược. Rome đã cận kề, cả hai đã sẵn sàng cho chuyến đi, một
tương lai đầy hứa hẹn để làm lại cuộc đời, xóa đi căn cước thương
tổn, dị tật. Nhưng cái tin Gisèle bị tai nạn đến như một cơn gió
mạnh thổi tắt mọi ngọn nến hy vọng. Sự kiện diễn ra ngẫu nhiên,
nằm ngoài sự chờ đợi của độc giả, gây ra sự bất ngờ.
Sự biến mất không dấu vết của con người giữa một đô thành
lớn, những cái chết diễn ra bất ngờ, những mối tình chóng vánh,
tất cả mang đến cảm thức hư vô, không chắc chắn về cuộc đời.
Mọi thứ đều bất ổn, bất định. Cảm thức ấy làm đổ vỡ mọi niềm
tin của độc giả về tất cả những gì ổn định và chắc chắn. Nó bắt
người đọc phải đối diện với một thế giới ngự trị bởi tổn thương,
hoang mang và lạc lối, đối diện với nỗi cô đơn bản thể.
Khi quá trình đọc hoàn tất, người đọc thấy bản thân bị phủ
định, quan niệm ban đầu về cuốn tiểu thuyết bị phá vỡ, khiến tầm
đón nhận theo đó cũng đổi thay. Tính phủ định vì thế tạo ra thay
đổi về chất, giúp nâng cao tư duy cũng như kinh nghiệm đọc. Mặt
khác nó cũng tạo nên tính hấp dẫn của văn bản. Những sự kiện,
những hướng vận động không thể đoán định trước không khỏi


làm độc giả ngạc nhiên và cảm thấy thích thú. Nó góp phần tạo độ
mở cho văn bản. Tính phủ định là căn tính tất yếu của một tác
phẩm nghệ thuật thực sự bởi lẽ nếu tầm đón được hoàn toàn thỏa
mãn thì “những văn bản đó có thể bị trói buộc vào sự cá biệt hóa
một tầm đón định trước nào đấy… Chúng tôi cảm thấy mãnh liệt
rằng, bất kỳ hiệu quả nào có tác dụng chứng thực cho bất kỳ tầm
đón nào… là một khuyết điểm trong một văn bản văn học. Bởi vì

một văn bản càng cá biệt hóa hoặc chứng thực cho tầm đón một
sự chờ đợi do nó gợi lên lúc đầu, thì chúng ta càng biết được mục
đích thuyết giáo của nó, từ đó chúng ta chỉ có thể ra sức tiếp nhận
hoặc cự tuyệt cái chủ đề gượng ép đó” (dẫn theo, 3, tr555) Mà đi
theo hướng nào cũng có phần không phải. Ra sức tiếp nhận một
mệnh đề có sẵn sẽ xơ cứng hóa tác phẩm nghệ thuật, còn cự tuyệt
nó lại dẫn đến sự hoang mang trong tiếp nhận. Bởi vậy một văn
bản lí tưởng vừa có khả năng gợi lên những điều quen thuộc ở
độc giả, lại vừa có khả năng phá bỏ, tạo cơ hội cho người đọc tiếp
xúc với những điều mới mẻ, hấp dẫn.
“Người đọc tiềm ẩn”
Không giống với khái niệm người đọc thực tế hay người đọc
lí tưởng, “người đọc tiềm ẩn” là thuật ngữ Wolfgang Iser đưa ra
để chỉ người đọc trông mong mà tác giả hướng đến. Trong quá
trình viết, nhà văn đồng thời chịu sự chi phối của người đọc tưởng
tượng, mọi kết cấu được tạo dựng đều nhằm hướng đến một đối
tượng độc giả cụ thể, với mong muốn họ có thể hiểu được ý đồ


nghệ thuật của bản thân người viết. “Người đọc tiềm ẩn” vì thế là
người đọc khả năng “được nhà văn mong đợi với tính cách và
hoàn cảnh thuận lợi nhất để khám phá ý nghĩa tiềm tại của văn
bản, tất nhiên không phải bị động, mà với tất cả sự chủ động sáng
tạo của họ” (3,tr556). Do vậy đối tượng độc giả này tuy chỉ là
tưởng tượng song lại có khả năng tác động đến văn bản. Mặt khác
nó cũng tạo ra quá trình chi phối ngược trở lại người đọc, hướng
độc giả đến hình mẫu đó. Nói cách khác, quan niệm về “người
đọc tiềm ẩn” tồn tại khả năng chi phối quá trình sáng tạo và tiếp
nhận, hay cũng là hai cực nghệ thuật (artistic) và thẩm mỹ
(aesthetic) (mà Iser đề cập đến như đặc trưng hai cực của văn bản

nghệ thuật).
Bởi sáng tác là một quá trình riêng tư nên việc thay nhà văn
phát ngôn về “người đọc tưởng tượng” mà nhà văn đặt ra có phần
khiên cưỡng. Do vậy người viết sẽ chỉ dừng lại ở một số giả thiết
về kiểu loại độc giả này như một cách phỏng đoán mẫu hình
người đọc mà Patrick Modiano mong đợi.
Với “Một gánh xiếc qua” – cuốn tiểu thuyết của nhà văn
đương đại Pháp, lấy bối cảnh không gian – thời gian là Paris thập
niên 60 của thế kỉ trước, hẳn người đọc tiềm ẩn sẽ là những người
có hiểu biết về đặc trưng Paris thời kì đó. Những dụng ý trong
việc sử dụng những địa chỉ thực, chính xác hay tạo ra những địa
chỉ giả chỉ thực sự được nhìn nhận như ý đồ nghệ thuật khi bản
thân người đọc phải am hiểu địa hình Paris. Bởi vậy lớp độc giả


Parisians với sự thông thuộc đường phố Paris chính là yếu tố đầu
tiên của “người đọc tiềm ẩn”. Những bạn đọc không thuộc cộng
đồng Parisians, cũng chưa từng đặt chân đến Pháp, vì thế buộc
phải tìm hiểu địa đồ thành phố như một cách trang bị kiến thức
nền tảng để hiểu được ý đồ của nhà văn.
Hành động đọc (The reading process)
Theo quan điểm của W. Iser, hành động đọc sẽ diễn ra theo
quá trình ba bước.
Bước thứ nhất: Người đọc tri nhận văn bản theo trục tuyến
tính, nhận thức cũng sẽ xuất hiện dần dần, kéo theo sự thay đổi từ
từ của tiền ý hướng. Khi va chạm với từng yếu tố của văn bản,
đầu tiên có thể là nhan đề, tiếp đó là ngôn ngữ, nhân vật, chi tiết
hay kết cấu tổng thể,… tiền ý hướng sẽ tự động diễn ra quá trình
thay thế lẫn nhau. Quá trình đọc là quá trình liên tục nảy sinh và
chuyển hóa tiền ý hướng. Nó gắn liền với nhận thức chủ quan của

độc giả. Có thể yếu tố nghệ thuật này có thể làm nảy sinh tiền ý
hướng mới ở người đọc này nhưng lại không tác động đến người
đọc khác.
Bước thứ hai: Chính bởi sự chuyển biến không ngừng trong
hoạt động đọc nên sau khi kết thúc hành động đọc, người đọc tiếp
tục phải làm công việc mang tính khái quát hóa, đó là tổng hợp
lại, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Quá trình này được Iser
gọi là sự “hoàn hình” song đồng thời ông cũng lưu ý, sự “hoàn


hình” không phải ý nghĩa đích thực của văn bản mà là ý nghĩa của
văn bản hình thành trong mối giao lưu giữa văn bản tác phẩm và
sự tiếp nhận của người đọc. Hoạt động “hoàn hình” không tách
rời với “kết cấu vẫy gọi” của văn bản tác phẩm, làm nảy sinh tiền
ý hướng mới, mang văn bản tác phẩm đến gần hơn với nhận thức
của độc giả.
Bước thứ ba: Quá trình chuyển hóa tiền ý hướng cũng như
“hoàn hình” văn bản đã dẫn đến “sự nâng cao ý thức bản thân”
của độc giả. Hành động đọc kết thúc với sản phẩm là một người
đọc mới được tái sinh. Tầm đón nhận mới được xây dựng đã bồi
đắp thêm kinh nghiệm thẩm mĩ cho bản thân người tiếp nhận.
Văn bản không còn là một thực thể xa lạ mà đã trở nên gần gũi
mà thông qua đó, người đọc “có thể hình thành nên bản thân
mình, từ đó phát hiện ra thế giới bên trong mà từ trước đến nay
chúng ta chưa ý thức đến” (3,tr559).
Áp dụng mô hình ba bước của hành động đọc theo quan
niệm của Iser, người viết sẽ tiến hành đọc tiểu thuyết “Một gánh
xiếc qua” của Patrick Modiano.
Việc áp dụng lý thuyết “khoảng trống” vào hoạt động đọc
tác phẩm đã được người viết trình bày ở mục [1.2]. Từ những kết

quả thu được, dễ nhận thấy tiền ý hướng của người đọc (trong
trường hợp này là bản thân người viết) đã có sự thay đổi không
ngừng. Đơn cử một ví dụ, từ hiểu biết về Paris chỉ dừng lại ở việc
biết sông Seine là ranh giới chia cắt Paris thành hai bên tả ngạn và


hữu ngạn, qua quá trình đọc và tìm hiểu, lý giải cảm thức về hai
bờ sông Seine ở nhân vật Jean, tiền ý hướng của người đọc đã
được bồi đắp thêm về ý nghĩa của dòng sông với lịch sử Paris và
cảm quan của Patrick Modiano. Nó tạo thành tiền ý hướng mới
làm tiền đề cho việc lí giải một số chi tiết trong tác phẩm hay cho
việc tiếp nhận những tiểu thuyết khác của Modiano.
Sau khi nhận thức đã trải qua quá trình nảy sinh không
ngừng tầm đón nhận mới, người đọc tiến hành bước thứ hai,
“hoàn hình” tác phẩm. Tiểu thuyết “Một gánh xiếc qua” trong tiếp
nhận của người viết là một sáng tác đầy ắp cảm thức cô đơn và sự
lạc lõng, bất an về thế giới và về chính mình. Hành trình Jean và
Gisèle rong ruổi trên khắp đường phố Paris thực chất là cách trốn
chạy bản thân và những ám ảnh quá khứ không ngừng đeo bám.
Câu chuyện kết thúc lửng lơ ở một thời điểm quá khứ, tạo ra tính
không hoàn kết, như bỏ lửng cảm xúc của cả nhân vật lẫn người
tiếp nhận. Mọi thứ trở nên mơ hồ, khó xác định. Người đọc đặt ra
một giả thiết, liệu toàn bộ câu chuyện có phải cũng là những điều
mơ hồ, không đáng tin? Liệu có một chàng trai tên Jean và cô gái
Suzanne Krayy ẩn mình trong lớp vỏ Gisèle hay tất cả chỉ là sự
đánh lừa của ký ức?
Quá trình đọc tạm kết thúc (người viết nhấn mạnh “tạm kết
thúc” là bởi hoạt động đọc một văn bản tác phẩm là một quá trình
không hồi kết), kinh nghiệm thẩm mĩ của người đọc cũng tăng
lên. Chỉnh thể tác phẩm được tái tạo không chỉ mang đến cho



người đọc nhận thức rõ ràng hơn về bản thân tác phẩm mà còn
hình thành sự tự ý thức. Tiền ý hướng giai đoạn trước khi tiếp xúc
với văn bản đã bị phủ định bởi những tiền ý hướng mới, quá trình
ấy tạo ra một người đọc mới với trải nghiệm thẩm mĩ phong phú
và sâu sắc hơn. Ngoài ra thế giới nghệ thuật của “Một gánh xiếc
qua” còn mở ra cho người đọc cảm quan mới mẻ về cuộc sống.
Niềm tin vào một thế giới ổn định, bất biến đã bị phá vỡ bởi tính
mơ hồ, bất định. Sự chắc chắn hoàn toàn không còn tồn tại.
Người đọc bước đầu hình thành được ý thức nhìn mọi thứ bằng
con mắt hoài nghi và không ngừng truy vấn mọi điều. Bên cạnh
đó câu chuyện của Jean còn khơi gợi mối đồng cảm ở người đọc
về những bất an, lo lắng của tuổi trẻ. Sự hoang mang, những
thương tổn, vụn vỡ, hoài nghi ở cậu phần nào đó cũng có những
điểm gần gũi với tâm thức của đa phần lớp trẻ. Những trống rỗng,
hoang mang của tuổi trưởng thành tạo nên nỗi cô đơn và thậm chí
sự tự đánh mất chính mình, khiến những người trẻ trở thành
những kẻ lạc lối và xa lạ với chính bản thân.
Bởi vậy có thể nói khi quá trình đọc đã tạm hoàn tất, độc giả
được “phát hiện” ra mình, điều đó tạo nên khoái cảm thẩm mĩ,
cũng là giá trị một văn bản nghệ thuật hướng đến trong quá trình
giao lưu với người đọc. Sau hoạt động tiếp nhận văn học, những
độc giả mới được sản sinh, đó là thành tựu lớn nhất mà văn học
nghệ thuật có khả năng mang lại.
Kết luận


Áp dụng lý thuyết Mỹ học tiếp nhận của Wolfgang Iser để
thực hành đọc trên văn bản “Một gánh xiếc qua” của Patrick

Modiano, người đọc có cơ hội kiến tạo tác phẩm trên cơ sở lí giải
ẩn ý của nhà văn thông qua nhãn quan cá nhân. Tiểu thuyết hiện
ra như một “kết cấu vẫy gọi” hấp dẫn người đọc. Trải qua ba bước
của “hành động đọc”, độc giả đã hoàn thành quá trình tiếp cận
văn bản một cách bài bản và có thể tự trải nghiệm sự thay đổi tầm
đón nhận ở bản thân.
Ở Việt Nam, Mỹ học tiếp nhận đã được Nguyễn Văn Dân
giới thiệu từ năm 1985 song chưa thực sự phát triển (theo (1)) bởi
chưa có nhiều công trình nghiên cứu công phu, bài bản. Thiết
nghĩ hướng lý thuyết này nên được nhìn nhận và đánh giá xứng
tầm hơn để có thể tận dụng, phát huy tiềm năng. Bởi quan niệm
coi người đọc là trung tâm của hoạt động đọc có thể dẫn đến sự
xem nhẹ vai trò của tác giả hay đi quá xa so với văn bản nên Mỹ
học tiếp nhận nên được kết hợp với các lý thuyết khác để tạo ra sự
cân bằng, tránh đi vào phía cực đoan, đồng thời lại phát huy được
ưu điểm dân chủ, sáng tạo, độc lập trong tiếp nhận văn học.



×